1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Nghiên cứu sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất

175 28 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nghiên Cứu Sự Thỏa Mãn Của Người Dân Trong Bồi Thường, Hỗ Trợ Khi Nhà Nước Thu Hồi Đất
Tác giả Đoàn Ngọc Phương
Người hướng dẫn GS.TS. Hoàng Văn Cường, PGS.TS. Ngô Thị Phương Thảo
Trường học Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Chuyên ngành Quản trị kinh doanh (QTKD Bất động sản)
Thể loại Luận án tiến sĩ
Năm xuất bản 2021
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 175
Dung lượng 2,68 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ SỰ THOẢ MÃN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT (18)
    • 1.1. Sự thỏa mãn, các lý thuyết về sự thỏa mãn (18)
      • 1.1.1. Sự thỏa mãn (18)
      • 1.1.2. Sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất 11 1.1.3. Các lý thuyết về sự thỏa mãn (22)
    • 1.2. Tổng quan nghiên cứu sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ (33)
      • 1.2.1. Sự thỏa mãn về mức bồi thường, hỗ trợ (33)
      • 1.2.2. Sự thỏa mãn về phương thức bồi thường (35)
      • 1.2.3. Sự thỏa mãn về chất lượng tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước (37)
      • 1.2.4. Sự thỏa mãn trong bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất theo đặc điểm của người dân (38)
    • 1.3. Khoảng trống cần nghiên cứu tại Việt Nam (43)
    • 1.4. Đề xuất khung nghiên cứu (44)
  • CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (51)
    • 2.1. Thiết kế nghiên cứu tổng thể (51)
      • 2.1.1. Phương pháp nghiên cứu (51)
      • 2.1.2. Địa bàn khảo sát (52)
    • 2.2. Nghiên cứu định tính (55)
      • 2.2.1. Mục tiêu của nghiên cứu định tính (55)
      • 2.2.2. Thiết kế nghiên cứu (55)
      • 2.2.3. Phát triển thang đo (59)
    • 2.3. Nghiên cứu định lượng (67)
      • 2.3.1. Mục tiêu nghiên cứu định lượng (67)
      • 2.3.2. Thiết kế nghiên cứu định lượng (68)
  • CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ SỰ THỎA MÃN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT (87)
    • 3.1. Sự thỏa mãn của người dân về mức bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất (87)
      • 3.1.1. Quy định của pháp luật về mức bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất (87)
      • 3.1.2. Đánh giá sự thỏa mãn của người dân về mức bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước (91)
    • 3.2. Sự thỏa mãn của người dân về phương thức bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất (102)
      • 3.2.1. Quy định của pháp luật về phương thức bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất . 91 3.2.2. Đánh giá sự thỏa mãn của người dân về phương thức bồi thường khi Nhà nước (102)
    • 3.3. Sự thỏa mãn của người dân về tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất (109)
      • 3.3.1. Quy định của pháp luật về tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước (109)
      • 3.3.2. Đánh giá sự thỏa mãn của người dân về tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất (111)
    • 3.4. Sự thỏa mãn của người dân đối với việc thay đổi điều kiện sống sau khi Nhà nước thu hồi đất (120)
    • 3.5. Mức độ thỏa mãn chung trong việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất (126)
  • CHƯƠNG 4: (137)
    • 4.1. Một số khuyến nghị điều chỉnh chính sách, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ (137)
      • 4.1.1. Về mức bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất (137)
      • 4.1.2. Về phương thức bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất (140)
      • 4.1.3. Về tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất (141)
      • 4.1.4. Về giải pháp ổn định đời sống, bảo đảm sinh kế lâu dài cho người có đất bị thu hồi (142)
      • 4.1.5. Về giải pháp tăng cường công tác quản lý nhà nước về đất đai (143)
    • 4.2. Hạn chế của luận án và hướng nghiên cứu tiếp theo (144)
      • 4.2.1. Hạn chế của luận án (144)
      • 4.2.2. Hướng nghiên cứu tiếp theo (145)

Nội dung

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ SỰ THOẢ MÃN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT

Sự thỏa mãn, các lý thuyết về sự thỏa mãn

Sự thỏa mãn là một khái niệm quan trọng trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong tiếp thị, nơi nó đã được nghiên cứu trong hơn ba thập kỷ Theo Wilton và Nicosia (1986), nhiều mô hình về sự thỏa mãn đã được phát triển trong các lĩnh vực khác nhau, trong khi Kim (1997) cho rằng sự thỏa mãn của người dùng liên quan đến niềm tin và đánh giá của họ về hàng hóa và hành vi mua sắm Lý thuyết xác nhận kỳ vọng của Oliver (1980) chỉ ra rằng mức độ thỏa mãn phụ thuộc vào sự khác biệt giữa kỳ vọng và cảm nhận về sản phẩm Bachelet (1995) định nghĩa sự thỏa mãn của khách hàng là phản ứng cảm xúc đối với trải nghiệm sản phẩm hoặc dịch vụ, trong khi Zeithaml và Bitner (2000) nhấn mạnh rằng sự thỏa mãn là đánh giá của khách hàng về khả năng đáp ứng mong muốn và yêu cầu của họ Những khái niệm này cho thấy sự thỏa mãn của khách hàng có thể được đo lường dựa trên sản phẩm hoặc dịch vụ mà họ trải nghiệm.

Theo Kotler (2001), sự thỏa mãn của khách hàng được định nghĩa là cảm giác của một người khi so sánh kết quả nhận được từ việc tiêu dùng sản phẩm hoặc dịch vụ với những kỳ vọng của họ Những kỳ vọng này xuất phát từ nhu cầu cá nhân, kinh nghiệm trước đó, và thông tin từ quảng cáo cũng như ý kiến từ gia đình và bạn bè Kotler phân loại sự thỏa mãn thành ba mức độ: (1) Không thỏa mãn khi kết quả nhận được thấp hơn mong đợi; (2) Thỏa mãn khi kết quả đạt đúng kỳ vọng; (3) Rất thỏa mãn khi kết quả vượt quá mong đợi.

Theo nghiên cứu của Campbell và cộng sự (1976) cũng như Campbell (1981), sự thỏa mãn được xem là hành động phán xét giữa khát vọng và thành tích, phản ánh từ cảm nhận về sự hoàn thành đến sự thiếu hụt Sự thỏa mãn mang tính cá nhân cao, bị ảnh hưởng bởi kinh nghiệm quá khứ và kỳ vọng hiện tại Morris và Winter (1978) cho rằng nguyên nhân không thỏa mãn có thể do nhu cầu không được đáp ứng Rigby và Vreugdenhil (1987) liên kết sự thỏa mãn với hạnh phúc và khả năng sống, trong khi Rojek và cộng sự (1975) nhấn mạnh rằng sự thỏa mãn với môi trường phụ thuộc vào hai yếu tố chính: cảm nhận về các thuộc tính và tiêu chuẩn tham chiếu để đo lường.

Sự thỏa mãn xảy ra khi sản phẩm hoặc dịch vụ vượt quá mong đợi, trong khi sự không thỏa mãn xuất hiện khi kết quả kém hơn kỳ vọng Kỳ vọng được hình thành từ niềm tin về hiệu suất mà sản phẩm/dịch vụ sẽ mang lại Theo Kotler (2000), sự thỏa mãn là cảm giác vui thích hoặc thất vọng khi so sánh hiệu suất của sản phẩm với kỳ vọng Hoyer và MacInnis (2001) cho rằng sự thỏa mãn liên quan đến cảm giác chấp nhận, hạnh phúc, nhẹ nhõm, phấn khích và vui thích.

Hansemark và Albinsson (2004) xác định rằng sự thỏa mãn là thái độ chung của khách hàng đối với nhà cung cấp dịch vụ, phản ánh cảm xúc về sự khác biệt giữa kỳ vọng và trải nghiệm thực tế Nhiều nghiên cứu về sự thỏa mãn đã áp dụng mô hình xác nhận, với sự đồng thuận rằng sự thỏa mãn được định nghĩa qua việc đánh giá sự khác biệt giữa kỳ vọng trước đó và hiệu suất thực tế của sản phẩm.

Sự thỏa mãn được định nghĩa là quá trình đánh giá giữa những gì đã nhận được và những gì được mong đợi (Parker và Mathews, 2001) Nó phản ánh sự khác biệt giữa khát vọng và thành tích (Campbell và cộng sự, 1976) và bị ảnh hưởng bởi cả các yếu tố vật lý lẫn khả năng hình thành mạng lưới xã hội Cuối cùng, sự thỏa mãn là một phản ứng chủ quan đối với môi trường khách quan (Potter và Cantarero, 2006).

Satsangi và Kearns (1992) định nghĩa sự thỏa mãn của người dân là một khía cạnh tâm lý phức tạp, trong khi Lu (1999) coi đó là một cấu trúc nhận thức Ogu (2002) chỉ ra rằng sự thỏa mãn về nhà ở được sử dụng để đánh giá cảm nhận và cảm xúc của cư dân đối với nơi ở của họ Galester (1985) nhấn mạnh khía cạnh xã hội của sự thỏa mãn, cho thấy nó đã trở thành chỉ số quan trọng cho các nhà phát triển và hoạch định chính sách McCray và Day (1977) đề cập đến sự thỏa mãn về nhà ở như mức độ hài lòng của cá nhân với tình hình nhà ở hiện tại Để đánh giá sự thỏa mãn của khách hàng, có thể sử dụng 6 nhóm chỉ số: i) Kỳ vọng và cảm nhận thực tế; ii) Khả năng giới thiệu sản phẩm/dịch vụ; iii) Trải nghiệm thực tế và lý tưởng; iv) Sự hài lòng tổng thể; v) Sự hài lòng dựa trên cảm tình và nhận thức; vi) Khả năng quay lại.

Sự thỏa mãn của người dân là một khía cạnh đa chiều, được xác định bởi nhiều yếu tố khác nhau, bao gồm đặc điểm hộ gia đình, khu vực lân cận và chất lượng xã hội xung quanh Bechtel (1997) nhấn mạnh rằng sự thỏa mãn không chỉ liên quan đến các yếu tố cá nhân mà còn phản ánh môi trường sống tổng thể Francescato và các cộng sự (1986) cũng cho rằng sự thỏa mãn của người dân là phản ứng đối với môi trường sống, bao gồm cả các khía cạnh vật lý như nhà ở và phát triển khu vực, cũng như các yếu tố xã hội, kinh tế và tổ chức trong cộng đồng.

Lòng trung thành được định nghĩa bởi Neihoff và cộng sự (2001) là sự thể hiện chủ động của lòng tự hào và sự tận tâm đối với tổ chức Nó bao gồm việc phản kháng lại những chỉ trích nhằm vào tổ chức, hạn chế các phàn nàn và nhấn mạnh vào những khía cạnh tích cực của tổ chức.

Sự hài lòng của khách hàng là yếu tố then chốt dẫn đến lòng trung thành, một tài sản quý giá mà mọi thương hiệu đều khao khát Khách hàng trung thành không chỉ tạo ra doanh thu lặp lại mà còn sẵn sàng chi tiêu nhiều hơn cho sản phẩm hoặc dịch vụ của bạn Họ có khả năng trở thành những người ủng hộ thương hiệu, từ đó nâng cao giá trị trọn đời của họ Đáng chú ý, chi phí để thu hút khách hàng mới cao gấp 7 lần so với việc giữ chân khách hàng hiện tại, cho thấy tầm quan trọng của việc duy trì sự hài lòng của khách hàng để tối ưu hóa lợi nhuận.

Hiện nay, nhiều nghiên cứu về sự thỏa mãn đã được thực hiện, tuy nhiên vẫn chưa có sự thống nhất trong quan niệm về khái niệm này Sự thỏa mãn được coi là chỉ số quan trọng trong khoa học quản lý, đặc biệt là trong các nghiên cứu tâm lý F.W Taylor, cha đẻ của khoa học quản lý, đã đưa ra quan điểm rằng người lao động sẽ so sánh tỷ lệ giữa đầu tư và lợi ích nhận được; nếu tỷ lệ này cân bằng, họ sẽ cảm thấy công bằng và hài lòng, ngược lại sẽ cảm thấy bất công và không thỏa mãn Nghiên cứu của ông đã đặt nền móng cho các nghiên cứu tiếp theo về sự thỏa mãn trong bồi thường Mô hình của Lawler (1971) về sự chênh lệch chỉ ra rằng mức độ thỏa mãn phụ thuộc vào sự so sánh giữa những gì người ta thực nhận và những gì họ kỳ vọng được nhận.

Rojek và cộng sự (1975) chỉ ra rằng sự thỏa mãn với một môi trường cụ thể phụ thuộc vào hai yếu tố chính: (1) cách mà các thuộc tính của môi trường được cảm nhận và đánh giá.

(2) tiêu chuẩn tham chiếu theo đó thuộc tính đo lường Theo Knop and Sterward

Sự thỏa mãn, được định nghĩa từ năm 1973, là nhận thức và đánh giá của cá nhân về trải nghiệm của họ Kể từ thập niên 40, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến sự thỏa mãn của người dân Oliver (1980) cho rằng trong quá trình trưng thu đất đai, mức độ thỏa mãn phụ thuộc vào sự so sánh giữa giá trị mà người dân gán cho đất đai và mức bồi thường thực tế Theo lý thuyết phúc lợi xã hội, sự thỏa mãn trong cuộc sống được đo lường qua ba khía cạnh: (1) điều kiện sống vật chất, (2) an sinh xã hội và hỗ trợ việc làm, và (3) nhận thức về thái độ, mối quan hệ xã hội và sự tham gia.

1.1.2 Sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

Nhiều tác giả quốc tế đã nghiên cứu mức độ thỏa mãn của người dân khi Nhà nước thu hồi đất, nổi bật là các nghiên cứu của Deutsch (1973) và Kotilainen (2011).

Các nghiên cứu của Oladapo và Ige (2012), Tyagi và Shinde (2016) chỉ ra rằng mặc dù tính chất và nhóm đối tượng nghiên cứu có sự khác biệt, nhưng tất cả đều gặp thách thức trong việc đạt được mức đồng thuận hoặc mức độ thỏa mãn cao cho các chủ sở hữu đất và bất động sản bị thu hồi trong các dự án quy hoạch.

Tổng quan nghiên cứu sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ

Nghiên cứu toàn cầu đã chỉ ra các yếu tố cốt lõi ảnh hưởng đến sự thỏa mãn của người dân khi đất đai của họ bị thu hồi cho các dự án phục vụ lợi ích Nhà nước và công cộng.

1.2.1 Sự thỏa mãn về mức bồi thường, hỗ trợ

Theo nghiên cứu của Kakulu (2008), cộng đồng thường cảm thấy bất mãn với mức bồi thường liên quan đến cưỡng chế hoặc tranh chấp đất đai Robinson (1995) chỉ ra rằng nếu mức bồi thường đầy đủ và cao hơn, chủ sở hữu sẽ chấp nhận việc thu hồi đất Tuy nhiên, chỉ số thỏa mãn trong khảo sát chỉ đạt dưới 4.0, cho thấy sự không hài lòng với mức bồi thường hiện tại, chủ yếu do chênh lệch giữa tiền bồi thường và giá thị trường (RSI=0,47) Các nghiên cứu của Kotilainen (2011) và Xinliang (2012) cũng xác nhận rằng sự không thỏa mãn của người dân có đất bị thu hồi xuất phát từ sự khác biệt giữa mức bồi thường và giá trị thị trường thực tế của bất động sản Mức bồi thường không đầy đủ trở thành một mâu thuẫn lớn trong quá trình thu hồi đất cho các dự án.

Nghiên cứu của Oladapo và Ige (2012) tại Nigeria phân tích quan điểm của người nhận bồi thường đối với việc thu hồi đất cưỡng chế ở bang Ondo Sử dụng bảng câu hỏi để khảo sát, nghiên cứu tìm hiểu dữ liệu bồi thường và đo lường quan điểm người nhận bồi thường qua thang Likert 5 điểm Kết quả cho thấy có sự chênh lệch lớn giữa mức bồi thường trung bình và giá trị thị trường của tài sản bị thu hồi, với chỉ số thỏa mãn của người nhận bồi thường dưới mức chấp nhận Nghiên cứu nhấn mạnh tầm quan trọng của việc định giá tài sản chính xác và chi trả bồi thường đầy đủ để tránh xung đột xã hội Trong tổng số 976 bảng câu hỏi phát ra, có 703 phản hồi được thu về, cho thấy sự cần thiết trong việc cải thiện quy trình bồi thường cho người bị thu hồi đất.

Mức bồi thường không đầy đủ là nguyên nhân chính gây ra mâu thuẫn xã hội trong quá trình Nhà nước thu hồi đất, đồng thời cũng là thách thức lớn trong các dự án thu hồi đất Nghiên cứu cho thấy mức sống của chủ sở hữu đất giảm sút đáng kể sau khi bị thu hồi Để đảm bảo tính hợp pháp trong việc thu hồi đất, việc bồi thường đúng và đầy đủ cho chủ đất là điều cần thiết.

Odalapo và Ige (2012) nhấn mạnh rằng sự chênh lệch giữa mức tiền bồi thường và giá thị trường là vấn đề nhạy cảm, dẫn đến sự bất mãn của các chủ đất khi nhận được khoản bồi thường không đầy đủ Để cải thiện tình hình, cần có biện pháp định giá chính xác và bồi thường hợp lý nhằm tránh khó khăn cho những người bị thu hồi đất Họ đưa ra 6 đề xuất: (1) Giảm thiểu chênh lệch giữa bồi thường và giá trị thị trường; (2) Các nhà định giá cần dựa vào điều kiện thị trường hiện tại để đảm bảo quá trình thu hồi đất thuận lợi; (3) Nâng cao kỹ năng của các nhà định giá và khảo sát bất động sản; (4) Cho phép sử dụng các biện pháp định giá phù hợp thay vì chỉ theo quy định của Luật sử dụng đất; (5) Đảm bảo quy trình thu hồi đúng để người bị thu hồi nhận đủ bồi thường; (6) Tạo điều kiện cho những người có đất bị thu hồi tham gia vào quá trình và hiểu rõ các khía cạnh liên quan.

Nghiên cứu của Song QU và cộng sự (2015) chỉ ra rằng việc thu hồi đất nông nghiệp tại Trung Quốc bởi chính quyền địa phương cùng với các khoản bồi thường cho nông dân là nguyên nhân chính dẫn đến xung đột xã hội Bài viết dựa trên khảo sát 450 hộ gia đình ở ba tỉnh nông thôn, phân tích tác động của các khoản thanh toán bồi thường và các phương thức bồi thường khác đến sự thỏa mãn của nông dân Kết quả cho thấy sự thỏa mãn của nông dân không chỉ phụ thuộc vào mức bồi thường mà còn vào khoảng cách giữa giá đền bù và giá trị thị trường của đất bị thu hồi Ngoài ra, số tiền bồi thường có tác động tích cực đến sự thỏa mãn của nông dân khi áp dụng hình thức bồi thường an sinh xã hội, nhưng không ảnh hưởng đến sự thỏa mãn khi sử dụng các hình thức bồi thường khác.

1.2.2 Sự thỏa mãn về phương thức bồi thường

Imrie và Thomas (1997) chỉ ra rằng thông báo, thực thi và cơ sở pháp lý của việc mua bán cưỡng chế là yếu tố chính gây ra sự không đồng tình tại Anh Nghiên cứu của Munch (1976) về thu hồi đất cho thấy việc cưỡng chế không nhất thiết hiệu quả hơn so với mua bán trên thị trường tự do Tài sản có giá trị cao thường nhận bồi thường cao hơn giá thị trường, trong khi tài sản giá trị thấp lại nhận mức bồi thường thấp hơn giá thị trường, do cấu trúc giá được quy định bởi tòa án.

Ning Chai (2019) nghiên cứu khía cạnh bồi thường liên quan đến việc tịch thu đất và tài sản ở nông thôn Hàng Châu, đánh giá sự thỏa mãn của người nông dân với các phương pháp bồi thường trong quá trình thu hồi đất, đồng thời xem xét thái độ của những người bị mất đất Nghiên cứu chỉ ra ba phương pháp bồi thường phổ biến: bồi thường bằng tiền, bồi thường thay thế tài sản và bồi thường tái định cư Kết quả nghiên cứu có thể hỗ trợ chính quyền địa phương trong việc xây dựng tiêu chuẩn và phương thức bồi thường hợp lý cho đất đai và tài sản bị tịch thu Đặc biệt, những người nông dân bị tịch thu cho biết họ cảm thấy thỏa mãn hơn với hình thức bồi thường bằng tiền so với bồi thường nhà ở.

Li, N.H (2018) đã tiến hành nghiên cứu dựa trên dữ liệu khảo sát từ nông dân tại thành phố Lưu Dương, một trong những khu vực tiên phong trong cải cách hệ thống ruộng đất nông thôn Nghiên cứu chỉ ra rằng nông dân không hài lòng với phương thức bồi thường thấp Tác giả khuyến nghị cần thiết lập và cải thiện cơ chế cập nhật cho phương thức bồi thường đất cũng như quy trình ra quyết định thu hồi đất, đồng thời nâng cao cơ chế an ninh cho nông dân mất đất nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững của cải cách.

Mức bồi thường và phương thức phân phối tiền bồi thường thu hồi đất ảnh hưởng lớn đến sự hài lòng của nông dân Trong bối cảnh đô thị hóa nhanh chóng, giá trị thị trường của đất canh tác tăng cao, trong khi thu nhập của nông dân vẫn thấp Đất đai không chỉ là tài sản mà còn có chức năng an sinh xã hội, do đó, việc chỉ bồi thường bằng tiền có thể làm giảm sự thỏa mãn của họ Tiêu chuẩn hóa thủ tục trưng thu đất là yêu cầu cần thiết để xây dựng hệ thống trưng thu đất nông thôn quốc gia và là yếu tố quan trọng để cải thiện sự thỏa mãn của nông dân.

Lin (2006) đã nghiên cứu một dự án mở rộng đường tại Anh và Đài Loan, trong đó chủ sở hữu đất không chấp nhận tiền mặt khi bị cưỡng chế mua bán Thay vào đó, họ lựa chọn biện pháp bồi thường định hướng thị trường, bao gồm việc bán tài sản, di dời hoặc cho phép người dân thuê lại.

Theo Kotilainen (2012), chủ đất thường ưa chuộng thoả thuận khi có nhiều lựa chọn, không chỉ là tiền mà còn có thể là bồi thường bằng đất Cơ sở lý thuyết về bồi thường cho thấy sự khác biệt giữa thoả thuận và cưỡng chế, với xu hướng nghiêng về thoả thuận hơn do các lợi ích như giá chuyển nhượng và tính thanh toán nhanh Các chủ đất rất mong muốn thoả thuận với bên thứ ba thay vì chỉ làm việc với đại diện của cơ quan quản lý đường xá Finnra Việc có người trung gian dàn xếp cũng có thể mang lại lợi ích lớn.

Hu và cộng sự (2014) đã trình bày một phương pháp tiếp cận sự hài lòng cuộc sống thông qua bộ chỉ số để đánh giá tác động của các chính sách bồi thường khác nhau đối với nông dân không có đất, tập trung vào các yếu tố kinh tế, xã hội cá nhân hoặc gia đình, tình trạng sức khỏe và mối quan hệ xã hội Trong một số trường hợp, các giải pháp thay thế có thể được áp dụng thay vì chỉ sử dụng tiền Bồi thường bằng đất có thể hiệu quả trong các dự án lớn ở nông thôn nhưng lại không phù hợp với khu vực đô thị, nơi khó có đủ đất tương tự để bồi thường Ví dụ, trong một dự án mở rộng đường, việc chỉ chiếm một phần nhỏ của thửa đất khiến cho việc áp dụng các biện pháp bồi thường khác ngoài tiền trở nên khó khăn.

1.2.3 Sự thỏa mãn về chất lượng tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất và sự tham gia của người dân

Nghiên cứu của Tyagi và Shinde (2016) đã chỉ ra những khó khăn trong việc thu hồi đất tại Ấn Độ, đặc biệt trong bối cảnh phát triển khu công nghiệp và xây dựng cơ sở hạ tầng Qua khảo sát và phỏng vấn, kết quả cho thấy mức độ hài lòng của người dân đối với chính quyền trong việc tổ chức thu hồi đất chưa đạt yêu cầu, với tỷ lệ đồng ý dưới 50% Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp như: (1) cần có điều khoản để lắng nghe ý kiến của những người chủ đất bị ảnh hưởng; (2) cung cấp thông tin rõ ràng cho người dân địa phương về kế hoạch thu hồi; (3) phát hành sách hướng dẫn về chính sách bồi thường và quy trình tái phân bổ đất; (4) giải thích rõ ràng các luật và quy tắc liên quan cho người bị ảnh hưởng trước khi thu hồi; (5) nhận diện nguyên nhân thất bại của kế hoạch do mâu thuẫn lợi ích và chính sách không rõ ràng; và (6) khẳng định tầm quan trọng của sự tham gia của công chúng và quyền đưa ra ý kiến của người dân trong quá trình này.

Theo Xianling (2012), hệ thống tổ chức chưa hoàn thiện và sự can thiệp của Chính phủ đã gây ra sự không hài lòng của người dân khi Nhà nước thu hồi đất Imrie và Thomas (1997) (trong nghiên cứu của Kotilainen, 2012) nhấn mạnh rằng việc thông báo và thực hiện bồi thường, hỗ trợ là yếu tố quan trọng quyết định sự thỏa mãn của người dân.

Khoảng trống cần nghiên cứu tại Việt Nam

Nhiều nghiên cứu đã đánh giá mức độ thỏa mãn của người dân trong bồi thường và hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất, nhưng các nghiên cứu này thường được thực hiện ở các quốc gia có chế độ quản lý đất đai khác với Việt Nam.

Nghiên cứu quốc tế đã chỉ ra nhiều khía cạnh để đánh giá sự thỏa mãn, tuy nhiên, tại Việt Nam vẫn chưa có nghiên cứu nào xây dựng các yếu tố cấu thành sự thỏa mãn cũng như các tiêu chí đo lường cụ thể phù hợp với bối cảnh địa phương.

Nghiên cứu về sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường và hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam vẫn chưa được lượng hóa Do đó, luận án sẽ kế thừa các nghiên cứu trước đây trong và ngoài nước, đồng thời tiếp tục khảo sát tình hình tại Việt Nam với các yếu tố như chế độ sở hữu đất đai, chính sách pháp luật và điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội đặc thù, nhằm làm nổi bật những khác biệt so với các quốc gia khác.

Nghiên cứu này nhằm xây dựng các yếu tố cấu thành và chỉ tiêu đánh giá sự thỏa mãn của người dân tại Việt Nam trong bối cảnh thu hồi đất Nội dung nghiên cứu tập trung vào cảm nhận của người dân về bốn khía cạnh chính: 1) Mức độ bồi thường và hỗ trợ; 2) Phương thức bồi thường; 3) Tổ chức thực hiện bồi thường và hỗ trợ; 4) Sự thay đổi trong cuộc sống sau khi Nhà nước thu hồi đất Các khía cạnh này phản ánh tổng thể sự thỏa mãn của người dân trong quá trình thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ.

Tại Việt Nam, còn thiếu các nghiên cứu về sự thỏa mãn của người dân đối với chính sách bồi thường và hỗ trợ của Nhà nước khi thu hồi đất, đặc biệt là theo các đặc điểm của hộ gia đình như nghề nghiệp, trình độ của chủ hộ và nơi cư trú của người có đất bị thu hồi.

Luận án sẽ tập trung vào việc xác định các yếu tố cấu thành và tiêu chí đánh giá sự thỏa mãn của người dân, cũng như sự khác biệt trong cảm nhận giữa các nhóm trong BT và HT Nghiên cứu sẽ vận dụng lý thuyết vào thực tiễn để thực hiện đánh giá, từ đó đưa ra khuyến nghị chính sách phù hợp với bối cảnh Việt Nam, đảm bảo sự liên kết giữa lý luận và thực tiễn.

Đề xuất khung nghiên cứu

Trong nghiên cứu này, sự thỏa mãn của người dân được xác định là cảm giác hài lòng khi họ đạt được nhu cầu và mong muốn của mình so với thực tế nhận được Đặc thù về chế độ quản lý và sử dụng đất ở Việt Nam đã dẫn đến việc định nghĩa một số khái niệm trong nghiên cứu này.

Nhà nước thu hồi đất là quá trình mà Nhà nước quyết định lấy lại quyền sử dụng đất từ người dân, dựa trên cơ chế bắt buộc và thông qua các biện pháp hành chính.

Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là quá trình mà Nhà nước hoàn trả giá trị quyền sử dụng đất cho người sử dụng đối với diện tích đất bị thu hồi.

Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước cung cấp sự trợ giúp cho những người bị thu hồi đất nhằm ổn định cuộc sống, khôi phục sản xuất và phát triển bền vững.

Tổ chức thực hiện BT và HT khi Nhà nước thu hồi đất là nhiệm vụ của các cơ quan chức năng, dựa trên quy định pháp luật nhằm giải quyết những vấn đề cụ thể thuộc trách nhiệm của họ.

Dựa trên mục tiêu nghiên cứu và kết quả tổng quan, luận án xây dựng khung phân tích phù hợp với bối cảnh Việt Nam, tập trung vào 4 khía cạnh chính: mức bồi thường (BT), hình thức hỗ trợ tái định cư (HT), tổ chức thực hiện bồi thường và hỗ trợ, cùng với sự thay đổi cuộc sống sau thu hồi đất Đề xuất sơ đồ phân tích sự thỏa mãn của người dân trong quá trình bồi thường và hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất, trong đó sự thỏa mãn chung được coi là biến tiềm ẩn.

Hình 1.1 Khung phân tích sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất

- Mục đích của dự án

- Thay đổi về giá đất

PHƯƠNG THỨC BT, HT SỰ THỎA

Sự thỏa mãn về mức bồi thường, hỗ trợ

Mức bồi thường (BT) và hỗ trợ (HT) là yếu tố quyết định lợi ích kinh tế cho người có đất bị thu hồi, ảnh hưởng lớn đến sự thoả mãn của người dân Khoản BT, HT mà người dân nhận được khi Nhà nước thu hồi đất nhằm khôi phục giá trị tài sản, nguồn sinh sống và lợi ích vật chất, tinh thần bị mất do triển khai dự án Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng mức bồi thường thấp là nguyên nhân chính dẫn đến sự không thoả mãn của người dân và xung đột giữa các bên liên quan đến thu hồi đất.

Nghiên cứu năm 1995 cho thấy rằng khi mức bồi thường cao hơn mong đợi của người dân, chủ sở hữu sẽ chào đón việc thu hồi đất Tuy nhiên, sự chênh lệch giữa tiền bồi thường và giá thị trường có thể gây ra sự thất vọng Để tránh mâu thuẫn xã hội, cần có phương pháp định giá tài sản chính xác và đảm bảo bồi thường đầy đủ, nhằm bảo vệ quyền lợi của người bị thu hồi đất và đảm bảo tính công bằng (Oladapo và Ige, 2012).

Sự thỏa mãn về phương thức bồi thường

Các nghiên cứu trên thế giới chỉ ra rằng có nhiều phương thức bồi thường, bao gồm bồi thường bằng tiền một lần, bồi thường theo các khoảng thời gian xác định, bồi thường kết hợp giữa tiền và đất, và bồi thường thông qua các khoản an sinh xã hội Mỗi phương thức bồi thường mang lại mức độ thỏa mãn khác nhau cho người dân bị thu hồi đất, mặc dù có thể cùng một mức bồi thường Chế độ an sinh xã hội thường tạo ra sự thỏa mãn cao hơn cho người nông dân so với bồi thường bằng tiền mặt Trong một số trường hợp, bồi thường bằng đất có thể hiệu quả hơn bồi thường bằng tiền, tùy thuộc vào đặc điểm gia đình, nơi ở và điều kiện sống của họ.

Sự thỏa mãn về tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ

Quá trình tổ chức thực hiện bồi thường và hỗ trợ (BT, HT) có ảnh hưởng lớn đến sự thỏa mãn của người dân trong việc thu hồi đất Nếu tổ chức thực hiện thành công, tạo được niềm tin và sự ủng hộ từ người dân, sẽ có tác động tích cực đến hoạt động thu hồi đất Cán bộ hỗ trợ nhiệt tình giải quyết ý kiến của người dân sẽ góp phần nâng cao thiện cảm và sự ủng hộ Hơn nữa, việc cung cấp thông tin rõ ràng về kế hoạch thu hồi đất, cũng như tài liệu hướng dẫn về chính sách và quy trình tái phân bổ quỹ đất, sẽ giúp người dân cảm thấy được tôn trọng và hiểu biết hơn, từ đó nâng cao mức độ thỏa mãn của họ.

Thái độ nhiệt tình của cán bộ, công chức trong việc phục vụ người dân, cùng với việc cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hóa và công khai thông tin, sẽ nâng cao mức độ hài lòng của cộng đồng.

Sự thỏa mãn về thay đổi cuộc sống

Các dự án thu hồi đất cần chú trọng đến chất lượng cuộc sống của người dân, bao gồm cải thiện điều kiện sống, bảo đảm quyền lợi xã hội, phát triển cơ sở hạ tầng công cộng và bảo vệ môi trường Khi những yếu tố này được đảm bảo, người dân sẽ cảm thấy hài lòng hơn không chỉ với khoản bồi thường đất mà còn với cơ hội cải thiện cuộc sống vượt xa mong đợi, từ đó nâng cao sự thỏa mãn và chất lượng cuộc sống của họ (Hu và cộng sự, 2014).

Sự thoả mãn của người dân theo đặc điểm của hộ gia đình

Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT có thể có sự khác biệt theo một số đặc điểm của hộ như:

Nghề nghiệp của hộ gia đình đóng vai trò quan trọng trong việc phản ánh sinh kế và nguồn thu nhập chính, ảnh hưởng đến mức độ thoả mãn của các thành viên Những hộ gia đình có nghề nghiệp ổn định thường trải nghiệm sự thoả mãn cao hơn so với những hộ có công việc bấp bênh hoặc không có nguồn sinh kế Tuy nhiên, các hộ gia đình có nguồn sinh kế tốt đôi khi lại có kỳ vọng cao hơn về mức bồi thường, dẫn đến mức độ thoả mãn có thể thấp hơn Nghiên cứu này sẽ phân tích sự khác biệt trong mức độ thoả mãn của người dân theo nhóm nghề nghiệp trong bối cảnh bồi thường.

Trình độ của chủ hộ là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến nhận thức của người dân về các vấn đề xung quanh, với người có trình độ cao thường có nhận thức tốt hơn Sự hiểu biết này giúp họ dễ dàng chấp nhận hoặc phản đối các vấn đề liên quan đến BT, HT đất Nghiên cứu này sẽ kế thừa các công trình trước đó để phân tích sự khác biệt trong mức độ thoả mãn của người dân theo nhóm trình độ của chủ hộ.

Người dân sinh sống ở các vùng miền khác nhau có những đặc điểm kinh tế, xã hội và văn hóa đa dạng Sự khác biệt này được nhấn mạnh bởi Li và Chen, cho thấy rằng mỗi vùng miền đều mang đến những nét đặc trưng riêng, ảnh hưởng đến đời sống và phong tục tập quán của người dân.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

ĐÁNH GIÁ SỰ THỎA MÃN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT

Ngày đăng: 08/09/2021, 15:30

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Adams, J. (1963), “Towards an understvàing of inequity”. The Journal of Abnormal and Social Psychology, 67(5), pp.422-436 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Towards an understvàing of inequity”. "The Journal of Abnormal and Social Psychology
Tác giả: Adams, J
Năm: 1963
2. Alias, A. and Nasir Daud, M. D. (2006), “Payment of adequate compensation for lvà acquisition in Malaysia”. Pacific Rim Property Research Journal, 12(3), 326-349 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Payment of adequate compensation for lvà acquisition in Malaysia”. "Pacific Rim Property Research Journal
Tác giả: Alias, A. and Nasir Daud, M. D
Năm: 2006
3. Allardt, E. (1993), Having, loving, being. An alternative to the Swedish model of welfare research. Nussbaum M., Sen A., The quality of life, Oxford, Clarendon press, Oxford Sách, tạp chí
Tiêu đề: Having, loving, being. An alternative to the Swedish model of welfare research
Tác giả: Allardt, E
Năm: 1993
4. Anka Lisec, Tomaz Primo, Miran Ferlana, Rados Sumrada and Samo Drobnea (2014), “Lvà owners’ perception of lvà consolidation and their satisfaction with the results – Slovenian experiences”, Lvà Use Policy, 38 (2014) 550–563, Elsevier Ltd. All rights reserved Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lvà owners’ perception of lvà consolidation and their satisfaction with the results – Slovenian experiences”, "Lvà Use Policy
Tác giả: Anka Lisec, Tomaz Primo, Miran Ferlana, Rados Sumrada and Samo Drobnea
Năm: 2014
5. Aziam, M. (2009), “A Conceptual Framework on House Buyers”, Satisfaction of Housing Projects, Maznah Ghazali Universiti Teknologi, MARA, Malaysia Sách, tạp chí
Tiêu đề: A Conceptual Framework on House Buyers”
Tác giả: Aziam, M
Năm: 2009
6. Bachelet, D. (1995) “Measuring Satisfaction, or the Chain, the Tree and the Nest in Brooks, Richard Ed”. Customer Satisfaction Research, Amsterdam, European Society for Opinion and Marketing Research Sách, tạp chí
Tiêu đề: Measuring Satisfaction, or the Chain, the Tree and the Nest in Brooks, Richard Ed”
7. Bachelet, D. (1995), “Measuring Satisfaction; or the Chain, the Tree, and the Nest”, Customer Satisfaction Research, Brooker, R.(ed), Emosar Sách, tạp chí
Tiêu đề: Measuring Satisfaction; or the Chain, the Tree, and the Nest”
Tác giả: Bachelet, D
Năm: 1995
8. Bayram, Nuran and Aytaỗ, Serpil and Aytac, Mustafa and Sam, Neslihan and Bilgel, Nazan. (2012). “Poverty, Social Exclusion, and Life Satisfaction: A Study From Turkey”. Journal of Poverty. 16. 375-391.10.1080/10875549.2012.720656 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Poverty, Social Exclusion, and Life Satisfaction: A Study From Turkey”. "Journal of Poverty
Tác giả: Bayram, Nuran and Aytaỗ, Serpil and Aytac, Mustafa and Sam, Neslihan and Bilgel, Nazan
Năm: 2012
9. Bechtel, R.B. (1997). Environment & behavior: An Introduction. Thous and Oaks, London: Sage Publication, (Chapter 2, 14) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Environment & behavior: An Introduction. Thous "and" Oaks, London
Tác giả: Bechtel, R.B
Năm: 1997
10. Bellani, Luna, D'Ambrosio, Conchita. (2011). “Deprivation, Social Exclusion and Subjective Well-Being”. Social Indicators Research. 104. 67-86.10.1007/s11205-010-9718-0 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Deprivation, Social Exclusion and Subjective Well-Being”. "Social Indicators Research
Tác giả: Bellani, Luna, D'Ambrosio, Conchita
Năm: 2011
11. Bitner, M. (1987), “Contextual cues and consumer satisfaction: The role of physical surroundings and employee behaviors in service settings”, Unpublished Doctoral Dissertation, University of Washington Sách, tạp chí
Tiêu đề: Contextual cues and consumer satisfaction: The role of physical surroundings and employee behaviors in service settings”
Tác giả: Bitner, M
Năm: 1987
13. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2014a), Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, ban hành ngày 30 tháng 6 năm 2014 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
14. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2014b), Thông tư số 36/2014/TT-BTNMT quy định chi tiết phương pháp định giá đất; xây dựng, điều chỉnh bảng giá đất; định giá đất cụ thể và tư vấn xác định giá đất, ban hành ngày 30 tháng 6 năm 2014 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thông tư số 36/2014/TT-BTNMT quy định chi tiết phương pháp định giá đất; xây dựng, điều chỉnh bảng giá đất; định giá đất cụ thể và tư vấn xác định giá đất
15. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2017), Thông tư số 33/2017/TT-BTNMT quy định chi tiết Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06 tháng 01 năm 2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành Luật đất đai và sửa đổi, bổ sung một số điều của các thông tư hướng dẫn thi hành Luật đất đai, ban hành ngày 29 tháng 9 năm 2017 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thông tư số 33/2017/TT-BTNMT quy định chi tiết Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06 tháng 01 năm 2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành Luật đất đai và sửa đổi, bổ sung một số điều của các thông tư hướng dẫn thi hành Luật đất đai
Tác giả: Bộ Tài nguyên và Môi trường
Năm: 2017
16. Bohnke, P. (2005). First European quality of life survey: Life satisfaction, happiness and sense of belonging. Luxembourg: European Foundation for the Improvement of Living and Working Conditions, Office for Official Publications of the European Communities Sách, tạp chí
Tiêu đề: First European quality of life survey: Life satisfaction, happiness and sense of belonging. Luxembourg: European Foundation for the Improvement of Living and Working Conditions
Tác giả: Bohnke, P
Năm: 2005
17. Brown, B, (1993), “Rural community satisfaction and attachment in mass consumer society”, Rural Sociology, 58, 387-403 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Rural community satisfaction and attachment in mass consumer society”, "Rural Sociology
Tác giả: Brown, B
Năm: 1993
18. Cadotte, E., Woodruff.R. and Jenkins, R. (1983), “Expectations and norms in models of consumer satisfaction”, Journal of Marketing Research, Vol. 8 (3), pp.305-314 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Expectations and norms in models of consumer satisfaction”, "Journal of Marketing Research
Tác giả: Cadotte, E., Woodruff.R. and Jenkins, R
Năm: 1983
19. Campbell, A. (1976), The quality of American life. perceptions, evaluation and satisfaction. Russell Sage foundation. U.S.A Sách, tạp chí
Tiêu đề: The quality of American life. perceptions, evaluation and satisfaction
Tác giả: Campbell, A
Năm: 1976
33. Colquitt, J. A., Scott, B. A., Judge, T. A., & Shaw, J. C. (2006). Justice and personality: Using integrative theories to derive moderators of justice effects.Organizational Behavior and Human Decision Processes, 100(1), 110-127.doi:http://dx.doi.org/10.1016/j.obhdp.2005.09.001 Link
72. Konovsky, M. A. (2000). Understanding procedural justice and its impact on business organizations. Journal of Management, 26(3), 489-511.doi:http://dx.doi.org/10.1016/S0149-2063(00)00042-8 Link

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình 1.1. Khung phân tích sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất  - Nghiên cứu sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất
Hình 1.1. Khung phân tích sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất (Trang 45)
Bảng 2.2. Bảng mô tả biến quan sát sử dụng trong phiếu hỏi - Nghiên cứu sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất
Bảng 2.2. Bảng mô tả biến quan sát sử dụng trong phiếu hỏi (Trang 62)
Hình 2.1. Mô hình nghiên cứu - Nghiên cứu sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất
Hình 2.1. Mô hình nghiên cứu (Trang 66)
Bảng 2.3. Bảng mô tả mẫu nghiên cứu theo phương pháp định lượng - Nghiên cứu sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất
Bảng 2.3. Bảng mô tả mẫu nghiên cứu theo phương pháp định lượng (Trang 69)
Bảng 2.6a. Kiểm định Cronbach’s Alpha cho Tổ chức thực hiện Reliability Statistics  - Nghiên cứu sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất
Bảng 2.6a. Kiểm định Cronbach’s Alpha cho Tổ chức thực hiện Reliability Statistics (Trang 73)
Bảng 2.6b. Kiểm định Cronbach’s Alpha cho Tổ chức thực hiện Reliability Statistics  - Nghiên cứu sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất
Bảng 2.6b. Kiểm định Cronbach’s Alpha cho Tổ chức thực hiện Reliability Statistics (Trang 74)
Bảng 2.7. Kiểm định Cronbach’s Alpha cho Sự thay đổi cuộc sống Reliability Statistics  - Nghiên cứu sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất
Bảng 2.7. Kiểm định Cronbach’s Alpha cho Sự thay đổi cuộc sống Reliability Statistics (Trang 74)
Bảng 2.8. Kiểm định KMO và Bartlett KMO và Bartlett's Test  - Nghiên cứu sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất
Bảng 2.8. Kiểm định KMO và Bartlett KMO và Bartlett's Test (Trang 75)
Hình 2.2. Kết quả khẳng định CFA - Nghiên cứu sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất
Hình 2.2. Kết quả khẳng định CFA (Trang 80)
Như vậy, nhìn vào Hình 2.2 có thể thấy đối với sự thỏa mãn về mức bồi thường thì đóng góp chủ yếu từ biến quan sát MUCBT4 (Mức hỗ trợ cho người có đất bị thu  hồi bảo đảm ổn định đời sống, sản xuất) đóng vai trò mạnh vào sự thỏa mãn về mức bồi  thường - Nghiên cứu sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất
h ư vậy, nhìn vào Hình 2.2 có thể thấy đối với sự thỏa mãn về mức bồi thường thì đóng góp chủ yếu từ biến quan sát MUCBT4 (Mức hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi bảo đảm ổn định đời sống, sản xuất) đóng vai trò mạnh vào sự thỏa mãn về mức bồi thường (Trang 81)
Bảng 3.1. Sự thỏa mãn về mức BT, HT - Nghiên cứu sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất
Bảng 3.1. Sự thỏa mãn về mức BT, HT (Trang 92)
Hình 3.1. Tỉ lệ người trả lời cho biết hộ gia đình bị thu hồi đất được đền bù với giá xấp xỉ giá thị trường (%)  - Nghiên cứu sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất
Hình 3.1. Tỉ lệ người trả lời cho biết hộ gia đình bị thu hồi đất được đền bù với giá xấp xỉ giá thị trường (%) (Trang 95)
Bảng 3.2. Sự thỏa mãn về BT, HT của người dân chia theo trình độ CMKT - Nghiên cứu sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất
Bảng 3.2. Sự thỏa mãn về BT, HT của người dân chia theo trình độ CMKT (Trang 98)
Bảng 3.4. Sự thỏa mãn về mức BT, HT của người dân chia theo vùng miền - Nghiên cứu sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất
Bảng 3.4. Sự thỏa mãn về mức BT, HT của người dân chia theo vùng miền (Trang 101)
Bảng 3.5. Sự thỏa mãn của người dân về phương thức bồi thường - Nghiên cứu sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất
Bảng 3.5. Sự thỏa mãn của người dân về phương thức bồi thường (Trang 104)
Bảng 3.6. Sự thỏa mãn của người dân về phương thức bồi thường chia theo trình độ CMKT  - Nghiên cứu sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất
Bảng 3.6. Sự thỏa mãn của người dân về phương thức bồi thường chia theo trình độ CMKT (Trang 106)
Bảng 3.7. Sự thỏa mãn của người dân về phương thức bồi thường chia theo nghề nghiệp  - Nghiên cứu sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất
Bảng 3.7. Sự thỏa mãn của người dân về phương thức bồi thường chia theo nghề nghiệp (Trang 107)
Bảng 3.8. Sự thỏa mãn của người dân về phương thức bồi thường chia theo vùng miền  - Nghiên cứu sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất
Bảng 3.8. Sự thỏa mãn của người dân về phương thức bồi thường chia theo vùng miền (Trang 108)
Hình 3.2. Tỉ lệ hộ gia đình được thông báo cụ thể về mục đích sử dụng đất mới - Nghiên cứu sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất
Hình 3.2. Tỉ lệ hộ gia đình được thông báo cụ thể về mục đích sử dụng đất mới (Trang 115)
Kết quả Bảng 3.12 cho thấy sự thoả mãn về tổ chức thực hiện BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất đối với người dân miền Bắc được đánh giá cao hơn (2,71 điểm) so  với người dân miền Trung (2,64 điểm) và miền Nam (2,66 điểm) - Nghiên cứu sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất
t quả Bảng 3.12 cho thấy sự thoả mãn về tổ chức thực hiện BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất đối với người dân miền Bắc được đánh giá cao hơn (2,71 điểm) so với người dân miền Trung (2,64 điểm) và miền Nam (2,66 điểm) (Trang 119)
Bảng 3.13. Sự thỏa mãn về thay đổi các điều kiện sống của người dân - Nghiên cứu sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất
Bảng 3.13. Sự thỏa mãn về thay đổi các điều kiện sống của người dân (Trang 121)
Bảng 3.14. Sự thỏa mãn về thay đổi các điều kiện sống của người dân chia theo trình độ CMKT  - Nghiên cứu sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất
Bảng 3.14. Sự thỏa mãn về thay đổi các điều kiện sống của người dân chia theo trình độ CMKT (Trang 123)
Bảng 3.17. Mức độ thỏa mãn chung của người dân - Nghiên cứu sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất
Bảng 3.17. Mức độ thỏa mãn chung của người dân (Trang 126)
Bảng 3.18. Kiểm định ANOVA về khác biệt giá trị trung bình giữa các vùng - Nghiên cứu sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất
Bảng 3.18. Kiểm định ANOVA về khác biệt giá trị trung bình giữa các vùng (Trang 128)
Bảng 3.19. Kiểm định ANOVA về khác biệt giá trị trung bình theo nhóm trình độ - Nghiên cứu sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất
Bảng 3.19. Kiểm định ANOVA về khác biệt giá trị trung bình theo nhóm trình độ (Trang 129)
Bảng 3.20 Kiểm định ANOVA về khác biệt giá trị trung bình theo nghề nghiệp - Nghiên cứu sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất
Bảng 3.20 Kiểm định ANOVA về khác biệt giá trị trung bình theo nghề nghiệp (Trang 129)
2. Gia đình ông/bà được bồi thường theo hình thức nào? - Nghiên cứu sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất
2. Gia đình ông/bà được bồi thường theo hình thức nào? (Trang 169)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w