1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Câu trong lời trần thuật ở tiểu thuyết ba ngôi của người của nguyễn việt hà

103 5 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Câu Trong Lời Trần Thuật Ở Tiểu Thuyết Ba Ngôi Của Người Của Nguyễn Việt Hà
Tác giả Hồ Thị Tuyết
Người hướng dẫn TS. Đặng Lưu
Trường học Trường Đại Học Vinh
Chuyên ngành Ngữ Văn
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2015
Thành phố Nghệ An
Định dạng
Số trang 103
Dung lượng 792,49 KB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài (6)
  • 2. Đối tƣợng nghiên cứu (7)
  • 3. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu (7)
  • 4. Phương pháp nghiên cứu (7)
  • 5. Cái mới của luận văn (8)
  • 6. Cấu trúc luận văn (8)
  • Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI (9)
    • 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu (9)
    • 1.2. Cơ sở khoa học của đề tài (13)
      • 1.2.1. Thể loại tiểu thuyết (13)
      • 1.2.2. Ngôn ngữ tiểu thuyết (22)
    • 1.3. Những đòi hỏi của việc nghiên cứu câu văn trong tiểu thuyết đương đại Việt Nam (27)
      • 1.3.1. Những quan niệm về câu tiếng Việt (27)
      • 1.3.2. Những đòi hỏi của việc nghiên cứu câu trong văn bản tiểu thuyết (28)
    • 1.4. Nguyễn Việt Hà với tiểu thuyết Ba ngôi của người (30)
      • 1.4.1. Vài nét về nhà văn Nguyễn Việt Hà (30)
      • 1.4.2. Tiểu thuyết Ba ngôi của người (31)
  • Chương 2. CÂU TRONG TIỂU THUYẾT BA NGÔI CỦA NGƯỜI XÉT VỀ CẤU TẠO NGỮ PHÁP VÀ MỤC ĐÍCH PHÁT NGÔN (35)
    • 2.1. Vấn đề phân loại câu tiếng Việt theo cấu tạo ngữ pháp và việc nghiên cứu câu trong văn bản tiểu thuyết từ góc độ cấu tạo ngữ pháp (35)
      • 2.1.1. Vấn đề phân loại câu tiếng Việt theo cấu tạo ngữ pháp (0)
      • 2.1.2. Việc nghiên cứu câu trong văn bản tiểu thuyết từ góc độ cấu tạo ngữ pháp (39)
      • 2.2.1. Tổng quan về câu văn trong tiểu thuyết Ba ngôi của người nhìn từ góc độ cấu tạo ngữ pháp (43)
      • 2.2.2. Câu đơn trong Ba ngôi của người (45)
      • 2.2.3. Cách tạo câu ghép (58)
    • 2.3. Đặc điểm câu trong tiểu thuyết Ba ngôi của người xét về mục đích phát ngôn (62)
      • 2.3.1. Việc tìm hiểu câu trong văn bản nghệ thuật ở phương diện mục đích phát ngôn (62)
      • 2.3.2. Câu trong Ba ngôi của người xét về mục đích phát ngôn (63)
  • Chương 3. CÂU TRONG TIỂU THUYẾT BA NGÔI CỦA NGƯỜI XÉT VỀ TU TỪ CÚ PHÁP VÀ VAI TRÒ NGHỆ THUẬT (71)
    • 3.1. Tu từ cú pháp và việc sử dụng tu từ cú pháp trong sáng tạo văn học (71)
      • 3.1.1. Vấn đề tu từ cú pháp (71)
      • 3.1.2. Việc sử dụng tu từ cú pháp trong sáng tạo văn học (72)
    • 3.2. Một số biện pháp tu từ nổi bật trong Ba ngôi của người (74)
      • 3.2.1. So sánh (74)
      • 3.2.2. Tách câu (78)
      • 3.2.3. Phép điệp (80)
    • 3.3. Vai trò nghệ thuật của câu trong Ba ngôi của người (84)
      • 3.3.1. Miêu tả ngoại cảnh, tái hiện lịch sử (84)
      • 3.3.2. Khắc họa nhân vật (86)
      • 3.3.3. Phẩm bình, triết lý (90)
  • KẾT LUẬN (95)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (98)

Nội dung

Đối tƣợng nghiên cứu

Với đề tài này, luận văn hướng tới hai đối tượng sau đây:

- Một số vấn đề câu trong văn bản tiểu thuyết

- Câu trong tiểu thuyết Ba ngôi của người của Nguyễn Việt Hà xét về các khía cạnh.

Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu đặc điểm cấu tạo ngữ pháp và tu từ cú pháp của câu trong tiểu thuyết "Ba ngôi" của Nguyễn Việt Hà, nhằm đánh giá sự sáng tạo ngôn ngữ của tác giả Qua đó, bài viết phân tích mục đích biểu đạt của câu trong tác phẩm, làm nổi bật những điểm độc đáo trong cách sử dụng ngôn ngữ của nhà văn.

Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp và thủ pháp nghiên cứu sau đây:

Phương pháp thống kê ngôn ngữ học sử dụng các ngữ liệu khảo sát để nắm bắt chính xác mặt định lượng Dựa trên những số liệu này, phương pháp này cho phép phân tích và rút ra những kết luận định tính về ngôn ngữ.

Thủ pháp phân tích, miêu tả và tổng hợp là những kỹ thuật quan trọng trong việc xử lý dữ liệu đã được thống kê và phân loại Qua quá trình phân tích và miêu tả, luận văn sẽ tổng hợp thành các luận điểm rõ ràng, liên kết với từng mục và ý được triển khai một cách mạch lạc.

Thủ pháp đối sánh là công cụ quan trọng giúp phân tích nét riêng của câu văn trong tiểu thuyết "Ba ngôi của người" của Nguyễn Việt Hà Để hiểu rõ hơn về đặc điểm câu văn của tác giả, cần so sánh với các tác phẩm của những nhà văn cùng thời Qua đó, ta có thể nhận diện những điểm giống và khác biệt, từ đó làm nổi bật phong cách sáng tác độc đáo của Nguyễn Việt Hà.

Cái mới của luận văn

Tiểu thuyết "Ba ngôi" của Nguyễn Việt Hà vừa mới ra mắt và đã thu hút sự chú ý của độc giả, tuy nhiên, vẫn còn thiếu hụt các bài viết phân tích tác phẩm này Bài viết này là nghiên cứu đầu tiên tập trung vào câu văn trong tiểu thuyết, nhằm đánh giá một khía cạnh quan trọng trong hình thức nghệ thuật của tác phẩm.

Cấu trúc luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn sẽ đƣợc triển khai trong ba chương:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở khoa học của đề tài

Chương 2: Câu trong tiểu thuyết Ba ngôi của người xét về cấu tạo ngữ pháp

Chương 3: Câu trong tiểu thuyết Ba ngôi của người xét về tu từ cú pháp và mục đích biểu đạt.

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI

Tổng quan tình hình nghiên cứu

Trong nền văn học đương đại, tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà đã thu hút sự chú ý của độc giả và giới nghiên cứu ngay từ khi ra mắt Bài viết này sẽ điểm lại một số bài báo thể hiện những quan điểm đa dạng về tiểu thuyết của ông, đặc biệt là tác phẩm "Ba ngôi của người" Các nhà phê bình đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng luận văn này sẽ tập trung vào những nhận định liên quan đến ngôn ngữ trong tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà, đặc biệt là những ý kiến về ngôn ngữ trong "Ba ngôi của người".

Vào năm 1999, trên báo Nhân Dân, Trần Mạnh Hảo đã chỉ trích sự lệch lạc trong sáng tạo của Nguyễn Việt Hà qua bài phê bình mang tên “Cơ hội của Chúa, còn cơ hội nào cho văn chương?” Ông bày tỏ sự không hài lòng về việc Nguyễn Việt Hà sử dụng từ ngữ nước ngoài một cách tự do trong tác phẩm này, điều mà nhiều nhà phê bình khác cũng đã nhận thấy.

Giọng điệu phủ nhận khá nặng nề ấy ta cò bắt gặp trong một bài viết của Nguyễn Hòa: “Cơ hội của Chúa: Chúa cũng không giúp đƣợc gì” (2004)

Nguyễn Hòa nhận xét rằng văn phong của Nguyễn Việt Hà bị ảnh hưởng bởi Phạm Thị Hoài và Nguyễn Huy Thiệp, thể hiện qua cái nhìn chua chát và giễu cợt Ông phê phán rằng Nguyễn Việt Hà mắc lỗi kỹ thuật khi không điều chỉnh giọng văn, khiến cho giọng tác giả chi phối các lời kể của nhân vật như Nhã, Tâm và Thuỷ.

Việt Hà không thể hiện rõ ràng ngôn ngữ của nhân vật, dẫn đến sự không phân biệt giữa ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ nhân vật Nguyễn Hòa nhận định rằng Nguyễn Việt Hà vẫn còn nhiều tiềm năng phát triển, đặc biệt qua tác phẩm "Cơ hội của Chúa", cho thấy những yếu tố kỹ thuật đáng chú ý Điều này tạo ra hy vọng cho độc giả về những bước tiến trong tương lai của tác giả.

Nhà phê bình Đoàn Cầm Thi trong bài viết “Cơ hội của Chúa: từ nhật ký đến hậu trường văn học” (2004) đã bày tỏ sự cuốn hút của tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà chủ yếu từ nghệ thuật kể chuyện độc đáo Bà nhận định rằng tác phẩm này là một lò thử nghiệm văn phong phong phú, với nhiều thể loại như tự sự, văn nhái, và truyện lồng truyện Đặc biệt, các nhân vật trong tác phẩm không ngừng thể hiện cái “tôi” của mình thông qua nhiều hình thức như đối thoại, độc thoại và nhật ký, trong khi ngôn từ chính là lĩnh vực mà họ sống động nhất, từ tình yêu đến tình bạn.

Tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà được viết theo thi pháp hậu hiện đại, thể hiện những nỗ lực tìm kiếm cái mới trong văn chương Phùng Gia Thế (2009) nhấn mạnh rằng mặc dù những tìm tòi của tác giả chưa hoàn toàn đáp ứng được kỳ vọng của độc giả, nhưng vẫn có những thành tựu quan trọng đáng ghi nhận Việc chơi với ngôn từ của Nguyễn Việt Hà thể hiện sự mệt mỏi nhưng cũng là sự dũng cảm và thành thực trong sáng tạo Bài viết không chỉ khẳng định những nét mới trong tiểu thuyết của ông, mà còn góp phần vào nghiên cứu các dấu hiệu hậu hiện đại trong văn xuôi Việt Nam từ sau 1986, phản ánh xu hướng phát triển và hội nhập với văn chương thế giới.

Nguyễn Huy Thiệp, người rất thân thiết với Nguyễn Việt Hà, đã đánh giá cao những khám phá của nhà văn này trong lĩnh vực tiểu thuyết Ông nhận thấy ở Nguyễn Việt Hà một thi pháp độc đáo mà ông gọi là “thi pháp túy quyền”.

Nguyễn Việt Hà là một nhà văn độc đáo trong nền văn học Việt Nam, với phong cách "túy quyền" đầy sáng tạo và thành công Ông thể hiện thực tại một cách dung tục, cho rằng chỉ có say xỉn mới có thể chấp nhận và viết về nó Lối viết của ông, với cách đặt câu đặc biệt như "đôi mắt mênh mông buồn," tạo ra sự lộn xộn khó chịu nhưng cũng đầy cuốn hút Không giống như những nhà văn khác, Nguyễn Việt Hà không chỉ đơn giản hóa mệnh đề, khiến độc giả và ngay cả chính ông phải băn khoăn về vị trí của tác phẩm: văn học hay á văn học, hiện thực hay siêu hiện thực.

Nguyễn Việt Hà trong tác phẩm "Ba ngôi của người" đã tái hiện chân dung Hà Nội qua tư liệu lịch sử, với ngôn từ giản dị, gần gũi, đôi khi thô mộc, nhưng điều này lại làm nổi bật tính thực tế của câu chuyện, như Thiện Nguyễn (2014) đã nhận xét.

Nguyễn Việt Hà trong tác phẩm "Ba ngôi của người" thường sử dụng những câu ngắn, thẳng thắn, tạo cảm giác mạnh mẽ cho người đọc Ông thể hiện cá tính và cái nhìn độc đáo về từng nhân vật, đồng thời giữ vai trò quan sát từ một khoảng cách nhất định Điểm nhìn trong tác phẩm liên tục thay đổi giữa nhân vật, nhà văn và người quan sát Về mặt kỹ thuật, Việt Quỳnh nhận thấy Nguyễn Việt Hà áp dụng những cấu trúc sáng tạo, như thủ pháp "truyện trong truyện" (mise en abîme), vào tác phẩm của mình một cách tự nhiên Mặc dù "Khải huyền muộn" không phải là một tiểu thuyết xuất sắc, nhưng vẫn được xem là chấp nhận được, đặc biệt là khi so với những tác phẩm khác của ông.

Ba ngôi của người, với rất nhiều độc giả, vẫn là một tác phẩm hay” [52]

Nhị Linh (Cao Việt Dũng) đã có những đánh giá khá khắt khe về cuốn tiểu thuyết "Ba ngôi của người" của Nguyễn Việt Hà Ông nhận xét rằng Nguyễn Việt Hà thường áp dụng những cấu trúc lạ vào tác phẩm, điều này có thể gây ngạc nhiên cho độc giả Mặc dù "Ba ngôi của người" không phải là một tiểu thuyết xuất sắc, nhưng nó vẫn chấp nhận được và được nhiều độc giả yêu thích Nhị Linh cũng cho rằng sự nghiệp văn chương của Nguyễn Việt Hà đã đủ đầy, và giờ là lúc để chuyển sang những câu chuyện khác.

Văn chương của Nguyễn Việt Hà, mặc dù thể hiện sự lên án mạnh mẽ về "đạo đức giả" và "giả dối", lại mang trong mình những yếu tố tinh vi của chính những điều này Tác phẩm "Ba ngôi của người" đã chỉ ra một kiểu giả dối mới mẻ của Hà Nội, được hình thành qua những biến động trong xã hội, từ những mối quan hệ tình cảm đến những quán rượu ven sông Khái niệm "hương nguyện" mà Nguyễn Việt Hà đề cập đến phản ánh sự hiểu biết sâu sắc của anh về bản chất của văn chương hiện đại, thể hiện qua lối viết tinh tế và sắc sảo.

Các ý kiến từ các bài viết đã chỉ ra rằng, mặc dù các tác giả chưa có điều kiện và có lẽ cũng chưa có nhu cầu khảo sát sâu sắc các khía cạnh ngôn ngữ trong tiểu thuyết "Ba ngôi của người", nhưng họ đã nhạy bén nhận thấy rằng từ ngữ, giọng điệu và câu văn trong tác phẩm này là "có vấn đề" Những ý tưởng của các nhà phê bình này đã phần nào gợi dẫn cho chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu mà chúng tôi đã chọn.

Cơ sở khoa học của đề tài

Mỗi thể loại văn học, bao gồm tiểu thuyết, đều hình thành từ sự kết hợp của nhiều điều kiện và yếu tố Theo giới nghiên cứu hiện nay, tiểu thuyết chỉ có thể xuất hiện khi đáp ứng bốn điều kiện cơ bản.

Tiểu thuyết, một thể loại văn học ra đời muộn hơn so với các thể loại khác, gắn liền với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản trong lịch sử xã hội loài người Heghen xem tiểu thuyết là sử thi lịch sử hiện đại, trong khi Banzac coi nó là tấn kịch tư sản, phản ánh bản chất của xã hội thị trường và tự do cá nhân Ý thức tự do cá nhân đóng vai trò quan trọng trong sự ra đời và phát triển của tiểu thuyết Hơn nữa, tiểu thuyết mang tính chất dân chủ và chỉ có thể phát triển trong môi trường mà sự dân chủ được tôn vinh.

Tiểu thuyết ra đời gắn liền với tính dân chủ của các lễ hội văn hóa dân gian, đặc biệt là lễ hội Carnaval Mỗi thể loại nghệ thuật đều có nguồn gốc riêng của nó.

Theo Bakhtin, tiểu thuyết là thể loại văn học sinh sau đẻ muộn, phát triển từ các thể loại trước đó, và ở Trung Quốc, nó ra đời từ sự phân rã của thần thoại (Lỗ Tấn) Tại Việt Nam, Văn Ngọc cho rằng tiểu thuyết phát triển dựa trên phóng sự Trường phái phân tâm học, do Freud đề xướng, cho rằng văn học là kết quả của sự thăng hoa những ám ảnh vô thức Quá trình sáng tác nghệ thuật là sự chạy trốn thực tại, chuyển hóa những ham muốn vô thức thành hình tượng nghệ thuật Freud nhấn mạnh rằng bản năng tình dục là nguyên nhân chính của mọi sáng tạo, và nghệ sĩ, như một "bệnh nhân thần kinh", tạo ra tác phẩm nghệ thuật như một cách giải thoát khỏi căng thẳng tâm hồn.

Tiểu thuyết là thể loại văn học thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu và phê bình cả trong và ngoài nước Khái niệm tiểu thuyết và chức năng của nó luôn gây tranh cãi, với nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược Việc tìm kiếm một định nghĩa đầy đủ về tiểu thuyết để phù hợp với mọi tình huống văn học là điều khó khăn, do tiểu thuyết có nhiều xu hướng khác nhau và mỗi nhà nghiên cứu lại có quan điểm riêng.

Theo các nhà nghiên cứu, tiểu thuyết xuất hiện ở châu Âu vào cuối thời kỳ nghệ thuật cổ đại, khi đời sống cá nhân bắt đầu được chú ý trong văn học Bêlinxki cho rằng, trong khi đời sống cá nhân không thể là nội dung của anh hùng ca Hi Lạp, nó lại có thể là nội dung của tiểu thuyết Tiểu thuyết, ra đời sau thơ ca, là một thể loại linh hoạt, luôn thay đổi theo thời gian Nó được coi là thể loại văn học duy nhất đang trong quá trình chuyển biến và chưa định hình rõ ràng Nhiều định nghĩa về tiểu thuyết đã được đưa ra, phản ánh sự đa dạng trong cách diễn giải và quan điểm Hêghen mô tả tiểu thuyết là sử thi tư sản hiện đại, nhấn mạnh đến yếu tố kinh tế, trong khi Bêlinxki gọi nó là sử thi của đời tư.

Tiểu thuyết miêu tả những cảm xúc, dục vọng và biến cố trong đời sống riêng tư và nội tâm của con người, là sự tái hiện thực tại với sự thật trần trụi, tạo nên bức tranh sinh động và thống nhất Theo từ điển Larousse, tiểu thuyết là sản phẩm của trí tưởng tượng, một truyện dài bằng văn xuôi, phản ánh cuộc phiêu lưu và phong tục, nhằm thu hút người đọc Bakhtin cho rằng tiểu thuyết là sản phẩm tinh thần của thời đại mới, thể hiện tư duy văn học hiện đại gắn liền với con người như cá thể độc lập, tạo nên một thể loại dân chủ, đang phát triển và vận động Tiểu thuyết không chỉ là thể loại chủ đạo của văn học hiện đại mà còn thu hút các thể loại khác, làm cho ngôn ngữ tiểu thuyết trở nên đa thanh và thiết lập mối quan hệ mới giữa ngôn ngữ và thế giới thực Tại Trung Quốc, thuật ngữ tiểu thuyết mang ý nghĩa rộng lớn hơn nữa.

Nhà nghiên cứu Phương Lựu đã tổng kết ý nghĩa tiểu thuyết qua các thời đại ở Trung Quốc, cho rằng chữ “tiểu thuyết” xuất hiện lần đầu trong Ngoại Thiên sách của Trang Tử với hàm nghĩa gần gũi với học thuyết hơn là văn học Đến thời Hán, Ban Cố trong Hán thư cho rằng tiểu thuyết gia là một trong mười nhà văn, họ thu thập lời nói từ các thôn ngõ để viết Khổng Tử cũng nhấn mạnh rằng dù là con đường nhỏ, vẫn có giá trị để xem xét Hoàn Đàm cùng thời với Ban Cố cho rằng tiểu thuyết là những tác phẩm ngắn dùng để sửa mình và sắp xếp việc nhà Vào thời Minh, Phùng Mộng Long định nghĩa tiểu thuyết là mọi tác phẩm ngoài Lục kinh quốc sử, trong khi Tiêu Hoa chủ nhân cho rằng đó là sách của bọn tài tử Tại Việt Nam, Phạm Quỳnh là người đầu tiên đưa ra khái niệm tiểu thuyết vào năm 1921, cho rằng đó là truyện viết bằng văn xuôi để tả tình cảm và phong tục xã hội Từ đầu thế kỷ XX, tiểu thuyết đã phản ánh cuộc sống hiện thực, không dựa vào các đề tài hoang đường Các nhà văn như Vũ Trọng Phụng và Khái Hưng đã khẳng định tiểu thuyết cần phản ánh sự thực của đời sống, với những cảm xúc và vấn đề phong phú, từ niềm vui đến nỗi buồn trong cuộc sống.

Những quan niệm của các nhà văn đầu thế kỷ XX về đối tượng phản ánh cho thấy sự phát triển mạnh mẽ trong nhận thức về tiểu thuyết Dù là hiện thực hay lãng mạn, tác phẩm luôn phản ánh cuộc sống với đầy đủ cung bậc cảm xúc Những quan niệm này không chỉ đúng đắn mà còn phù hợp với xu thế phát triển của tiểu thuyết hiện đại Công lao của thế hệ nhà văn này đã tạo ra mô hình lý luận hệ thống cho tiểu thuyết ngày nay, nhờ vào những nỗ lực và đam mê của họ trong việc khám phá con đường mới cho sự phát triển và hoàn thiện của thể loại này.

Khái niệm tiểu thuyết được hiểu khác nhau bởi các tác giả ở các khu vực và thời gian khác nhau, với những nghiên cứu phong phú về sáng tác và tiếp nhận thể loại này Tiểu thuyết được định nghĩa qua sự đối sánh với truyện ngắn và truyện vừa, cho phép miêu tả sâu sắc những biến cố và số phận của con người Theo Từ điển thuật ngữ văn học, tiểu thuyết là tác phẩm tự sự lớn, phản ánh hiện thực đời sống ở mọi giới hạn không gian và thời gian, có khả năng khắc họa số phận của nhiều cuộc đời và các bức tranh xã hội đa dạng Phương Lựu nhấn mạnh sự phát triển rực rỡ của tiểu thuyết trong thời cận đại và hiện đại, trong khi Hà Minh Đức khẳng định năng lực phản ánh hiện thực của tiểu thuyết một cách bao quát và sinh động.

Nhà nghiên cứu văn học Trương Quýnh đã chỉ ra bốn ý thức quan trọng cho tiểu thuyết hiện nay, bao gồm ý thức lịch sử, văn hóa, thể loại và ngữ ngôn Về ý thức thể loại, ông nhấn mạnh rằng tiểu thuyết không chỉ đơn thuần là một thể loại văn học, mà còn đòi hỏi nhà tiểu thuyết phải sáng tạo ra thể loại riêng của mình Điều này yêu cầu tác giả phải có cấu tứ nghệ thuật, góc nhìn và phương thức tự sự độc đáo, cùng với ngữ ngôn và ngữ điệu miêu tả đặc sắc Mục tiêu sáng tạo từ nội dung đến hình thức chính là điều kiện thiết yếu để hình thành một thể loại văn học độc đáo.

Tiểu thuyết, một thể loại văn học châu Âu, đã xuất hiện từ thời kỳ văn học cổ đại Hy-La, nhưng chỉ thực sự phát triển với những tìm tòi tư tưởng triết lý và tinh thần Phục hưng vào cuối thời kỳ này, điển hình là tác phẩm Đôn Kihôtê của Xecvantex.

Thể loại tiểu thuyết cổ điển đã đạt được những thành tựu lớn với các tác giả như Balzac, Dickens, Tolstoi và Dostoievski, những người đã thể hiện cái nhìn tổng quát và phán xét mọi sự Tuy nhiên, chỉ đến khi các nhà tiểu thuyết hiện đại như Dos Passos, W Faulkner, Kafka và Joyce xuất hiện, sự đổi mới trong thể loại này mới thực sự diễn ra mạnh mẽ Họ không chỉ khám phá nội dung mới mà còn phát minh ra những kỹ thuật diễn đạt độc đáo, khác biệt so với tiểu thuyết cổ điển Như Nguyễn Văn Trung đã chỉ ra, nhiều nhà tiểu thuyết nổi tiếng châu Âu đều chịu ảnh hưởng từ những thiên tài này.

Milan Kundera, một trong những nhà tiểu thuyết lớn của văn học hiện đại châu Âu, đã chia sẻ những quan điểm sâu sắc về thể loại tiểu thuyết trong các tiểu luận của mình Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc khám phá và tìm tòi cái mới, xem đây là lương tâm và đạo đức thực sự của người viết Kundera tuyên bố rằng "cuốn tiểu thuyết nào không khám phá ra thêm được một mẩu sự sống trước nay chưa từng biết là một cuốn tiểu thuyết vô đạo đức," khẳng định rằng hiểu biết chính là đạo đức duy nhất của tiểu thuyết.

Milan Kundera, với vai trò là "người thực hành" trong thể loại tiểu thuyết, thấu hiểu sâu sắc những thách thức của việc khám phá và nhận thức Ông nhận ra rằng không tồn tại một chân lý tuyệt đối hay duy nhất, mà từ mỗi góc nhìn và quan điểm khác nhau sẽ nảy sinh những niềm tin riêng về sự thật Điều này phản ánh bức tranh phức tạp của cuộc sống hiện đại, nơi tiểu thuyết, hình ảnh và mô hình của nó ra đời.

Những đòi hỏi của việc nghiên cứu câu văn trong tiểu thuyết đương đại Việt Nam

1.3.1 Những quan niệm về câu tiếng Việt

Vấn đề định nghĩa về câu vẫn chưa đạt được sự thống nhất, với nhiều quan điểm khác nhau từ các trường phái nghiên cứu khác nhau Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học truyền thống như Nguyễn Hiến Lê, Nguyên Kim Thảo, Diệp Quan Ban, Hoàng Trọng Phiến và Hữu Quỳnh đã đưa ra nhiều định nghĩa về câu, phản ánh sự đa dạng trong cách hiểu và phân tích ngôn ngữ.

Hoàng Trọng Phiến định nghĩa câu là đơn vị ngôn ngữ cao cấp, được hình thành đầy đủ về ngữ pháp và ngữ nghĩa Câu mang một ngữ điệu theo quy luật ngôn ngữ, đóng vai trò là phương tiện biểu đạt tư tưởng và thái độ của người nói đối với thực tế.

Các tác giả Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học cho rằng:

Câu là đơn vị cơ bản trong cú pháp học, đóng vai trò là đơn vị độc lập nhỏ nhất trong giao tiếp Nó được cấu tạo từ từ và ngữ, tuân theo quy luật ngữ pháp và ngữ điệu của ngôn ngữ Câu là phương tiện thiết yếu để thể hiện và thông báo suy nghĩ, cảm xúc của người nói về thực tại và mối quan hệ của họ với người nghe.

Câu là đơn vị ngôn ngữ cao hơn từ, được hình thành từ từ hoặc cụm từ, theo quy tắc ngữ pháp nhất định của mỗi ngôn ngữ Câu có ngữ điệu, chứa nội dung thông báo cụ thể và mang tính hình thái Dù nghiên cứu từ góc độ nào, các nội dung cốt lõi trong lý thuyết về câu vẫn là cơ sở thiết yếu Đặc biệt, khi khảo sát câu trong các loại văn bản, một quan niệm nhất quán về câu hoàn chỉnh là điểm tựa quan trọng để nhận xét về đặc điểm cú pháp trong các trường hợp cụ thể.

1.3.2 Những đòi hỏi của việc nghiên cứu câu trong văn bản tiểu thuyết

Từ góc độ ngôn ngữ văn học, người nghiên cứu có thể chọn bất kỳ bình diện nào của tác phẩm để khảo sát, tùy thuộc vào nhận thức và sở thích cá nhân Trong thể loại tiểu thuyết và văn xuôi nghệ thuật, ngữ âm thường không được chú trọng như trong thơ, trong khi từ ngữ và câu lại thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu Từ ngữ chỉ là một phần trong việc thể hiện dấu ấn riêng của ngôn ngữ tác phẩm, và vấn đề quan trọng là cách tổ chức từ ngữ để truyền đạt nội dung mà từng từ không thể đảm nhiệm Câu đóng vai trò chủ yếu trong văn bản nghệ thuật, như những "hạt nhân" kết nối với nhau để tạo nên hình tượng, yếu tố quyết định sự tồn tại của tác phẩm văn chương.

Câu dĩ nhiên là một phần quan trọng trong ngữ pháp, được quy định bởi các phương thức và quy tắc chung mà người sử dụng ngôn ngữ cần tuân thủ Việc nắm vững ngữ pháp giúp tránh tình trạng "bất đồng ngôn ngữ" khi giao tiếp với người khác.

Trong sáng tạo nghệ thuật, những thử thách là cơ hội để nghệ sĩ bộc lộ tài năng Nhiều nhà văn đã đạt được thành công nổi bật trong lĩnh vực cú pháp, với các tác phẩm xuất sắc không chỉ thể hiện vốn từ vựng phong phú và cách sử dụng độc đáo, mà còn mang đến những biện pháp nghệ thuật tân kỳ và sự mới mẻ trong hình thức câu văn Điều này cho thấy rằng, câu văn là một lĩnh vực đòi hỏi sự nỗ lực sáng tạo của người nghệ sĩ ngôn từ.

Ngôn ngữ nghệ thuật mang tính loại hình, không tồn tại một ngôn ngữ chung cho mọi thời đại Đặc điểm loại hình được hình thành từ nhiều yếu tố, bao gồm cú pháp Ví dụ, câu văn biền ngẫu trong văn xuôi trung đại từng được coi là có giá trị thẩm mỹ, nhưng giờ đây lại trở nên lỗi thời Các tác phẩm của nhóm Tự Lực Văn Đoàn từng gây ấn tượng mạnh mẽ, nhưng giờ đọc lại lại thấy sự cũ kỹ Sự phát triển của các loại hình ngôn từ nghệ thuật phản ánh nhu cầu thay đổi không ngừng của đời sống, ảnh hưởng đến mọi khía cạnh, trong đó có cú pháp.

Nghiên cứu ngôn ngữ văn chương cần xem xét rằng mỗi thể loại văn học yêu cầu những hình thức cú pháp khác nhau Dù đều thuộc văn xuôi nghệ thuật, nhưng mỗi thể loại như truyện ngắn hay tiểu thuyết lại có những yêu cầu riêng biệt về câu văn Điều này đòi hỏi sự tinh tế và hiểu biết sâu sắc từ các nhà văn, những người đã trải nghiệm viết ở nhiều thể loại khác nhau Vì vậy, việc phân tích câu trong văn bản tiểu thuyết là cần thiết và xuất phát từ những yêu cầu khách quan của thể loại này.

Nguyễn Việt Hà với tiểu thuyết Ba ngôi của người

1.4.1 Vài nét về nhà văn Nguyễn Việt Hà

Nguyễn Việt Hà, sinh năm 1962, là một tác giả nổi bật trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại Ông lớn lên trong một gia đình theo Thiên Chúa giáo tại phố Nhà Chung, Hà Nội Trước khi trở thành nhà văn, Nguyễn Việt Hà từng làm việc trong ngành ngân hàng nhưng đã quyết định từ bỏ để theo đuổi sự nghiệp viết lách.

Nguyễn Việt Hà ra mắt lần đầu với tiểu thuyết "Cơ hội của Chúa" vào năm 1999, tác phẩm đã gây tiếng vang lớn trong dư luận Tiếp theo, ông cho ra mắt "Khải huyền muộn" vào năm 2003, cuốn tiểu thuyết thứ hai cũng thu hút sự chú ý của giới phê bình với nhiều ý kiến khen chê khác nhau.

Hà đã thử sức với thể loại truyện ngắn qua tập "Của rơi" (2004), trong đó Nguyễn Việt được nhiều nhà phê bình đánh giá cao về nỗ lực đổi mới nghệ thuật truyện ngắn.

Nguyễn Việt Hà là một tác giả nổi bật trong nền văn học đương đại Việt Nam, chuyên viết tạp văn Ông đã lần lượt công bố nhiều tác phẩm như "Nhà văn thì chơi với ai" (2005), "Mặt của đàn ông" (2008), "Đàn bà uống rượu" (2010) và "Con giai phố cổ" (2013).

Tạp văn đang ngày càng phát triển, và một trong những người có đóng góp quan trọng trong thể loại này là Nguyễn Việt Hà Năm 2014, ông đã cho ra mắt tiểu thuyết thứ ba của mình mang tên "Ba ngôi của người".

Cả ba cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà đều phản ánh chân thực cuộc sống của người Hà Nội và có sự liên kết rõ ràng với Thiên Chúa giáo qua nhan đề Những tác phẩm này đã khẳng định được vị trí quan trọng trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.

1.4.2 Tiểu thuyết Ba ngôi của người

Câu chuyện về đời và người Hà Nội trong bảy năm gần đây đã được

Trong tiểu thuyết "Ba ngôi của người" của nhà văn Nguyễn Việt Hà, Hà Nội hiện lên với một góc nhìn khác biệt, không còn lãng mạn và thanh lịch như trước Câu chuyện xoay quanh ba nhân vật chính: một người đàn ông trung niên không tên đã trải qua 10 kiếp nhân sinh và chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử, cùng với con trai ruột của anh, Kun - một họa sĩ tài năng nhưng tính cách thất thường, và cậu Quang Anh, em vợ của nhân vật trung niên, người có học vấn cao và kinh nghiệm sống phong phú.

Bài viết "Ba ngôi" chủ yếu lấy bối cảnh Hà Nội, nhưng câu chuyện không chỉ dừng lại ở đó Ba người đàn ông với những góc nhìn khác nhau về thủ đô: "Trung niên" chia sẻ những câu chuyện lịch sử và trải nghiệm, Kun mang đến cái nhìn của thế hệ trẻ về cuộc sống hiện đại, trong khi Quang Anh kể về thế giới kinh doanh và quan chức Sự kết hợp này tạo nên bức tranh xã hội phong phú với nhiều cung bậc cảm xúc và vấn đề thời sự nổi bật.

Nguyễn Việt Hà đã thành công trong việc khéo léo gói gọn những vấn đề nổi bật của Hà Nội và cả nước vào một quyển tiểu thuyết.

Cuốn sách dài 375 trang mang đến những câu chuyện phi tuyến tính, đôi khi gây khó khăn cho người đọc nhưng lại tạo nên sức hút riêng khi nhìn nhận sâu sắc Nguyễn Việt Hà sử dụng sân khấu văn học để thể hiện những trăn trở và sự châm biếm về sự biến tướng của xã hội và con người Một thành phố văn hóa giờ đây đã trở thành "con đĩ thập thành", nơi nhà trọ mọc lên như nấm sau mưa trong khi các công trình lịch sử sụp đổ Những cô gái xinh đẹp trước đây giờ sẵn sàng bán thân vì những món đồ thời thượng, còn đàn ông thì lao vào việc "xây phòng nhì" như một cách thể hiện đẳng cấp Chất "Hà Nội xưa" đã biến mất, nhường chỗ cho những kẻ học đòi nhưng thiếu hiểu biết và học thức.

Ba ngôi của người trong tác phẩm như một cuộc rượu giữa ba người đàn ông, với độc giả là khách mời tham gia Ngôn từ giản dị và thực tế, đôi khi thô ráp, làm tăng tính chân thực cho câu chuyện Những câu chuyện được kể ra theo từng chén rượu, càng "say", càng hấp dẫn Quyển sách thu hút người đọc nhờ sự hài hước và chất "đời" đặc trưng của nó.

Nguyễn Việt Hà, một người thuộc thế hệ 6X của phố cổ, đã gắn bó sâu sắc với mảnh đất này Ông chia sẻ rằng khi nhớ về quá khứ, con người thường chỉ nhớ những điều đẹp đẽ, nhưng lại không thể tránh khỏi cảm giác xót xa khi những điều tốt đẹp đó không còn trong hiện tại Chính vì vậy, diễn ngôn của ông đôi khi mang chút cay đắng, với những câu chữ có phần chua ngoa.

Bên cạnh ba nhân vật nam chính, "Ba ngôi của người" còn khắc họa những nhân vật nữ tiêu biểu cho xã hội đương thời Mẹ Kun đại diện cho mẫu phụ nữ tháo vát, quyết liệt từ bỏ danh vọng để theo người yêu và sau đó dũng cảm vật lộn kiếm sống nuôi con khi bị phản bội Mộc Miên, người yêu cũ của Kun, lại như nhiều cô gái đẹp khác, ham vật chất và sẵn sàng bỏ người yêu để đến với gã con buôn có khả năng mua sắm cho mình Cuối cùng, Hạnh là hình mẫu phụ nữ cam chịu, khéo léo và giàu đức hy sinh, yêu Quang Anh với lòng biết ơn nhưng cuối cùng phải ra nước ngoài sống cuộc đời buồn tẻ bên người chồng Thụy Sĩ.

Nguyễn Việt Hà không chỉ xây dựng hình ảnh các thị dân Hà Nội mà còn khắc họa chân dung mảnh đất nghìn năm văn hiến trong thời hiện tại Ông miêu tả một Hà Nội xấu xí với những nhận xét sâu sắc: "Nhà nghỉ nhiều nhan nhản đã làm cho Hà Nội trở nên một con đĩ thập thành" và "Hà Nội bây giờ thì buồn quá, nó không quá nghèo nhưng vô đạo và ít học".

Thành phố Hà Nội đang trải qua những biến đổi khó khăn, với con người nơi đây bị ảnh hưởng bởi những giá trị vật chất Tác giả mô tả một thế hệ trẻ thiếu lý tưởng, chỉ chăm chú vào tiện nghi và vật chất, thể hiện qua những câu nói như "Một thế hệ rỗng tuếch vô đạo không lý tưởng" và "Bọn tin tin đầu đất nông nổi của ngày hôm nay".

CÂU TRONG TIỂU THUYẾT BA NGÔI CỦA NGƯỜI XÉT VỀ CẤU TẠO NGỮ PHÁP VÀ MỤC ĐÍCH PHÁT NGÔN

CÂU TRONG TIỂU THUYẾT BA NGÔI CỦA NGƯỜI XÉT VỀ TU TỪ CÚ PHÁP VÀ VAI TRÒ NGHỆ THUẬT

Ngày đăng: 09/09/2021, 20:14

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Vũ Tuấn Anh (2001), Văn học Việt Nam hiện đại nhận thức và thẩm định, Nxb Khoa học và xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn học Việt Nam hiện đại nhận thức và thẩm định
Tác giả: Vũ Tuấn Anh
Nhà XB: Nxb Khoa học và xã hội
Năm: 2001
2. Diệp Quang Ban (1997), Ngữ pháp tiếng Việt (tập 2), Nxb Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ngữ pháp tiếng Việt
Tác giả: Diệp Quang Ban
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 1997
3. Diệp Quang Ban (1994), Cấu tạo câu đơn tiếng Việt, Nxb Đại học Sƣ phạm, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cấu tạo câu đơn tiếng Việt
Tác giả: Diệp Quang Ban
Nhà XB: Nxb Đại học Sƣ phạm
Năm: 1994
4. Diệp Quang Ban (1997), Thực hành ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thực hành ngữ pháp tiếng Việt
Tác giả: Diệp Quang Ban
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 1997
5. Mikhail Bakhtin (1993), Những vấn đề thi pháp của Đoxtoiepxki, Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dịch, Nxb Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những vấn đề thi pháp của Đoxtoiepxki
Tác giả: Mikhail Bakhtin
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 1993
6. Mikhail Bakhtin (2003), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lí luận và thi pháp tiểu thuyết
Tác giả: Mikhail Bakhtin
Nhà XB: Nxb Hội Nhà văn
Năm: 2003
7. Roland Bathes (1997), Độ không của lối viết, Nguyên Ngọc dịch, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Độ không của lối viết
Tác giả: Roland Bathes
Nhà XB: Nxb Hội Nhà văn
Năm: 1997
8. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (2001), Cơ sở ngôn ngữ học và Tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cơ sở ngôn ngữ học và Tiếng Việt
Tác giả: Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 2001
9. Nguyễn Đức Dân - Đặng Thái Minh (1999), Thống kê ngôn ngữ học một số ứng dụng, Nxb Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thống kê ngôn ngữ học một số ứng dụng
Tác giả: Nguyễn Đức Dân - Đặng Thái Minh
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 1999
10. “Dương Trung Quốc giật thót khi đọc tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Dương Trung Quốc giật thót khi đọc tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà
11. Đặng Anh Đào (1994), Tính chất hiện đại của tiểu thuyết, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tính chất hiện đại của tiểu thuyết
Tác giả: Đặng Anh Đào
Nhà XB: Nxb Hội Nhà văn
Năm: 1994
12. Phan Cự Đệ (2004), “Thử nhận diện loại tiểu thuyết ngắn trong những năm gần đây”, http: //evan.vnexpress.net/ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thử nhận diện loại tiểu thuyết ngắn trong những năm gần đây”
Tác giả: Phan Cự Đệ
Năm: 2004
13. Phan Cự Đệ, (2000), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại
Tác giả: Phan Cự Đệ
Nhà XB: Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp
Năm: 2000
14. Hà Minh Đức (chủ biên - 2003), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lí luận văn học
Nhà XB: Nxb Giáo dục
15. Văn Giá (6/12/2004), “Thử nhận diện loại tiểu thuyết ngắn ở Việt Nam những năm gần đây”, http: //evan.vnexpress.net/ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thử nhận diện loại tiểu thuyết ngắn ở Việt Nam những năm gần đây”
16. Nguyễn Thiện Giáp, (2009), Các phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ, Nxb Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ
Tác giả: Nguyễn Thiện Giáp
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 2009
17. Nguyễn Thiện Giáp (2010), 777 khái niệm ngôn ngữ học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: 777 khái niệm ngôn ngữ học
Tác giả: Nguyễn Thiện Giáp
Nhà XB: Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội
Năm: 2010
18. Thu Hà (2005), "Nguyễn Việt Hà không mong mình quá mới", http: //evan.vnexpress.net/ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nguyễn Việt Hà không mong mình quá mới
Tác giả: Thu Hà
Năm: 2005
19. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2000), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển thuật ngữ văn học
Tác giả: Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi
Nhà XB: Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội
Năm: 2000
20. Cao Xuân Hạo (2007), Ngữ pháp chức năng tiếng Việt, Câu trong tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ngữ pháp chức năng tiếng Việt, Câu trong tiếng Việt
Tác giả: Cao Xuân Hạo
Nhà XB: Nxb Khoa học xã hội
Năm: 2007

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 2.1. Thống kê câu phân loại theo cấu tạo ngữ pháp trong tiểu thuyết Ba ngôi của người  - Câu trong lời trần thuật ở tiểu thuyết ba ngôi của người của nguyễn việt hà
Bảng 2.1. Thống kê câu phân loại theo cấu tạo ngữ pháp trong tiểu thuyết Ba ngôi của người (Trang 44)
Bảng 2.2. Thống kê so sánh câu đơn bình thƣờng trong một số tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại  - Câu trong lời trần thuật ở tiểu thuyết ba ngôi của người của nguyễn việt hà
Bảng 2.2. Thống kê so sánh câu đơn bình thƣờng trong một số tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại (Trang 46)
Bảng 2.3. Thống kê so sánh câu đơn đặc biệt trong một số tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại  - Câu trong lời trần thuật ở tiểu thuyết ba ngôi của người của nguyễn việt hà
Bảng 2.3. Thống kê so sánh câu đơn đặc biệt trong một số tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại (Trang 56)
Bảng 2.4. Thống kê so sánh câu ghép chính phụ trong một số tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại  - Câu trong lời trần thuật ở tiểu thuyết ba ngôi của người của nguyễn việt hà
Bảng 2.4. Thống kê so sánh câu ghép chính phụ trong một số tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại (Trang 58)
Bảng 2.5. Thống kê so sánh câu ghép đẳng lập trong một số tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại  - Câu trong lời trần thuật ở tiểu thuyết ba ngôi của người của nguyễn việt hà
Bảng 2.5. Thống kê so sánh câu ghép đẳng lập trong một số tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại (Trang 60)
xét hai phƣơng diện. Thứ nhất, hình ảnh so sánh đƣợc nhà văn đƣa ra (yếu tố d) có gì mới mẻ, độc đáo, in dấu ấn riêng của sự sáng tạo? Thứ hai,  từ mô  hình chung, anh ta có những cải biến nhƣ thế nào trong từng trƣờng hợp cụ  thể, làm cho cách so sánh tr - Câu trong lời trần thuật ở tiểu thuyết ba ngôi của người của nguyễn việt hà
x ét hai phƣơng diện. Thứ nhất, hình ảnh so sánh đƣợc nhà văn đƣa ra (yếu tố d) có gì mới mẻ, độc đáo, in dấu ấn riêng của sự sáng tạo? Thứ hai, từ mô hình chung, anh ta có những cải biến nhƣ thế nào trong từng trƣờng hợp cụ thể, làm cho cách so sánh tr (Trang 75)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w