Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Địa đạo Phú Thọ Hòa, một trong những hệ thống địa đạo sớm nhất tại Việt Nam, nằm gần trung tâm Sài Gòn, đã đóng góp quan trọng cho nhân dân và Đảng bộ xã trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ Mặc dù hệ thống địa đạo Củ Chi thường được nhắc đến nhiều hơn do quy mô và tính điển hình, nhưng tài liệu nghiên cứu về địa đạo Phú Thọ Hòa vẫn còn hạn chế Một số tài liệu, bao gồm sách, đã đề cập đến địa đạo này, cho thấy giá trị lịch sử và văn hóa của nó.
Lịch sử Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định từ năm 1945 đến 1975 được ghi chép trong nhiều tài liệu quan trọng như "Lịch sử Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định kháng chiến" (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1994) và các sách về Đảng bộ quận Tân Phú, Phú Thọ Hòa, Tân Bình Những tài liệu này cung cấp cái nhìn toàn diện về cuộc đấu tranh của nhân dân Sài Gòn, đặc biệt là nhân dân xã Phú Thọ Hòa trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ Hệ thống địa đạo Phú Thọ Hòa được nhấn mạnh như một đóng góp quân sự quan trọng trong lịch sử kháng chiến.
Một số tài liệu quý giá được thu thập từ nhân dân, bao gồm những câu chuyện do các nhân chứng lịch sử kể lại Đặc biệt, bản tự kể của các đồng chí tham gia đào địa đạo, nổi bật là thượng tá Lâm Quốc Đăng, nguyên Sư đoàn phó phân khu I, cùng hồi ký của đồng chí Nguyễn Văn, đã góp phần làm phong phú thêm tư liệu lịch sử.
Lự, nguyên là bộ đội thuộc chi đội 12, đã tham gia vào việc đào địa đạo Phú Thọ Hòa vào năm 1947 Tài liệu liên quan đến di tích này được ghi chép trong lý lịch di tích khu địa đạo Phú Thọ Hòa, do Bảo tàng Cách mạng thành phố Hồ Chí Minh biên soạn năm 1995, trong hồ sơ công nhận địa đạo Phú Thọ Hòa là di tích lịch sử cấp quốc gia.
Các tài liệu hiện có chỉ đề cập một cách sơ lược về công trình kiến trúc địa đạo Phú Thọ Hòa, mà chưa đi sâu vào nghiên cứu và làm rõ quá trình hình thành, phát triển của hệ thống địa đạo này cùng với những giá trị lịch sử của nó trong cuộc kháng chiến.
Khu di tích địa đạo Phú Thọ Hòa tại quận Tân Phú được nhấn mạnh trên nhiều báo và website của UBND quận, với mục tiêu tôn tạo và phát huy giá trị lịch sử nhằm giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ Các bài viết như “Địa đạo Phú Thọ Hòa, quận Tân Phú cần được tôn tạo và quảng bá” trên Báo Sài Gòn Giải Phóng (ngày 1 tháng 5 năm 2010) và “Địa đạo Phú Thọ Hòa trong lòng thành phố” trên website UBND quận Tân Phú (tháng 1 năm 2015) đã chỉ ra tầm quan trọng của việc bảo tồn di tích này Ngoài ra, bài viết “Có một địa đạo bị lãng quên” trên Báo Hà Nội mới (ngày 1 tháng 9 năm 2010) cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải chú ý đến địa đạo Phú Thọ Hòa để không bị lãng quên.
Di tích “trầm lặng” và Địa đạo Phú Thọ Hòa được tác giả Phú Li giới thiệu trên Website dạy và học ngày nay vào tháng 8 năm 2015, tuy nhiên, những bài viết này chỉ dừng lại ở việc cung cấp thông tin sơ lược về các di tích này mà chưa khai thác hết tiềm năng du lịch của chúng.
Đối tượng, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu "Địa đạo Phú Thọ Hòa (Sài Gòn – Gia Định) trong thời kỳ chiến tranh cách mạng (1945 - 1975)" tập trung vào giai đoạn kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ Nghiên cứu này sẽ phân tích sự hình thành và phát triển của địa đạo từ năm 1947 cho đến khi bị phá vỡ vào năm 1967, làm nổi bật vai trò quan trọng của nó trong cuộc kháng chiến.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Quá trình xây dựng và phát triển của Địa đạo Phú Thọ Hòa trong thời kỳ chiến tranh cách mạng (1945 - 1975)
Vai trò của Địa đạo Phú Thọ Hòa trong thời kỳ chiến tranh cách mạng
Rút ra những nhận xét, đánh giá và nêu lên các bài học kinh nghiệm về việc xây dựng địa đạo.
Phạm vi nghiên cứu
Đề tài này tập trung vào việc phản ánh địa đạo Phú Thọ Hòa tại Sài Gòn - Gia Định trong giai đoạn chiến tranh cách mạng từ năm 1945 đến 1975, đặc biệt là trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Bài viết tập trung vào các hoạt động xây dựng và chiến đấu của lực lượng cách mạng tại xã Phú Thọ Hòa, nơi nổi bật với địa đạo Phú Thọ Hòa thuộc Sài Gòn - Gia Định, hiện nay là quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh.
Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
Nguồn tài liệu
Đề tài này sử dụng nhiều nguồn tài liệu quan trọng như "Gia Định Thành Thông Chí" của Trịnh Hoài Đức, "Địa chí văn hóa Thành phố" tập 1, và "Địa chí tỉnh Gia Định" xuất bản năm 1902 Ngoài ra, các tài liệu như "Lịch sử Nam bộ kháng chiến" (NXB CTQG – sự thật, Hà Nội 2010) và "Những vấn đề chính yếu trong lịch sử Nam bộ kháng chiến 1945 – 1975" (NXB CTQG – sự thật, Hà Nội 2011) cũng được tham khảo Bên cạnh đó, "Địa danh Nam Bộ kháng chiến" (NXB Văn học, 2015) và "Lịch sử Sài Gòn – Gia Định kháng chiến 1945-1975" (NXB CTQG – sự thật, Hà Nội 2015) đóng vai trò quan trọng trong nghiên cứu Cuối cùng, "Từ điển Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh" (NXB trẻ, 2008) cũng là một nguồn tài liệu hữu ích cho đề tài này.
Chúng tôi sử dụng tài liệu lịch sử địa phương từ Ban sưu tầm lịch sử Đảng bộ quận Tân Bình, quận Tân Phú và các phường Phú Thọ Hòa, Tân Sơn Nhì Bên cạnh đó, chúng tôi tham khảo các bài viết, hồi ký của những người đã sống và tham gia đào địa đạo, cũng như những người trực tiếp tham gia kháng chiến trong giai đoạn này Hơn nữa, chúng tôi thực hiện các hoạt động điền dã để thu thập thêm tư liệu cho nghiên cứu của mình.
Các chuyên gia tâm huyết với việc bảo tồn và phát huy giá trị của các công trình địa đạo, như địa đạo Phú Thọ Hòa, đã cung cấp nhiều bài viết quý giá về chủ đề này.
Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các vấn đề nghiên cứu, chúng tôi áp dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử làm cơ sở phương pháp luận Với tính chất là đề tài lịch sử, chúng tôi đặc biệt chú trọng đến phương pháp lịch sử và phương pháp logic Luận văn được xây dựng dựa trên tài liệu có sẵn, phân tích sự vận động của các sự kiện lịch sử trong mối liên hệ chặt chẽ, từ đó hệ thống hoá và khái quát hoá vấn đề để đưa ra nhận xét và đánh giá Bên cạnh đó, chúng tôi cũng sử dụng các phương pháp bổ trợ như so sánh đối chiếu và thống kê để tăng cường hiệu quả nghiên cứu.
Đóng góp của đề tài
Nghiên cứu đề tài này nhằm làm rõ quá trình đấu tranh của nhân dân xã Phú Thọ Hòa trong kháng chiến chống Pháp và Mỹ, đặc biệt là những sáng tạo trong việc xây dựng hệ thống địa đạo Bài viết cũng sẽ chia sẻ kinh nghiệm phát triển hệ thống địa đạo của nhân dân Phú Thọ Hòa, từ đó rút ra bài học cho các vùng khác trong cuộc chiến chống Mỹ.
Nghiên cứu giá trị của địa đạo Phú Thọ Hòa giúp mọi người nhận thức rõ hơn về một di tích lịch sử quan trọng, nằm giữa lòng thành phố phát triển bậc nhất Việt Nam Điều này không chỉ nâng cao giáo dục cho thế hệ trẻ mà còn cung cấp tư liệu phong phú và mở ra nhiều hướng nghiên cứu mới trong việc giảng dạy lịch sử địa phương.
Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Nội dung chính của luận văn được thể hiện trong 3 chương.
LƯỢC SỬ HÌNH THÀNH VÙNG ĐẤT PHÚ THỌ HÒA
Phú Thọ Hòa, một vùng đất từng thuộc Bến Nghé (Sài Gòn xưa), nổi bật với cảnh quan hoang vu, rừng rậm và đầm lầy Nằm giữa lưu vực sông Đồng Nai và sông Cửu Long, khu vực này có nhiều sông rạch chảy ra biển Đông, tạo nên một hệ thống thủy lợi phong phú.
Từ cuối thế kỷ XVI, khi đất nước chia thành Đàng trong và Đàng ngoài, nhiều lưu dân Việt từ miền Bắc và miền Trung đã theo chúa Nguyễn đến vùng đất mới để sinh sống và lập nghiệp Thành phần lưu dân này rất đa dạng, bao gồm cả những người bị tù đày và đông đảo là nông dân lao động, cùng với những nho sĩ mang trong mình tinh thần chống đối lại sự tham ô của quan lại và cường hào gian ác.
Trên vùng đất mới, các lưu dân cần cù, dũng cảm và sáng tạo đã tập trung cùng cư dân bản địa, vượt qua những thử thách từ thiên nhiên như cá sấu và thú dữ Họ kiên trì chịu đựng mọi khó khăn như nắng mưa và côn trùng, cùng nhau biến vùng đất này thành ruộng vườn, nương rẫy, xây dựng thôn ấp với tinh thần tự lập, tự quản, đoàn kết và tương thân, tương ái.
Cuối thế kỷ XVII, Bến Nghé - Sài Gòn trở thành một trung tâm giao thương quan trọng với vai trò là bến sông và phố chợ, đồng thời là cửa ngõ giao dịch với bên ngoài Khu vực này có trạm thu thuế và đồn lũy bảo vệ, khẳng định vị trí chiến lược của nó trong thời kỳ này.
Năm 1698, chúa Nguyễn đã bổ nhiệm Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh làm quan kinh lược sứ Đồng Nai, thực hiện việc quản lý và phát triển vùng đất này Ông đã thành lập phủ Gia Định, lập huyện Phước Long tại Đồng Nai và huyện Tân Bình tại Sài Gòn, cùng với việc xây dựng các dinh Trấn Biên và Phiên Trấn Mỗi dinh được giao cho một chức lưu thủ, cai bộ và ký lục để quản lý Qua đó, Sài Gòn trở thành trung tâm hành chính với hệ thống cai trị và quản lý dân cư rõ ràng Các xã, thôn, phường, ấp được phân định ranh giới cụ thể, và nhà nước phong kiến Đàng Trong đã lập sổ bộ thu thuế đinh, thuế điền Vào thời điểm này, vùng đất Phú Thọ Hòa thuộc huyện Tân Bình, phủ Gia Định.
Tháng 9 năm 1858 thực dân Pháp nổ súng tấn công bán đảo Sơn Trà, dưới sức kháng cự của quan quân triều đình và quần chúng nhân dân, Pháp đã buộc phải để lại một số quân ở đây và cử 2000 quân tiến vào tấn công Sài Gòn Tháng 2 năm 1859, quân Pháp đánh thành Gia Định Tại đây quân Pháp phải đối đầu với một lực lượng nông dân Gia Định với gậy gộc, giáo mác tập hợp cùng quân triều đình dưới sự chỉ huy của các sĩ phu yêu nước Với sức đấu tranh của lực lượng quan quân triều đình và nhân dân Gia Định, quân Pháp rơi vào vào tình thế bị bao vây suốt một năm trời Quân Pháp phải trả một giá đắt mới chiếm được đại đồn Chí Hòa vào ngày 25 tháng 2 năm 1861 Sau khi chiếm được Gia Định, thực dân Pháp thiết lập hệ thống cai trị trên vùng đất này, trong đó huyện Tân Bình được đổi thành phủ Tân Bình thuộc tỉnh Gia Định Đến năm 1900, vùng đất Tân Bình được sáp nhập về quận Gò Vấp thuộc tỉnh Gia Định, địa bàn Phú Thọ Hòa thuộc tổng Dương Hòa Thượng, quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định
Vào tháng 3 năm 1945, tổng Dương Hòa Thượng được tách ra khỏi quận Gò Vấp và nâng cấp thành quận Tân Bình, thuộc tỉnh Gia Định, với xã Phú Thọ Hòa nằm trong quận này Đến thời Ngô Đình Diệm, vào ngày 22 tháng 4 năm 1959, Bộ trưởng Bộ Nội vụ chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã ban hành Nghị định 138-BHV/HC/NĐ, chính thức chia quận Tân Bình.
Xã Phú Thọ Hòa nằm ở phía Tây Nam quận Tân Bình, bao gồm 9 ấp: Lộc Hòa, Phú Thạnh, Hòa Thạnh, Bình Long, Bình Đông, Phú Trung 1, Phú Trung 2, Tân Thới Hòa và Tân Phước Vào ngày 11 tháng 12 năm 1965, Nghị định số 1917-BNV/NC/13 của Ủy viên nội vụ chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã chia xã Phú Thọ Hòa thành 2 xã: Phú Thọ Hòa và Tân Phú Ấp Bình Long cùng một số ấp khác của xã Phú Thọ Hòa cũ đã được tách ra để thành lập xã Tân Phú thuộc tổng Dương Hòa Thượng, quận Tân Bình, tỉnh Gia Định.
Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng vào ngày 30/4/1975, đơn vị hành chính xã Tân Phú vẫn được giữ nguyên Đến ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội khóa IV nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã chính thức đổi tên thành phố Sài Gòn – Gia Định thành thành phố Hồ Chí Minh Trong quá trình sắp xếp lại địa giới hành chính, các quận, huyện cũng được điều chỉnh, trong đó hai xã Bình Hưng Hòa và Vĩnh Lộc của quận Tân Bình sáp nhập vào huyện Bình Chánh Đồng thời, cấp ấp bị bỏ và bốn xã còn lại được chia thành 26 phường, với các phường mới được đánh số từ 1 đến 26 Phường 18 được thành lập dựa trên việc tách ấp II và ấp III của xã Tân Phú cũ.
Ngày 27 tháng 8 năm 1988, Hội đồng bộ trưởng ra Quyết định số 136-HĐBT về việc phân vạch lại địa giới hành chính một số xã, phường của huyện Hóc Môn và các quận Bình Thạnh, Tân Bình thuộc thành phố Hồ Chí Minh Theo quyết định này, quận Tân Bình được điều chỉnh lại còn 20 phường Trong đó phường 18 mới được hình thành trên cơ sở phường 18 cũ cộng thêm 19 tổ dân phố của phường 19 cũ chuyển sang Lúc này địa bàn phường Phú Thọ Hòa thuộc phường 18 mới Đến tháng 12 năm 2003, thực hiện Nghị định số 130/NĐ-CP, ngày 05 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ về việc thành lập quận Tân Phú trên cơ sở được tách ra từ quận Tân Bình, trong đó phường 18 được tách thành 2 phường là Phú Thọ Hòa và Phú Thạnh, thuộc quận Tân Phú Hiện nay, di tích địa đạo Phú Thọ Hòa thuộc phường phường Phú Thọ Hòa
Vị trí Phú Thọ Hòa nằm trong khu vực địa lý chung của vùng đất Nam
Vùng đất có địa hình bằng phẳng và cao, không có sông rạch, với loại đất pha cát Khí hậu nhiệt đới gió mùa mang tính nóng ẩm, với nhiệt độ trung bình khoảng 28ºC, dao động từ 19ºC đến 38ºC, ít bị ảnh hưởng bởi bão và lũ Thời tiết ở đây chia thành hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 và mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và Mỹ, Phú Thọ Hòa là một vùng ven Sài Gòn – Gia Định, nổi bật với rừng cao su và bụi tre, cùng với hệ thống đường đất chủ yếu Để di chuyển từ trung tâm Sài Gòn đến Củ Chi, Tây Ninh và các tỉnh miền Tây, người dân phải đi qua khu vực này Phú Thọ Hòa cũng là địa bàn quan trọng với nhiều đồn bót và căn cứ quân sự của Pháp, Mỹ, trong đó có sân bay Tân Sơn Nhất và kho bom Phú Thọ Hòa.
TRUYỀN THỐNG YÊU NƯỚC CỦA NHÂN DÂN VÙNG ĐẤT PHÚ THỌ HÒA
Cư dân Sài Gòn - Gia Định, đặc biệt là Phú Thọ Hòa, chủ yếu là những nông dân khổ cực, tội nhân lưu đày và binh lính không còn đường trở về, đã rời bỏ quê hương để tìm kiếm tự do và cơ hội sống mới Họ đã vượt qua quá khứ nặng nề và những ràng buộc của Nho giáo, hướng tới miền đất phương Nam rộng lớn với khát vọng mạo hiểm và khai phá.
Cư dân Phú Thọ Hòa, như bao người con đất Việt khác, đã coi vùng đất mới tại Sài Gòn - Gia Định là quê hương thứ hai của mình, tự hào về truyền thống lịch sử dân tộc hàng nghìn năm, từng chiến thắng nhiều kẻ thù xâm lược Niềm tự hào này đã hình thành những nét đặc sắc trong tính cách người dân nơi đây, với tâm lý năng động, hào hiệp, ít chuộng hình thức, cùng tính khí khảng khái, trung thực, thể hiện tinh thần “trọng nghĩa, khinh tài” và sĩ khí hiên ngang.
Trước khi thực dân Pháp xâm lược Sài Gòn - Gia Định, vùng đất này đã ghi nhận nhiều chiến công vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống xâm lược và phong kiến, nổi bật là 4 lần quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huệ đánh bại quân Nguyễn Ánh từ năm 1777 đến 1785.
Tháng 2 năm 1859, khi tấn công Sài Gòn, liên quân Pháp – Tây Ban Nha đã phải đối đầu với một lực lượng lớn người dân Sài Gòn – Gia Định trong đó có những con người trên mảnh đất Phú Thọ Hòa Những người nông dân với gậy gộc, giáo mác tập hợp cùng quân triều đình để đánh trả cuộc xâm lăng của thực dân Pháp Nhân dân Phú Thọ Hòa cùng với nhân dân lục tỉnh Nam kỳ vùng dậy đấu tranh
Từ năm 1862, ngọn cờ kháng chiến của nhân dân Nam Bộ được phất cao, hình thành các trung tâm chống giặc cứu nước mạnh mẽ Nhân dân đã tự nguyện chiến đấu dưới lá cờ nghĩa, thể hiện quyết tâm “Thề nguyền ra sức đánh Tây” chống lại thực dân Pháp Một trong những cuộc khởi nghĩa tiêu biểu là của Trương Định, người đã tập hợp quân đội và dân binh, tiến thẳng đến Thuận Kiều để phối hợp với quân Nguyễn Tri Phương giữ chiến tuyến Chí Hòa Sau khi đại đồn thất thủ, Trương Định tiếp tục tổ chức kháng chiến tại Gò Công khi các tướng lĩnh triều đình rút lui về Biên Hòa.
Sau khi Trương Định qua đời vào năm 1864, con trai ông, Trương Quyền, đã tiếp tục sự nghiệp kháng chiến, dựng cờ kháng chiến tại vùng Mười tám thôn vườn trầu, gần xã Tân Sơn Nhì và Phú Thọ Hòa Những cư dân ở đây đã sát cánh bên Trương Quyền trong cuộc chiến chống Pháp cho đến năm 1870.
Vào tháng giêng năm 1871, nhân dân Phú Thọ Hòa đã đứng lên theo sự lãnh đạo của Nguyễn Ảnh Thủ, một người xuất thân từ gia đình yêu nước ở xã Tân Sơn Nhì, huyện Tân Bình Ông đã tham gia phong trào Cần Vương và chống Pháp, nhưng bị bắt và kết án 5 năm tù (1863-1867) Sau khi ra tù, ông bí mật chiêu tập nghĩa quân và chờ thời cơ khởi nghĩa Ngày 15 tháng giêng năm 1871, ông lãnh đạo nghĩa quân tấn công đồn Thuận Kiều, tiêu diệt một số lính Pháp và bắt được tên đồn trưởng.
2 tên lính Pháp còn lại đã bắn chết ông”[2;16]
Vào những năm 1913-1916, phong trào “Thiên địa hội” do Phan Xích Long lãnh đạo đã lan rộng tại Nam Kỳ, ảnh hưởng đến Phú Thọ Hòa Người dân Phú Thọ Hòa đã kết hợp với nhân dân Tân Bình tham gia nghĩa quân tấn công khám lớn Sài Gòn vào đêm 14 rạng sáng 15 tháng 4 năm 1916.
Năm 1925, phong trào Hội kín do Nguyễn An Ninh lãnh đạo đã thu hút đông đảo người dân ngoại thành Sài Gòn – Gia Định tham gia, đặc biệt là những người yêu nước từ các xã Tân Sơn Nhì, Phú Thọ Hòa và Bình Hưng Hòa.
Phong trào yêu nước và khởi nghĩa chống thực dân xâm lược tại Nam bộ, đặc biệt là Sài Gòn – Gia Định và vùng Phú Thọ Hòa, thể hiện tinh thần đấu tranh kiên cường và truyền thống bất khuất của dân tộc Việt Nam Mặc dù chưa đạt được thắng lợi do thiếu sự lãnh đạo của một chính đảng vô sản, nhưng tinh thần yêu nước đã được hun đúc qua nhiều thế hệ, khẳng định sự kiên trì của nhân dân ở khắp mọi miền đất nước, trong đó có vùng Tân Bình – Tân Phú.
1.3 PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CỦA NHÂN DÂN PHÚ THỌ HÒA TRƯỚC KHI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI
Vào những năm 1920, phong trào yêu nước chống thực dân Pháp tại Sài Gòn - Gia Định và nhân dân Phú Thọ đã nhận được nhiều ảnh hưởng tích cực từ các sự kiện bên ngoài, đặc biệt là cuộc cách mạng Tân.
Cuộc cách mạng Tôn Trung Sơn ở Trung Quốc năm 1911, tiếp theo là cuộc cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, đã tạo ra ảnh hưởng lớn đến các phong trào đòi độc lập của nhân dân Ấn Độ dưới sự lãnh đạo của Mahatma Gandhi.
Những luồng tư tưởng dân quyền, dân chủ tư sản từ các “Tân thư”,
Văn hóa "Tân văn" của Trung Quốc, với những nhân vật như Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu, đã ảnh hưởng sâu sắc đến tầng lớp nho sĩ Việt Nam, đặc biệt sau chiến thắng của Nhật Bản trong cuộc chiến Nga - Nhật năm 1905 Những nhà Nho tiến bộ như Phan Bội Châu đã khởi xướng phong trào Đông Du, đưa thanh niên Việt Nam sang Nhật học từ 1904 đến 1908, mở đầu cho cuộc vận động giải phóng dân tộc theo hướng dân chủ tư sản Cùng với đó, Phan Chu Trinh cũng phát động phong trào Duy Tân (1906 - 1908), đề cao tư tưởng dân chủ tư sản và khuyến khích "khai dân trí, chấn hưng dân khí, hậu dân sinh," từ đó kích thích phong trào yêu nước mạnh mẽ, đặc biệt ở khu vực Sài Gòn – Gia Định.
Sau khi dập tắt các cuộc đấu tranh của nhân dân, thực dân Pháp đã gia tăng khai thác thuộc địa ở Việt Nam, đặc biệt sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, dẫn đến sự phân hóa sâu sắc trong kinh tế, chính trị và xã hội Giai cấp địa chủ liên kết với thực dân để bóc lột nông dân, tuy nhiên, trong nội bộ địa chủ cũng có những người yêu nước tham gia kháng chiến Giai cấp nông dân, chiếm 90% dân số, phải chịu áp bức từ cả thực dân và phong kiến, tạo ra lòng căm thù đối với chế độ áp bức và khát vọng giành lại quyền sống Giai cấp công nhân xuất hiện từ cuộc khai thác thuộc địa, mang đầy đủ đặc điểm của giai cấp công nhân quốc tế với tinh thần cách mạng cao Giai cấp tư sản bao gồm tư sản công nghiệp, thương nghiệp và nông nghiệp, trong khi tầng lớp tiểu tư sản, gồm học sinh, trí thức và thợ thủ công, sống trong cảnh bấp bênh và dễ trở thành vô sản, nhưng cũng mang trong mình lòng yêu nước và tinh thần cách mạng mạnh mẽ.
Chính sách thống trị của thực dân Pháp đã có ảnh hưởng sâu sắc đến xã hội Việt Nam, đặc biệt trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội Sự xuất hiện của các giai cấp mới, như tiểu tư sản và giai cấp công nhân, đã làm gia tăng mâu thuẫn dân tộc và giai cấp Mặc dù cũng phải chịu áp bức từ thực dân phong kiến, tiểu tư sản và công nhân đã nhanh chóng tiếp thu các tư tưởng cách mạng mới, tổ chức và phát động nhiều phong trào đấu tranh sôi nổi tại Sài Gòn - Gia Định Điều này thể hiện sự khát khao tự do và công bằng của họ trong bối cảnh bị bóc lột và mất nước.
PHONG TRÀO YÊU NƯỚC TRƯỚC KHI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI
ĐỊA ĐẠO PHÚ THỌ HÒA TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG
THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945 – 1954) 2.1 QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG ĐỊA ĐẠO
2.1.1 Thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta
Sau thắng lợi của Cách mạng tháng 8/1945, bộ máy thống trị thực dân và phong kiến bị lật đổ, chính quyền nhân dân được thiết lập trên toàn quốc, mang lại độc lập cho nhân dân Tuy nhiên, nhân dân Phú Thọ Hòa và Sài Gòn – Gia Định phải đối mặt với nhiều khó khăn, bao gồm cả thù trong và giặc ngoài, trong bối cảnh chính quyền cách mạng còn non trẻ Tại miền Bắc, 20 vạn quân Tưởng, được Mỹ hỗ trợ, đã xâm nhập với mục đích tiêu diệt Đảng ta và lật đổ chính quyền cách mạng Trong khi đó, quân Pháp, được Anh giúp đỡ, đang tìm cách tái chiếm Việt Nam Kế hoạch của Leclerc nhằm khôi phục quyền kiểm soát của Pháp tại Đông Dương bao gồm việc thả dù quân đội và nhân viên dân sự xuống miền Bắc Việt Nam để khẳng định chủ quyền Pháp dự định thương thuyết với người bản xứ tùy theo hoàn cảnh từng vùng.