CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Một số thuật ngữ
bảo thiết thực, hiệu quả, khách quan và công bằng; kết hợp kết quả kiểm tra đánh giá trong quá trình giáo dục với kết quả thi”
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI nhấn mạnh việc cần thiết phải đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo Mục tiêu là tập trung vào việc phát triển phẩm chất và năng lực của người học, đồng thời cải cách mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản trong hệ thống giáo dục.
Tập trung vào việc phát triển trí tuệ và thể chất của học sinh, cần hình thành phẩm chất và năng lực công dân, đồng thời phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho các em Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện với trọng tâm là giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học và kỹ năng thực hành, giúp học sinh vận dụng kiến thức vào thực tiễn Khuyến khích khả năng sáng tạo, tự học và học tập suốt đời là điều cần thiết Do đó, các yếu tố trong quá trình giáo dục tại trường trung học cần được tiếp cận theo hướng đổi mới.
Nghị quyết số 44/NQ-CP, ngày 09/6/2014, đã ban hành Chương trình hành động nhằm thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 04 tháng 11 năm 2013, về việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo Chương trình này nhấn mạnh yêu cầu đổi mới hình thức, phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, tập trung vào việc đánh giá năng lực của người học Đồng thời, cần kết hợp đánh giá quá trình với đánh giá cuối kỳ học và cuối năm học, theo mô hình của các quốc gia có nền giáo dục phát triển, nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Các quan điểm và định hướng đã nêu tạo ra một cơ sở pháp lý vững chắc, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đổi mới giáo dục phổ thông, đồng thời thúc đẩy sự thay đổi đồng bộ trong phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá, hướng tới phát triển năng lực của người học.
1.2.1 Về đánh giá và đánh giá kết quả học tập
Đánh giá (ĐG) trong giáo dục thường được xem là giai đoạn cuối cùng của một quá trình giáo dục nhất định, nhưng cũng có quan điểm cho rằng ĐG là một quá trình dự báo và điều khiển hoạt động giáo dục theo mục đích đã định, diễn ra trước, trong và sau giai đoạn giáo dục ĐG là một phần không thể tách rời của quá trình giáo dục, xuất hiện cùng với sự hình thành của nó Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện về ĐG trong giáo dục, tuy nhiên, khái niệm ĐG vẫn được hiểu theo nhiều cách khác nhau giữa các tác giả, mặc dù họ đều có những điểm chung nhất định.
- ĐG là một quá trình thu thập, phân tích, lí giải về hiện trạng chất lượng, về hiệu quả, nguyên nhân và khả năng của HS
- ĐG gắn bó chặt chẽ với mục tiêu, chuẩn giáo dục
- ĐG tạo cơ sở đề xuất những quyết định thích hợp để cải thiện thực trạng nâng cao chất lượng, hiệu quả DH và giáo dục
Thông qua đánh giá (ĐG), giáo viên (GV) có thể thu thập phản hồi từ học sinh (HS), giúp khẳng định kết quả đạt được và điều chỉnh những tồn tại trong quá trình nhận thức của HS Điều này cho phép GV kịp thời điều chỉnh phương pháp giảng dạy của mình Đồng thời, HS cũng nhận được thông tin phản hồi từ kết quả ĐG, từ đó tự phát hiện, tự đánh giá và điều chỉnh hoạt động nhận thức của bản thân.
Bản chất của đánh giá (ĐG) là thiết lập các mối quan hệ ngược trong quá trình dạy học (DH), giúp giáo viên (GV) và học sinh (HS) điều chỉnh và tự điều chỉnh hoạt động dạy và học nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra.
Theo 28, 155 tr , KQHT là bằng chứng sự thành công của HS về kiến thức,
Năng lực và thái độ của học sinh đã được xác định trong mục tiêu giáo dục, vì vậy, đánh giá kết quả học tập (KQHT) của học sinh là một trong những vấn đề quan trọng trong quá trình dạy học Luận văn này sẽ tập trung nghiên cứu về việc đánh giá KQHT của học sinh.
Theo KQHT, thành tích học tập được hiểu theo hai quan niệm: một là mức độ thành tích mà người học đạt được, xét trong mối quan hệ với công sức và thời gian đã bỏ ra; hai là so sánh mức độ thành tích của người học với những bạn học khác.
Kết quả học tập (KQHT) thể hiện mức độ đạt được các mục tiêu dạy học (DH) qua ba phương diện: nhận thức, hành động và xúc cảm Mỗi môn học cụ thể hóa các mục tiêu này thành kiến thức, kỹ năng (KN) và thái độ Do đó, đánh giá KQHT của học sinh chính là xác định mức độ đạt được thông qua hệ thống các chuẩn trong chương trình giảng dạy.
Đánh giá kết quả học tập (ĐG KQHT) là quá trình thu thập, phân tích và xử lý thông tin về kết quả học tập của học sinh, nhằm so sánh với các mục tiêu đã đề ra cho môn học.
Mười lớp học của nhà trường là nền tảng quan trọng cho các quyết định sư phạm của giáo viên và nhà trường, đồng thời hỗ trợ học sinh trong quá trình học tập và phát triển.
1.2.2 Về tự đánh giá trong dạy học
1.2.2.1 Quan niệm về TĐG và tự đánh giá kết quả học tập
Việc nhận diện lỗ hổng trong kiến thức là một bước quan trọng giúp học sinh cải thiện quá trình học tập của mình Nhờ vào việc này, học sinh có thể tự điều chỉnh phương pháp học, từ đó khuyến khích sự tiến bộ và nâng cao hiệu quả học tập.
Tự đánh giá là quá trình phức tạp trong việc thu thập và phân tích thông tin về bản thân, sử dụng phương pháp phân tích SWOT để xác định điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và nguy cơ Phương pháp này giúp cá nhân nhận thức rõ hơn về khả năng của mình, đồng thời phát hiện ra các cơ hội và thách thức trong việc đạt được mục tiêu.
Sự hiểu biết về bản thân là yếu tố quan trọng trong việc đánh giá đúng về chính mình Khi có sự tự nhận thức, con người có thể xác định phương hướng đúng cho quá trình tự giáo dục Nói cách khác, việc tự đánh giá là tiền đề cần thiết để định hướng cho việc tự học.
Cơ sở khoa học của việc tự đánh giá kết quả học tập của học sinh THPT 22 1 Tự đánh giá xét từ góc độ triết học
nữa, chỉ khi nào TĐG được mình thì HS mới thực sự trở thành chủ thể của hoạt động nhận thức
Theo quan điểm duy vật biện chứng, thực tiễn đóng vai trò là điểm khởi đầu và kết thúc trong nhận thức của học sinh Kết quả của hoạt động học tập phản ánh trình độ nhận thức của người học, do đó, học sinh chỉ có thể đánh giá kết quả học tập của mình thông qua các hoạt động học tập thực tiễn.
1.3.2 Tự đánh giá xét từ góc độ tâm lí học và giáo dục học
Tâm lý học và lý luận dạy học hiện đại nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tạo điều kiện cho học sinh tự đảm nhận những chức năng vốn thuộc về giáo viên, bao gồm cả việc tự đánh giá kết quả học tập của bản thân.
Theo Kharlamov 24 , hoạt động học tập chỉ thực sự có hiệu quả khi người học là chủ thể tự giác, tích cực của quá trình học tập
Theo 29, 38 tr , người ta thường nêu lên những tiền đề “tự nhiên” hay được tạo ra ở các nhà trường làm cơ sở cho sự biện luận như sau:
+) Khả năng nội quan (Introspection), kinh nghiệm bản thân được hình thành và phát triển từ tuổi thiếu niên
Theo thời gian, học sinh tích lũy hiểu biết và kinh nghiệm về bản thân, nhận diện sự tương đồng và khác biệt với những người xung quanh, cùng với các chuẩn mực đánh giá Trong lĩnh vực tâm lý phát triển, H Thomas từng bị chỉ trích vì không xem khả năng tự đánh giá là tiêu chí quan trọng cho sự phát triển.
Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy, dưới sự ảnh hưởng của nhà trường, đánh giá quá cao về học sinh có thể được điều chỉnh theo hướng ngày càng thực tế hơn.
HS có thể phát triển tư duy và khả năng tự đánh giá nhờ vào sự hướng dẫn, hỗ trợ và nhận xét từ nhóm bạn, giáo viên và gia đình Điều này cho thấy tầm quan trọng của các cơ chế tâm lý xã hội trong việc hình thành và cải thiện kỹ năng tự đánh giá của học sinh.
Năm 1990, Mayer và Pete Salovey đã giới thiệu mô hình lý thuyết về trí tuệ xúc cảm, hiện đang thu hút sự quan tâm nghiên cứu và ứng dụng rộng rãi trên toàn cầu Các thành phần chính của trí tuệ xúc cảm bao gồm khả năng nhận diện và quản lý cảm xúc của bản thân cũng như của người khác, từ đó sử dụng cảm xúc để định hướng hành động hiệu quả hơn trong nhiều lĩnh vực.
Một trong những yếu tố tâm lý quan trọng trong hoạt động tự đánh giá (TĐG) của người học là mối liên hệ giữa cảm xúc và sự phát triển trí tuệ Khuyến khích TĐG không chỉ giúp người học nhận thức rõ hơn về bản thân mà còn nâng cao tinh thần trách nhiệm trong quá trình học tập.
24 người học tích cực tham gia vào TĐG sẽ trở nên thành thạo trong việc củng cố hoạt động của họ Họ có khả năng tự đánh giá chính xác và đưa ra nhận xét mang tính xây dựng về công việc của người khác TĐG không chỉ giúp người học phát triển khả năng phân tích điểm mạnh và điểm yếu mà còn chứng minh giá trị của những thông tin này.
Theo tâm lý học, ý thức bản ngã, hay cái “tôi”, là một phần quan trọng trong cấu trúc nhân cách Về mặt đạo đức, ý thức bản ngã thể hiện qua nhu cầu tự khẳng định, lương tâm, lòng tự trọng và danh dự Những yếu tố này có mối liên hệ chặt chẽ với nhu cầu tự khẳng định của mỗi cá nhân.
Đánh giá những hoạt động, phẩm chất và khả năng cá nhân là một quá trình quan trọng Ban đầu, trẻ nhận được sự đánh giá từ xã hội và tập thể, từ đó hình thành năng lực tự đánh giá bản thân.
Vai trò của học sinh (HS) trong hoạt động nhận thức là rất quan trọng, được nhấn mạnh trong nhiều tài liệu nghiên cứu Để HS nắm vững kiến thức và phát triển kỹ năng, việc đưa HS vào vị trí chủ thể trong quá trình học tập là cần thiết Điều này thể hiện qua khả năng tự định hướng, tự tổ chức, tự điều chỉnh và tự đánh giá kết quả học tập của mình.
Sự phát triển tự ý thức là một đặc điểm nổi bật trong sự phát triển của lứa tuổi
Ở độ tuổi THPT, học sinh trải qua quá trình tự ý thức mạnh mẽ và có khả năng đánh giá bản thân và người khác một cách sâu sắc hơn so với thiếu niên Sự phát triển cấu trúc và chức năng não bộ giúp các em tư duy lý luận và trừu tượng độc lập, sáng tạo trong các lĩnh vực đã học và chưa học Trí tuệ của học sinh THPT đạt mức cao và tiếp tục hoàn thiện qua quá trình học tập, thể hiện qua thái độ học tập tích cực.
HS THPT đã trải qua những thay đổi đáng kể Thái độ học tập tích cực đã thúc đẩy sự phát triển tính chủ định trong nhận thức và khả năng tự quản lý của học sinh trong quá trình học tập Nhu cầu tri thức nổi bật là một trong những đặc điểm quan trọng của giai đoạn này.
Hoạt động học tập của học sinh THPT đã có sự chuyển biến tích cực, khi các em nhận thức rõ ràng hơn về tầm quan trọng của việc học đối với tương lai cá nhân Học sinh hiện nay có khả năng tự điều chỉnh quá trình học tập của mình theo những mục tiêu đã đề ra Đồng thời, vai trò của người học trong quá trình đánh giá cũng đã được thay đổi; họ không chỉ là những đối tượng bị đánh giá mà còn tham gia tích cực vào quá trình này.
Tự đánh giá kết quả học tập môn Hóa học của học sinh THPT
Đánh giá (ĐG) và thực hiện các quy định trong quy trình ĐG là điều cần thiết, trong đó người tham gia không chỉ tham gia vào quá trình ĐG mà còn thực hiện việc đánh giá chính bản thân mình, gọi là tự đánh giá (TĐG).
4 Tự đánh giá kết quả học tập môn Hóa học của học sinh THPT
1.4.1 Nhóm kĩ năng cơ bản về TĐG KQHT môn Hóa học của học sinh
Nhóm 1: Nhóm KN TĐG tiềm năng bản thân Đây là nhóm KN học tập cơ bản, nó giúp HS hiểu được những ưu nhược điểm về tâm lí, trí tuệ, xu hướng, tính cách, v.v… từ đó họ có được sự lựa chọn về nội dung, phương pháp, hình thức học tập phù hợp giúp cho hoạt động học tập đạt hiệu quả tốt Trong nhóm KN này, chúng tôi đề cập đến các KN sau:
KN1: KN TĐG tiềm năng giúp người học xác định năng khiếu và thế mạnh của bản thân, từ đó lựa chọn hướng học tập phù hợp Ví dụ, nếu người học nhận thấy mình có năng khiếu về âm nhạc hoặc Hóa học, họ có thể tự xác định con đường sự nghiệp như trở thành nhạc sĩ, nhạc công hoặc nhà Hóa học.
KN2: KN TĐG về phong cách học giúp người học xác định phương pháp học tập phù hợp nhất với bản thân, như đọc to hay nghiền ngẫm, học cá nhân hay nhóm Ví dụ, nếu người học thích yên tĩnh, họ nên tạo một góc học tập riêng để tránh bị quấy rầy, từ đó nâng cao khả năng tập trung và hiệu quả học tập Ngược lại, nếu học trong môi trường ồn ào như có người xem ti vi, sự phân tâm sẽ làm giảm hiệu quả học tập.
KN3: KN TĐG về tiềm năng trí tuệ và tâm lí giúp người học lựa chọn và điều chỉnh phương pháp học tập phù hợp với khả năng của mình Qua việc đánh giá trí nhớ, đặc điểm tâm lý và tính cách, người học có thể nhận diện cách tiếp thu kiến thức của mình, từ đó tự xác định và điều chỉnh quá trình học Ví dụ, nếu nhận thấy mình chưa phải là người thông minh, họ có thể áp dụng phương châm “cần cù bù thông minh” để cải thiện kết quả học tập.
Nhóm 2: KN TĐG về động cơ, thái độ, ý thức học tập Theo tâm lí học (trí tuệ cảm xúc), người học chỉ tích cực học khi họ nhận thứ được nhiệm vụ học tập, khi đó họ tự tạo được động cơ, từ đó tạo ra hứng thú, dẫn đến việc học được tập trung cao độ và có hiệu quả cao Do đó, nhóm KN này (chỉ gồm một KN và gọi là KN4) nhằm giúp người học thấy được rõ hơn động cơ học tập của mình, học để làm
26 người đã nhận thức rõ hơn về động cơ học tập của mình, bao gồm mục đích học tập và đối tượng mà họ học cho Họ cũng đánh giá được thái độ và ý thức học tập của bản thân, xem xét liệu họ có học tập một cách tích cực và tự giác hay không.
Nhóm 3: KN TĐG về việc tổ chức việc học tập Nhóm KN này giúp HS thấy được rõ hơn việc tổ chức hoạt động học tập của họ đã khoa học, hợp lí chưa, thấy được sự tuân thủ các kế hoạch học tập của họ như thế nào và họ cần phải điều chỉnh như thế nào để hoạt động học tập thật sự có hiệu quả Nhóm này gồm các KN sau:
Kỹ năng KN 5: KN TĐG việc xây dựng và thực hiện kế hoạch rất quan trọng, giúp học sinh xác định khả năng lập thời gian biểu cho các khoảng thời gian khác nhau như ngày, tuần, tháng hoặc năm Kỹ năng này cho phép học sinh đánh giá việc thực hiện thời gian biểu của mình, phân tích hiệu quả của quá trình thực hiện và nhận diện những điều chỉnh cần thiết để cải thiện kết quả.
KN 6: KN TĐG khâu tổ chức việc học ở nhà giúp học sinh kiểm tra thời gian học tập của mình, đảm bảo tuân thủ đúng quy định Ngoài ra, KN này cũng hướng dẫn học sinh sử dụng hiệu quả các phương tiện hỗ trợ học tập như máy vi tính, internet, ti vi, radio và ghi âm Học sinh còn được khuyến khích sử dụng các tài liệu học tập cần thiết như sách giáo khoa, sách bài tập và sách tham khảo để nâng cao hiệu quả học tập.
Nhóm 4: Nhóm KN TĐG việc lĩnh hội kiến thức, vận dụng kiến thức Nhóm này giúp HS TĐG mức độ đạt được về kiến thức, KN so với mục tiêu nhiệm vụ học tập Từ đó họ biết đã đạt những kiến thức, KN gì, mức độ như thế nào Nhóm này gồm các KN sau:
+ KN 7: KN TĐG việc học các nội dung khi đối thoại trực tiếp với thầy
KN này nhằm TĐG kiến thức cũ, việc lĩnh hội khái niệm, nguyên lí; quy tắc; TĐG việc giải bài tập, tiến hành thí nghiệm v.v…
KN 8 đề cập đến việc đánh giá mức độ đạt được nội dung môn học mà không cần đối diện với giáo viên Kỹ năng này nhằm đánh giá việc hoàn thành các nhiệm vụ học tập do giáo viên giao, cũng như kiến thức và kỹ năng đã học, bao gồm cả kiến thức bổ sung Nó giúp xác định mức độ đạt được về kiến thức và kỹ năng so với yêu cầu của lớp, giáo viên và nhà trường, đồng thời đánh giá sự tiến bộ trong học tập Kỹ năng này cũng hỗ trợ học sinh tự đánh giá kiến thức và kỹ năng của bản thân để định hướng tham gia các kỳ thi, lựa chọn hướng học tập hoặc trường học phù hợp.
1.4.2 Biểu hiện của kĩ năng tự đánh giá kết quả học tập của học sinh trong học tập môn Hóa học
Học sinh có kỹ năng tự đánh giá kết quả học tập khi có khả năng thu thập, phân tích và giải thích thông tin về kiến thức và kỹ năng của bản thân Họ cũng biết so sánh, đối chiếu với các mục tiêu và nhiệm vụ học tập, đồng thời có khả năng ra quyết định và điều chỉnh hoạt động học tập của mình.
Để đạt được mục tiêu học tập trong môn Hóa học, học sinh cần thực hiện 27 động học tập hiệu quả Kỹ năng đánh giá kết quả học tập (TĐG KQHT) của học sinh được thể hiện rõ qua những hoạt động này.
- Có thể tự nhận biết được đặc điểm về tâm lí, trí tuệ, tính cách và phong cách của bản thân phù hợp với môn Hóa học
Học sinh có thể tự chọn hình thức học tập phù hợp với đặc điểm tâm lý, trí tuệ, tính cách và phong cách học của bản thân để nâng cao hiệu quả trong việc học môn Hóa học.
- Có thể tự điều chỉnh việc học để phát huy được tiềm năng trí tuệ, tâm lí của bản thân trong học môn Hóa học
- Có thể tự nhận biết được động cơ học tập, thái độ, ý thức học tập (tự giác, chủ động, tích cực chưa, v.v…), từ đó tự điều chỉnh
- Có thể tự nhận thức được về tính khoa học, hợp lí, hiệu quả trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch học môn Hóa học ở nhà
- Có thể tự điều chỉnh kế hoạch học tập môn Hóa học theo hướng hợp lí, hiệu quả hơn
- Có thể tự nhận thức được hiệu quả của việc sử dụng các tài liệu học tập và các phương tiện hỗ trợ việc học
- Có thể tự rút kinh nghiệm, tự điều chỉnh việc sử dụng các tài liệu học tập và các phương tiện hỗ trợ việc học
- Có thể xác định mức độ kiến thức, KN của bản thân so với mục tiêu nhiệm vụ học tập môn Hóa học
- Biết xác định mức độ lĩnh hội khái niệm, nguyên lý, quy tắc, phương pháp v.v…
- Biết ĐG được lời giải của bài tập
- Biết lắp ráp, tiến hành thí nghiệm hóa học và phát hiện những sai sót trong quá trình thí nghiệm
- Biết phát hiện ra những thiếu hụt, những sai lầm trong kiến thức, KN môn Hóa học
- Biết tự rút kinh nghiệm, tự điều chỉnh để học tập môn Hóa học ngày một tiến bộ hơn
Thực trạng vấn đề tự đánh giá kết quả học tập môn Hóa học của học sinh
Tìm hiểu thực trạng kĩ năng TĐG KQHT môn Hóa học của HS và việc GV rèn luyện kĩ năng TĐG KQHT môn Hóa học cho HS
Các giáo viên Hóa học, học sinh và phụ huynh từ một số trường tại tỉnh Thanh Hóa, bao gồm THPT Lê Văn Linh, THPT Lam Kinh và THPT Thọ Xuân 5, đang tham gia vào các hoạt động giáo dục nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập môn Hóa học.
Lê Hoàn, THPT 4 Thọ Xuân, THPT Lê Lợi, gồm 20 giáo viên, phỏng vấn 105 học sinh và 6 phụ huynh học sinh
Nghiên cứu mức độ hiểu biết của giáo viên và học sinh về vấn đề đánh giá kết quả học tập (TĐG) là rất quan trọng Bài viết cũng sẽ phân tích thực trạng kỹ năng TĐG và rèn luyện kỹ năng TĐG kết quả học tập trong môn hóa học của học sinh.
1.5.4 Phương pháp khảo sát Để có được thông tin khách quan, chúng tôi tiến hành phỏng vấn, dự giờ, sử dụng phiếu hỏi (xem mẫu phiếu hỏi trong phụ lục 1, trang 2) v.v… với các đối tượng là GV, HS và phụ huynh học sinh
Qua kết quả trả lời phiếu hỏi, qua phỏng vấn và dự giờ một số tiết chúng tôi nhận thấy:
Đa số cán bộ quản lý và giáo viên nhận thức được tầm quan trọng của việc rèn luyện kỹ năng đánh giá kết quả học tập (TĐG KQHT) cho học sinh trong dạy học ở trường THPT Tuy nhiên, việc thực hiện còn gặp nhiều khó khăn do thiếu hiểu biết về kỹ năng TĐG KQHT, học sinh chưa trang bị đủ kỹ năng này, và phương pháp đánh giá KQHT tại các trường chưa được đổi mới và chưa coi trọng việc TĐG KQHT của học sinh Nhiều cán bộ quản lý mong muốn vấn đề này sớm được triển khai một cách toàn diện.
Đa số phụ huynh học sinh đều quan tâm đến việc học của con cái, nhưng không phải ai cũng có đủ thời gian và trình độ để hỗ trợ con trong quá trình học tập và đánh giá Do đó, việc tìm kiếm các giải pháp hỗ trợ học tập cho trẻ là rất cần thiết.
GV cần khuyến khích phụ huynh thường xuyên quan tâm đến việc tự học của con em mình, đặc biệt trong quá trình đánh giá kết quả học tập Những câu hỏi đơn giản như “Con đã học bài xong chưa?” hay “Con hiểu bài được bao nhiêu phần trăm?” có thể tạo động lực cho các em học sinh nỗ lực hơn trong học tập.
Học sinh hiện nay chưa phát triển đầy đủ kỹ năng tự đánh giá kết quả học tập, phần lớn chỉ dựa vào việc làm bài tập và kiểm tra để đánh giá kiến thức của bản thân Điều này dẫn đến việc các em chưa nhận thức rõ tầm quan trọng của việc tự đánh giá, từ đó thiếu sự hứng thú và tự giác trong việc thực hiện quá trình này.
Thực trạng hiện nay sẽ là nền tảng quan trọng để chúng tôi phát triển các phương pháp giáo dục nhằm nâng cao kỹ năng đánh giá kết quả học tập môn Hóa học cho học sinh tại trường THPT.
Chương này trình bày quan niệm về TĐG KQHT và kỹ năng TĐG KQHT trong môn Hóa học, đồng thời chỉ ra các đặc trưng, hình thức, ưu nhược điểm của hoạt động TĐG Bài viết cũng xác định các bước giúp học sinh TĐG KQHT và các yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng này Bốn nhóm kỹ năng cơ bản về TĐG KQHT được nêu rõ, bao gồm 8 kỹ năng: Nhóm 1 tập trung vào kỹ năng TĐG tiềm năng bản thân; Nhóm 2 liên quan đến động cơ, thái độ và ý thức học tập; Nhóm 3 hướng đến tổ chức việc học; và Nhóm 4 tập trung vào việc lĩnh hội kiến thức và vận dụng kỹ năng Cuối cùng, bài viết chỉ ra 7 biểu hiện của kỹ năng TĐG KQHT trong môn Hóa học.
HS, con đường hình thành và rèn luyện, các mức độ của kĩ năng TĐG KQHT môn Hóa học của HS THPT
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về rèn luyện kỹ năng tư duy phản biện là yếu tố quan trọng nhằm đề xuất các biện pháp sư phạm hiệu quả trong việc phát triển kỹ năng tư duy phản biện cho học sinh THPT trong môn Hóa học.