1. Trang chủ
  2. » Kinh Doanh - Tiếp Thị

Luận văn Kinh tế ĐỘC QUYỀN: KHOẢNG CÁCH KỲ VỌNG KIỂM TOÁN TRONG NHẬN THỨC CỦA CÁC NHÀ ĐẦU TƯ KHI VIỆT NAM GIA NHẬP TPP

67 24 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Khoảng Cách Kỳ Vọng Kiểm Toán Trong Nhận Thức Của Các Nhà Đầu Tư Khi Việt Nam Gia Nhập TPP
Trường học Trường Đại Học Công Nghiệp Tp. Hồ Chí Minh
Thể loại báo cáo tổng kết đề tài khoa học và công nghệ cấp trường
Thành phố Tp. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 67
Dung lượng 190,19 KB
File đính kèm VIỆT NAM GIA NHẬP TPP.rar (183 KB)

Cấu trúc

  • DANH MỤC BẢNG

  • DANH MỤC HÌNH

  • DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

  • PHẦN GIỚI THIỆU

    • 1. Vấn đề nghiên cứu

    • 2. Mục tiêu nghiên cứu

    • 3. Câu hỏi nghiên cứu.

    • 4. Mô hình nghiên cứu của Porter

    • 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

    • 6. Phương pháp nghiên cứu

    • 7. Đóng góp mới của Đề tài

    • 8. Cấu trúc của Đề tài

  • CHƯƠNG 1:

  • TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC VỀ KHOẢNG CÁCH KỲ VỌNG KIỂM TOÁN

    • 1.1. Giới thiệu

    • 1.2. Lý thuyết về khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán

    • 1.2.1. Khái niệm khoảng cách kỳ vọng kiểm toán

    • 1.2.2. Mô hình cấu trúc của AEG

    • 1.3. Các nghiên cứu trước về khoảng cách kỳ vọng kiểm toán.

    • 1.3.1. Các nghiên cứu trên thế giới về khoảng cách kỳ vọng.

    • 1.3.2. Các nghiên cứu trước ở Việt Nam

    • 1.4. Kết quả và những hạn chế từ nghiên cứu trước

    • 1.4.1. Kết quả khảo sát khoảng cách kỳ vọng

    • 1.4.2. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu

    • 2.1. Giới thiệu

    • 2.2. Lịch sử phát triển kiểm toán và trách nhiệm kiểm toán viên

    • 2.2.1. Lịch sử phát triển kiểm toán và trách nhiệm của kiểm toán viên trên bình diện quốc tế.

    • 2.2.1.1. Giai đoạn trước năm 1840

    • 2.2.1.2. Giai đoạn từ năm 1840 -1920

    • 2.2.1.3. Giai đoạn từ năm 1920 -1960

    • 2.2.1.4. Giai đoạn từ năm 1960 -1990

    • 2.2.1.5. Giai đoạn từ cuối thập niên 1990 đến nay

    • 2.2.2. Lịch sử phát triển kiểm toán độc lập và những thay đổi trách nhiệm kiểm toán viên tại Việt Nam

    • 2.2.2.1. Giai đoạn năm 1994-2011

    • Bảng 2.1. Quy định trách nhiệm của kiểm toán viên độc lập.

    • 2.2.2.2. Giai đoạn từ năm 2012 đến nay.

    • 2.3. Thực trạng AEG ở Việt Nam

    • 2.3.1. Khoảng cách kỳ vọng hợp lý tại Việt Nam

    • 2.3.2. Khoảng cách hoàn thiện chuẩn mực kiểm toán

    • 2.3.3. Khoảng cách chất lượng hoạt động kiểm toán.

    • 2.4. Khái quát về Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)

    • 2.4.1. Lịch sử hình thành Hiệp định TPP

    • 2.4.2 Những nội dung cơ bản của Hiệp định TPP

    • 2.4.3. Tác động của TPP đến đến nhận thức của nhà đầu tư đối với nghề nghiệp kiểm toán.

    • 2.5. Kết luận

  • CHƯƠNG 3 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

    • 3.1. Giới thiệu

    • 3.2. Phương pháp nghiên cứu.

    • 3.3. Quy trình nghiên cứu.

    • 3.3.1. Thiết kế bảng khảo sát

    • Bảng 3.1. Câu hỏi khảo sát AEG

    • Bảng 3.2. Nội dung và thang đo khảo sát

    • 3.3.2. Đối tượng khảo sát

    • 3.3.3. Khung chọn mẫu và kích thước mẫu

    • 3.3.4. Phương pháp chọn mẫu

    • 3.4.5. Thực hiện khảo sát

    • 3.4.6. Quy trình phân tích dữ liệu

    • Bảng 3.3. Tiêu chuẩn và phương pháp đánh giá

    • 3.5. Kết luận

  • CHƯƠNG 4: PHÂN TÍCH VÀ THẢO LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

    • 4.1. Giới thiệu

    • 4.2.1. Trách nhiệm KTV - Thành phần khoảng cách hợp lý

    • 4.2.1.1. Trách nhiệm KTV nên thực hiện

Nội dung

Dịch vụ thành lập Thay đổi Giấy phép kinh doanh cty Việt Nam cty vốn FDI Tuyển Cộng tác viên (CK 15% gói Dịch vụ) 0899315716 DANH MỤC BẢNGivDANH MỤC HÌNHivDANH MỤC CHỮ VIẾT TẮTivPHẦN GIỚI THIỆU11.Vấn đề nghiên cứu12.Mục tiêu nghiên cứu23.Câu hỏi nghiên cứu.24.Mô hình nghiên cứu của Porter35.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu36.Phương pháp nghiên cứu37.Đóng góp mới của Đề tài48.Cấu trúc của Đề tài5CHƯƠNG 1:6TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC VỀ KHOẢNG CÁCH KỲ VỌNG KIỂM TOÁN61.1.Giới thiệu61.2.Lý thuyết về khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán61.2.1.Khái niệm khoảng cách kỳ vọng kiểm toán61.2.2.Mô hình cấu trúc của AEG81.3.Các nghiên cứu trước về khoảng cách kỳ vọng kiểm toán.101.3.1.Các nghiên cứu trên thế giới về khoảng cách kỳ vọng101.3.2.Các nghiên cứu trước ở Việt Nam191.4.Kết quả và những hạn chế từ nghiên cứu trước201.4.1.Kết quả khảo sát khoảng cách kỳ vọng201.4.2.Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu22CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN VỀ TRÁCH NHIỆM KIỂM TOÁN VIÊN TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH232.1.Giới thiệu232.2.Lịch sử phát triển kiểm toán và trách nhiệm kiểm toán viên232.2.1.Lịch sử phát triển kiểm toán và trách nhiệm của kiểm toán viên trên bình diện quốc tế232.2.1.1.Giai đoạn trước năm 1840232.2.1.2.Giai đoạn từ năm 1840 1920232.2.1.3.Giai đoạn từ năm 1920 1960252.2.1.4.Giai đoạn từ năm 1960 1990262.2.1.5.Giai đoạn từ cuối thập niên 1990 đến nay282.2.2.Lịch sử phát triển kiểm toán độc lập và những thay đổi trách nhiệm kiểm toán viên tại Việt Nam322.2.2.1. Giai đoạn năm 19942011322.2.2.2. Giai đoạn từ năm 2012 đến nay352.3.Thực trạng AEG ở Việt Nam412.3.1.Khoảng cách kỳ vọng hợp lý tại Việt Nam412.3.2.Khoảng cách hoàn thiện chuẩn mực kiểm toán432.3.3.Khoảng cách chất lượng hoạt động kiểm toán442.4.Khái quát về Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)452.4.1.Lịch sử hình thành Hiệp định TPP452.4.2 Những nội dung cơ bản của Hiệp định TPP472.4.3. Tác động của TPP đến đến nhận thức của nhà đầu tư đối với nghề nghiệp kiểm toán492.5.Kết luận50CHƯƠNG 3 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU503.1.Giới thiệu503.2.Phương pháp nghiên cứu.503.3.Quy trình nghiên cứu.503.3.1.Thiết kế bảng khảo sát503.3.2.Đối tượng khảo sát563.3.3.Khung chọn mẫu và kích thước mẫu563.3.4.Phương pháp chọn mẫu573.4.5.Thực hiện khảo sát573.4.6.Quy trình phân tích dữ liệu583.5. Kết luận61CHƯƠNG 4: PHÂN TÍCH VÀ THẢO LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU624.1.Giới thiệu624.2.Xác định trách nhiệm KTV cấu thành nên khoảng cách kỳ vọnghiện thực624.2.1.Trách nhiệm KTV Thành phần khoảng cách hợp lý624.2.1.1.Trách nhiệm KTV nên thực hiện624.2.1.2.Trách nhiệm hợp lý của KTV674.2.2.Trách nhiệm KTV Thành phần khoảng cách hiện thực.724.2.2.1.Trách nhiệm hiện hành của KTV724.2.2.2.Đánh giá kết quả công việc của kiểm toán viên784.3.Xác định tồn tại các thành phần cấu thành AEG814.3.1.Khoảng cách kỳ vọng hợp lý.824.3.2.Khoảng cách hoàn thiện chuẩn mực844.3.3.Khoảng cách tăng cường trách nhiệm của KTV86CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý885.1.Giới thiệu885.2.Kết quả chính885.2.1.Kết quả xác định trách nhiệm kiểm toán viên cấu thành AEG885.2.2.Kết quả phân tích sự khác biệt giữa các nhóm khảo sát đối với các TNKT cấu thành nên AEG895.3.Kết luận và hàm ý895.4.Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo91DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO92 DANH MỤC BẢNGBảng 2.1. Quy định trách nhiệm của kiểm toán viên độc lập.33Bảng 2.2. Trách nhiệm kiểm toán viên độc lập giai đoạn hiện nay39Bảng 3.1. Câu hỏi khảo sát AEG52Bảng 3.2. Nội dung và thang đo khảo sát55Bảng 3.3. Tiêu chuẩn và phương pháp đánh giá60Bảng 4.1. Kỳ vọng về trách nhiệm kiểm toán đối với kiểm toán viên64Bảng 4.2. Kết quả nhận thức trách nhiệm hiện hành73Bảng 4.3. Trách nhiệm KTV cấu thành khoảng cách hoàn thiện chuẩn mực 77Bảng 4.4. Mức độ hoàn thành trách nhiệm cấu thành khoảng cách tăng cường trách nhiệm80Bảng 4.5. Phân tích Mean Witney U sự khác biệt trong kỳ vọng giữa hai nhóm về trách nhiệm kiểm toán kiểm toán viên cấu thành nên khoảng cách kỳ vọng hợp lý83Bảng 4.6. Phân tích Mean Witney U sự khác biệt trong đánh giá các trách nhiệm kiểm toán cấu thành nên khoảng cách hoàn thiện chuẩn mực.85Bảng 4.7. Phân tích Mean Witney U sự khác biệt trong nhận thức các trách nhiệm kiểm toán cấu thành nên khoảng cách tăng cường trách nhiệm.87DANH MỤC HÌNHHình 1.1. Mô hình cấu trúc khoảng cách kỳ vọng của Porter9DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮTAEG: Khoảng cách kỳ vọng kiểm toán hoặc khoảng cách kỳ vọng – hiện thực BCTC: Báo cáo tài chínhBCKT: Báo cáo kiểm toán KTV: Kiểm toán viên NĐT: Nhà đầu tưTNKT: Trách nhiệm kiểm toánVSA: Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam ISA: Chuẩn mực kiểm toán quốc tế. PHẦN GIỚI THIỆU1.Vấn đề nghiên cứuKhoảng cách kỳ vọng kiểm toán (AEG) được biết đến trong lịch sử phát triển kiểm toán từ hàng trăm năm trước nhưng khái niệm này chỉ được đề cập đến trong các nghiên cứu hàn lâm từ năm 1974 bởi Liggo. Kể từ thời điểm đó, nghiên cứu AEG bùng nổ không chỉ với các học giả, nhà nghiên cứu mà còn bao gồm cả giới hành nghề. Phạm vi khảo sát AEG không chỉ bó hẹp trong biên giới quốc gia mà mở rộng sang các châu lục khác nhau. Thoạt đầu, bất cứ ai quan tâm hoặc có chút hiểu biết về kiểm toán đều cho rằng, AEG luôn tồn tại bởi chúng phụ thuộc vào nhận thức, quan điểm, mong muốn của mỗi cá nhân dưới các góc nhìn khác nhau. Vậy, nghiên cứu AEG nhằm mục đích gì?. Rõ ràng, AEG không phải là một khái niệm phức tạp hay hàm chứa nhiều bí mật tiềm ẩn cầm phải khám phá. Tuy nhiên, việc ngày càng nhiều các công ty, tập đoàn đa quốc gia trên thế giới sụp đổ cũng có một phần trách nhiệm của các công ty kiểm toán và một phần trách nhiệm do người sử dụng BCKT đặt niềm tin quá mức vào kết quả kiểm toán và trách nhiệm của KTV. Theo đó, sự xuất hiện AEG gây phương hại nhiều hơn đến nghề nghiệp kiểm toán. Để hạn chế tác động tiêu cực này, nhiều nghiên cứu thực nghiệm về AEG nhằm mục đích cung cấp bằng chứng xác thực và tin cậy chỉ ra những tiêu chuẩn, yêu cầu, nguyên tắc mà các bên liên quan phải tuân thủ, chẳng hạn, đâu là trách nhiệm hợp lý KTV phải thực hiện, và ngược lại, trách nhiệm nào được công chúng kỳ vọng nhưng KTV không thể thực hiện hoặc thực hiện không khả thi. Rộng hơn, kết quả nghiên cứu AEG sẽ đóng góp những chỉ dấu định hình xu hướng phát triển của nghề nghiệp kiểm toán, chẳng hạn mở rộng hoặc tăng cường trách nhiệm của KTV hay nâng cao chất lượng kiểm toán. Trong xu thế toàn cầu hóa, mức độ yêu cầu hay mong đợi luôn thay đổi nhanh chóng theo những xu hướng nhất định nhưng cũng luôn tồn tại những khác biệt đến từ môi trường kinh tế, chính trị và xã hội khác nhau. Vì vậy, tổng kết các nghiên trên thế giới và khảo sát thực nghiệm AEG ở Việt Nam sẽ rất hữu ích và cần thiết trong bối cảnh chưa có nhiều các nghiên cứu về chủ đề này, đặc biệt là chưa có nghiên cứu nào xác định các thành phần cấu thành nên khoảng cách kỳ vọng hiện thực kiểm toán và khẳng định khác biệt trong nhận thức và kỳ vọng giữa các nhóm đối tượng khảo sát ở Việt Nam.Kết quả nghiên cứu AEG không những đóng góp thêm bằng chứng thực nghiệm để củng cố lý thuyết về AEG mà còn giúp cho các nhà hoạch định chính sách, tổ chức nghề nghiệp tiến hành xây dựng, hỗ trợ nguồn lực để thu hẹp AEG, qua đó gúp duy trì và nâng cao uy tín và danh tiếng của nghề nghiệp kiểm toán độc lập. Bên cạnh đó, việc Việt Nam tiếp tục mở rộng hợp tác, đầu tư song phương và đa phương, tham gia ký kết nhiều hiệp định thuế quan, thương mại chẳng hạn như Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương, một mặt vừa tạo cơ hội mới cho việc hợp tác, học hỏi kinh nghiệm, trao đổi kỹ năng phát triển kiểm toán từ các quốc gia phát triển trên thế giới nhưng mặt khác vừa tạo áp lực, sức ép cạnh tranh từ môi trường bên ngoài đối với nghề nghiệp kiểm toán ở Việt Nam.2.Mục tiêu nghiên cứuXuất phát từ khoảng trống trong lý thuyết về AEG và sự cần thiết phải tìm hiểu xác định AEG ở Việt Nam, đề tài gồm hai mục tiêu chính sau:(1)Xác định các yếu tố cấu thành nên khoảng cách kỳ vọng hiện thực kiểmtoán.(2)Khẳng định tồn tại khoảng cách kỳ vọng – hiện thực và nguyên nhânđóng góp.3.Câu hỏi nghiên cứu.Để đạt được mục tiêu nghiên cứu thứ nhất, câu hỏi nghiên cứu được đề xuất:Q1: Người sử dụng BCKT kỳ vọng những TNKT nào mà KTV nên thực hiện và kỳ vọng bất hợp lý đối với những TNKT nào?;Q2: Người sử dụng BCKT nhận thức (hiểu biết) về các TNKT được quy định hiện hành như thế nào? Q3: Đánh giá của hai nhóm trên về kết quả thực hiện các TNKT hiện nay như thế nào?;Trên cơ sở xác định được trách nhiệm cấu thành nên khoảng cách kỳ vọng hiện thực, câu hỏi nghiên cứu được đề xuất nhằm đạt được mục tiêu thứ ha là:Q4: Liệu có tồn tại tồn tại những khác biệt trong nhận thức, đánh giá và kỳ vọng của KTV và người sử dụng BCKT là NĐT về các trách nhiệm cấu thành nên khoảng cách kỳ vọng hiện thực trong kiểm toán BCTC ở Việt Nam và nguyên nhân nào đóng góp hình thành nên khoảng cách kỳ vọng kiểm toán này?.4.Mô hình nghiên cứu của PorterMô hình AEG sử dụng trong nghiên cứu này là của Porter (1993, 2012). Theo đó, AEG còn được gọi là khoảng cách kỳ vọng hiện thực được cấu thành từ ba thành phần chính (i) khoảng cách kỳ vọng hợp lý; (ii) khoảng cách hoàn thiện chuẩn mực và (iii) khoảng cách tăng cường trách nhiệm. Ưu điểm của mô hình này đã phân loại chi tiết từng bộ phận cấu thành nên AEG nhằm giúp đo lường được mức độ đóng góp của mỗi thành phần tạo nên AEG như thế nào khi thực hiện khảo sát và qua đó đề xuất giải pháp phù hợp để thu hẹp khoảng cách này về mặt lý thuyết và trên phương diện thực tiễn.5.Đối tượng và phạm vi nghiên cứuDo đề tài nghiên cứu khoảng cách kỳ vọng kiểm toán, vì vậy, người sử dụng BCKT và KTV sẽ là đối tượng khảo sát chính được lựa chọn trong nghiên cứu này. Tuy nhiên, người sử dụng BCKT có phạm vi rộng, vì vậy đề tài sẽ chỉ chọn nhóm NĐT – người sử dụng kết quả kiểm toán có lợi ích tài chính trực tiếp để khảo sát.6.Phương pháp nghiên cứuNghiên cứu định lượng qua khảo sát KTV và NĐT thông qua phỏng vấn trực tiếp và gửi phiếu khảo sát qua mail. Khung chọn mẫu khảo sát được thiết kế gồm (i) danh sách liệt kê các công ty kiểm toán độc lập đăng ký hành nghề trong năm 2014 trên trang Web của Hội Kế toán Kiểm toán Việt Nam đối với KTV và (ii) danh sách liệt kê các công ty niêm yết và các công ty đại chúng (bao gồm các doanh nghiệp nhà nước giữ cổ phần chi phối) đối với NĐT. Kích thước mẫu 110 mẫu khảo sát cho hai nhóm, trung bình 55 mẫu theo từng nhóm. Phương pháp chọn mẫu phi xác suất được lựa chọn do đặc thù phân bố mẫu không đồng đều (KTV và NĐT). Thời gian khảo sát từ tháng 12 năm 2014 đến tháng 1 năm 2015. Bảng câu hỏi khảo sát kế thừa một phần từ nghiên cứu của Porter et al (2012) có chỉnh sửa cho phù hợp môi trường kinh doanh Việt Nam. Phân tích thống kê phi tham số Mean –Whitney U sử dụng để kiểm định sự khác biệt trong nhận thức, quan điểm và kỳ vọng đánh giá giữa hai nhóm đối tượng khảo sát là KTV và NĐT.7.Đóng góp mới của Đề tàiVề mặt lý thuyết:+ Thứ nhất, đề tài xác định được các trách nhiệm cấu thành nên từng bộ phận của khoảng cách kỳ vọng – hiện thực kiểm toán gồm khoảng cách hợp lý, khoảng cách hoàn thiện chuẩn mực, khoảng cách tăng cường trách nhiệm.+ Thứ hai, cung cấp thêm bằng chứng thực nghiệm bổ sung lý thuyết về khoảng cách kỳ vọng – hiện thực kiểm toán ở Việt Nam, qua đó, đi đến khẳng định rằng, AEG luôn tồn tại giữa KTV và người sử dụng BCKT;Về mặt ứng dụng:+ Thứ nhất, Đề tài chỉ ra được thực trạng phát triển nghề nghiệp kiểm toán ở Việt Nam hiện nay, xác định và phân loại các trách nhiệm kiểm toán hiện hành theo quy định;+ Thứ hai, việc chỉ rõ được các trách nhiệm cấu thành nên từng bộ phận của khoảng cách kỳ vọng hiện thực kiểm toán giúp xác định được các giải pháp cụ thể để thu hẹp khoảng cách này nhằm nâng cao hơn nữa khả năng của nghề nghiệp kiểm toán độc lập ở Việt Nam. 8.Cấu trúc của Đề tàiNgoài phần giới thiệu, Đề tài nghiên cứu gồm năm chương, trình bày theo thứ tự và nội dung chính sau đây:Phần giới thiệu: Sự cần thiết của nghiên cứu, mục tiêu, câu hỏi nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, đóng góp cũng như ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Đề tài.Chương 1 Tổng quan các nghiên cứu trước liên quan đến AEG.Tổng quan các nghiên cứu trước trên thế giới và ở Việt Nam, kết quả đạt được và những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu. Từ đó, chỉ ra khoảng trống lý thuyết mà đề tài sẽ tập trung giải quyết.Chương 2 Tổng quan về trách nhiệm kiểm toán viên trong kiểm toán BCTC.Đầu tiên Chương này tìm hiểu lịch sử phát triển kiểm toán gắn liền với những thay đổi về trách nhiệm của KTV trên thế giới. Tiếp đến, khái quát hóa sự phát triển kiểm toán độc lập ở Việt Nam trên cơ sở những thay đổi về quy định đối với trách nhiệm của KTV. Cuối cùng, tìm hiểu thực trạng AEG trên thế giới và ở Việt Nam.Chương 3 Phương pháp nghiên cứuChương này, mô tả nguồn dữ liệu, quy trình ghi chép và phân tích dữ liệu cho từng bước nghiên cứu định lượng.Chương 4 Phân tích và thảo luận kết quả nghiên cứuChương này sử dụng để phân tích và thảo luận kết quả khảo sát AEG ở ViệtNam.Chương 5 Kết luận và một số gợi ý chính sách thu hẹp khoảng cách kỳ vọngkiểm toán ở Việt Nam. CHƯƠNG 1:TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC VỀ KHOẢNG CÁCH KỲ VỌNG KIỂM TOÁN1.1.Giới thiệuĐầu tiên Chương này giới thiệu lý thuyết chung về AEG được chấp thuận phổ biến. Tiếp đến, tổng kết các nghiên cứu trước liên quan đến AEG trên thế giới và ở Việt Nam. Cuối cùng, tổng hợp những kết quả đạt được và những hạn chế tồn tại trong các nghiên cứu trước nhằm mục đích chỉ ra khoảng trống lý thuyết cần tiếp tục nghiên cứu.1.2.Lý thuyết về khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán1.2.1.Khái niệm khoảng cách kỳ vọng kiểm toánKhái niệm “khoảng cách kỳ vọng kiểm toán” được Liggio (1974, 27) sử dụng lần đầu tiên trong lĩnh vực kiểm toán và được định nghĩa là sự khác biệt trong nhận thức về kết quả công việc KTV nên thực hiện giữa người sử dụng BCKT được kiểm toán và chính các KTV. Tuy nhiên, nếu đo lường nhận thức về kết quả thực hiện ngay cả những trách nhiệm mà người sử dụng BCKT hình dung (mong đợi) KTV thực hiện thì sẽ không chính xác vì họ ghi nhận những kết quả mà KTV chưa thực hiện. Chính vì vậy, vào năm 1978, Uỷ ban về Trách nhiệm Kiểm toán viên (Commission on Auditors‟ Responsibility – gọi tắt theo tên người đứng đầu Ủy ban Cohen) của Hội Kế toán viên công chứng Hoa kỳ (AICPA) đã định nghĩa AEG là “khoảng cách giữa một bên là những gì mà công chúng đòi hỏi và mong muốn KTV phải thực hiện và một bên là những gì KTV có thể thực hiện một cách hợp lý (CAR 1978, xi). Trong đó, người sử dụng BCKT được thay bằng công chúng hay xã hội nói chung. Nếu như cơ sở cho việc đo lường nhận thức về nhiệm vụ mà KTV phải thực hiện một cách hợp lý dựa trên tỷ lệ phản hồi chung của xã hội thì nghiên cứu của Guy Sullivan (1988), đề cập cụ thể hơn quan điểm khác biệt đối với trách nhiệm của KTV thông qua quan điểm riêng của hai nhóm (i) công chúng và (ii) chính các KTV: “Khoảng cách kỳ vọng là những gì công chúng tin là thuộc trách nhiệm của KTV và những gì KTV tin là thuộc trách nhiệm của mình”. Năm 1992, Hiệp hội Kế toán viên công chứng Hoa Kỳ (AICPA) cũng có định nghĩa tương tự.Không chỉ dừng lại dưới góc độ trách nhiệm KTV, AEG không chỉ liên quan đến kỳ vọng về TNKT của KTV mà còn xuất hiện do những khác biệt trong nhận thức về các thông điệp truyền tải trên BCKT (hình thức và thuật ngữ sử dụng trong BCKT – còn được gọi là khoảng cách thông tin trong BCKT). Cũng trong thời gian này, một số nghiên cứu được công bố cũng cố gắng khái quát hóa định nghĩa này chẳng hạn Jennings et al (1993, 489) xác định khoảng cách kỳ vọng kiểm toán là sự khác biệt giữa những gì công chúng kỳ vọng từ nghề nghiệp kiểm toán và những gì mà nghề nghiệp kiểm toán thực sự có thể cung cấp. Mặc dù vậy, các nghiên cứu này đều khẳng định rằng khoảng cách kỳ vọng kiểm toán tồn tại do có những quan điểm và niềm tin khác biệt giữa công chúng và KTV đối với nghề nghiệp kiểm toán nói chung và KTV nói riêng nhưng chưa nghiên cứu nào xác định được đầy đủ các yếu tố cấu thành và đo lường mức độ khoảng cách này.Poter (1993, 50), trong bài báo công bố kết quả nghiên cứu được tiến hành năm 1988 tại New Zealand, đã bình luận rằng định nghĩa của (Liggio 1974) và (CAR 1978) quá hẹp và không khả thi trong thực tiễn kiểm toán khi chúng không đề cập đến khả năng KTV không thể đáp ứng được kỳ vọng quá mức của công chúng (Liggio 1974) và kỳ vọng hợp lý của công chúng (CAR 1978). Theo đó, Poter cho rằng tên gọi “khoảng cách kỳ vọng hiện thực” sẽ phù hợp hơn. Tiếp đến, Power (1998) còn bổ sung thêm nhận định này bằng ý kiến bình luận khi cho rằng khoảng cách kỳ vọng có nguồn gốc từ một “khớp nối lỏng lẻo” giữa việc lý tưởng hóa nghề nghiệp kiểm toán và thực tế kiểm toán.Hiện nay, một số cơ quan, tổ chức kế toán, kiểm toán và nhiều nhà nghiên cứu cũng cung cấp các định nghĩa của họ nhưng vẫn cho thấy ít sự đồng thuận về định nghĩa và ý nghĩa của các khái niệm này (Koh Woo 1998; Ojo 2006). Nguyên nhân do các nhà nghiên cứu có quan điểm khác nhau về vai trò kiểm toán và họ đã xem khoảng cách kỳ vọng kiểm toán chính là khoảng cách giữa vai trò nhận thức kiểm toán, chẳng hạn, khoảng cách này tồn tại do sự thiếu hiểu biết hoặc quan niệm sai lầm về vai trò hoặc các chức năng của một cuộc kiểm toán (Liggio, 1974;. Jennings et al 1993; Monroe Woodliff 1993; McEnroe Marteens 2001; Power 1998)Mặc dù vậy, so với các định nghĩa trước đó và các định nghĩa sau này, định nghĩa của Porter (1993) được đánh giá là có cơ sở khoa học hơn khi đã chỉ ra các thành phần và cấu trúc tạo nên khoảng cách này cũng như phương pháp lượng hóa chúng. Ngoài ra, định nghĩa của Porter có tính đến khả năng thực hiện không tốt của các KTV, trách nhiệm chung của các tổ chức nghề nghiệp hoặc cơ quan quản lý nhà nước cũng như kỳ vọng hợp lý hoặc không hợp lý của người sử dụng.1.2.2.Mô hình cấu trúc của AEGMô hình cấu trúc của AEG của Porter (1993) có hai thành phần chính (Hình 1.1) và các thành phần được định nghĩa như sau:(1)Khoảng cách hợp lý được định nghĩa là sự khác biệt giữa kỳ vọng của công chúng đối với KTV và kỳ vọng hợp lý của công chúng đối với KTV. Trong đó, kỳ vọng của công chúng được xem là hợp lý nếu đáp ứng được tiêu chuẩn chi phílợi ích và(2)Khoảng cách hiện thực được định nghĩa là sự khác biệt giữa kỳ vọng hợp lý của công chúng đối với KTV và nhận thức của công chúng về kết quả thực hiện của KTV. Trong đó, khoảng cách hiện thực gồm hai thành phần:Khoảng cách hoàn thiện chuẩn mực (chuẩn mực hạn chế): khoảng cách giữa kỳ vọng hợp lý của công chúng đối với KTV và nhiệm vụ hiện tại của KTV theo chuẩn mực nghề nghiệp và quy định liên quan . Theo đó, khoảng cách này tồn tại khi thiếu các chuẩn mực nghề nghiệp và quy định liên quan đối với những trách nhiệm mà KTV có thể thực hiện được một cách hợp lý (chuẩn mực hợp lý).Khoảng cách tăng cường trách nhiệm (kết quả hạn chế): khoảng cách giữa nhiệm vụ hiện tại của KTV theo quy định và kết quả thực hiện của KTV công chúng nhận thức. Theo đó, khoảng cách này tồn tại khi KTV không tuân thủ đầy đủ các quy định và chuẩn mực nghề nghiệp trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình dưới góc nhìn của công chúng.Trong Hình 1.1, AEG chính là khoảng cách từ A đến D biểu hiện sự khác biệt giữa nhận thức của công chúng đối với mức độ hoàn thành nhiệm vụ của KTV và kỳ vọng của xã hội đối với trách nhiệm của KTV. Điểm B chỉ trách nhiệm hiện tại của KTV và điểm C cho biết trách nhiệm KTV được công chúng kỳ vọng một cách hợp lý. Phạm vi từ C đến D đại diện cho các kỳ vọng của công chúng vượt qua các tiêu chuẩn quy định hiện nay. Khoảng cách này được gọi là khoảng cách bất hợp lý. Phạm vi từ A đến C đại diện cho kỳ vọng hợp lý của xã hội đối với kết quả thực hiện của KTV.Hình 1.1. Mô hình cấu trúc khoảng cách kỳ vọng của Porter 1.3.Các nghiên cứu trước về khoảng cách kỳ vọng kiểm toán.1.3.1.Các nghiên cứu trên thế giới về khoảng cách kỳ vọng.Ban đầu, hầu hết các nghiên cứu được thực hiện nhằm mục đích khám phá khái niệm khoảng cách kỳ vọng kiểm toán qua việc kiểm tra sự tồn tại, các thành phần, nguyên nhân và phương pháp xác định và đo lường khoảng cách này (AICPA1 1978; Humphrey et al. 1993; Porter 1993). Gần đây, phần lớn các nghiên cứu chuyển hướng sang tìm hiểu đặc điểm của các yếu tố cấu thành nên khoảng cách này trong từng hoàn cảnh hoặc môi trường kinh doanh khác biệt. Chúng bao gồm Lee (1970); Humphrey et al. (1993); Baron et al (1977), Lowe (1994); Epstein Geiger (1994) và McEnroe Martens (2001) ở Hoa Kỳ; Beck (1973), Monroe Woodliff (1994) và Gay et al (1997) ở Australia; Low et al. (1988), De Martinis et al. (2000) và Best et al. (2001) ở Singapore; Lin Chen (2004) ở Trung Quốc; Fadzly Ahmed (2004) và Lee et al (2007) ở Malaysia; Haniffa Hudaib (2007) ở A Rập; Dixon et al. (2006) ở Ai Cập; Sidani et al (2007) ở Lebanon. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu đều chỉ ra rằng có rất ít sự đồng thuận đối với ý nghĩa của khái niệm khoảng cách kỳ vọng (Koh Woo, 1998; Ojo, 2006). Tổng hợp kết quả nghiên cứu tại một số quốc gia tại các khu vực khác nhau, cụ thể:Ở Anh, Lee (1970) là người đầu tiên thực hiện nghiên cứu về AEG vào năm 1970. Ông đã khảo sát các KTV (chủ phần hùn, KTV), khách hàng kiểm toán (giám đốc, thư ký, kế toán) và các bên liên quan khác để xác định ý kiến của họ về mục tiêu kiểm toán. Đối tượng tham gia được yêu cầu lựa chọn đâu là mục tiêu kiểm toán từ 13 mục tiêu kiểm toán được định nghĩa trước theo ba nhóm gồm các mục tiêu được tán thành, còn hiệu lực, các mục tiêu đã tồn tại trong lý thuyết kiểm toán (Lee 1970, 295). Kết quả nghiên cứu cho thấy:(i)Trên 80% số người được khảo sát từ mỗi nhóm (KTV, khách hàng kiểm toán và bên liên quan khác) cho rằng, mục tiêu kiểm toán là:Phát hiện gian lận và sai sót trọng yếu trong công ty;1 American Institute of Certified Public Accountant Đảm bảo khách hàng kiểm toán tuân thủ đầy đủ quy định pháp luật;Xác minh tính chính xác của sổ sách kế toán; vàTrình bày ý kiến về sự trung thực và hợp lý của BCTC.(ii)Từ 50%80% người được được khảo sát từ mỗi nhóm cho rằng mục tiêu kiểm toán bao gồm:Ngăn ngừa gian lận và sai sót trọng yếu trong công ty;Thực hiện nghĩa vụ quyết toán thuế cho khách hàng;Tư vấn quản lý cho khách hàng;Kiểm tra và trình bày ý kiến về sự phù hợp và hữu hiệu trong hoạt động của khách hàng.Mặc dù có khá nhiều mục tiêu kiểm toán được liệt kê trong bảng khảo sát được người khảo sát tin rằng đó là mục tiêu kiểm toán (813), trong số đó, nhiều mục tiêu kiểm toán không phù hợp, đảm bảo tính khả thi hoặc hoặc vượt quá khả năng thực hiện của KTV nhưng mục tiêu này thường được xác nhận bởi bên liên quan khác. Điều này cho thấy, tồn tại AEG (khoảng cách hợp lý) giữa người sử dụng BCKT và các KTV. Bên cạnh đó, nghiên cứu cung cấp bằng chứng cho thấy, hầu như không có sự khác biệt giữa hiểu biết về mục tiêu kiểm toán của KTV so với các nhóm khảo sát còn lại. Chính ông đã bình luận rằng “thật đáng thất vọng KTV cũng đã biểu lộ niềm tin vào kiểm toán như những sai lệch được nhận thấy bên ngoài” (Lee 1970, 296).Hai thập kỷ sau nghiên cứu của Lee (1970), Humphrey et al (1993) đã tiến hành khảo sát đối với KTV, KHKT và người sử dụng BCKT hay còn được gọi nhóm có lợi ích (nhà phân tích đầu tư, ngân hàng và ký giả tài chính) ở Anh vào năm 1990 về trách nhiệm KTV, mục tiêu kiểm toán và kết quả kiểm toán. Bảng khảo sát gồm 54 câu hỏi được phân loại thành hai nhóm gồm 35 câu hỏi khảo sát liên quan đến trách nhiệm hiện tại, trách nhiệm mong đợi của KTV, mục tiêu và quy trình kiểm toán và 19 câu hỏi khảo sát liên quan đến kết quả kiểm toán của KTV. Người được phỏng vấn được yêu cầu lựa chọn mức độ đồng ý trên thang đo 7 điểm. Tổng số có 2.445 phiếu khảo sát được gửi tới các kế toán viên công chứng (còn được gọi là KTV tại một số quốc gia khác), KHKT (giám đốc tài chính), nhóm có lợi ích. Có 935 bảng khảo sát không được phản hồi (tỷ lệ không phản hồi là 38%). Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, cụ thể:(i)Trách nhiệm KTV và hiểu biết về mục tiêu, quy trình kiểm toán: Tồn tại AEG giữa KTV, khách hàng kiểm toán và các bên liên quan khác đối với các nhận định:Có quá nhiều kỳ vọng từ cộng đồng NĐT đối với TNKT của KTV (Tỷ lệ đồng ý đối với 3 nhóm lần lượt là 82%, 73%, 33%) (Humphrey et al 1993, 399);KTV không hiểu các vấn đề tồn tại trong doanh nghiệp và KTV phải báo cáo hiệu quả quản lý tới các cổ đông;Mọi gian lận trọng yếu trong khách hàng kiểm toán phải được phát hiện;Bất cứ sai sót trong quản lý của khách hàng kiểm toán cũng phải được báo cáo đầy đủ tới cấp quản lý phù hợp;BCKT phải phải cung cấp những đánh giá hợp lý về tình hình tài chính công tyNhững khác biệt được phát hiện trong kết quả khảo sát 35 câu hỏi cung cấp bằng chứng đi đến kết luận rằng “Trong mọi trường hợp, KTV có thể biết được vai trò hạn chế của mình nhiều hơn so với giám đốc tài chính và các các nhóm lợi khác”. Ngoài ra, phát hiện trong khảo sát này cũng thừa nhận rằng, không tồn tại sự khác biệt liên quan đến hiểu biết về chức năng kiểm toán ở Anh tương tự nghiên cứu của Lee (1970).(ii)Liên quan đến kết quả công việc kiểm toán: Tồn tại khác biệt trong đánh giá giữa các nhóm về mức độ hoàn thành nhiệm vụ của KTV xếp theo mức độ khác biệt giảm dần:Có 86% KTV cho rằng họ đã thành công nhưng chỉ có 58% kế toán viên, 29% giám đốc tài chính, 20% các bên liên quan khác đồng ý với nhận định “KTV có thành công trong việc đối phó với rủi ro do gian lận”; Tồn tại khác biệt trong việc đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của KTV trên các khía cạnh: xác định trọng yếu, rủi ro, thiết kế các thủ tục kiểm toán, đảm bảo tính khách quan. Trong đó, KTV luôn đánh giá mức độ hoành thành công viêc của mình cao hơn so với các nhóm còn lại. Như vậy, tồn tại quan điểm khác trong đánh giá về mức độ hoàn thành công việc của KTV và đây cũng là nguyên nhân cấu thành nên “khoảng cách hiện thực”.Porter et al (2004) thực hiện nghiên cứu đối chiếu qua khảo sát khoảng cách kỳ vọng – hiện thực ở UK và NZ năm 1999 nhằm (1) xác định các thành phần cấu thành, cấu trúc và mức độ khoảng cách kỳ vọng hiện thực kiểm toán ở NZ và UK trong năm 1999; (2) so sánh khoảng cách kỳ vọng hiện thực giữa hai quốc gia; (3) so sánh sự thay đổi khoảng cách kỳ vọng hiện thực ở NZ giai đoạn năm 1989 1999. Đối tượng khảo sát bao gồm 4 nhóm: KTV, KHKT, nhóm có lợi ích thuộc cộng đồng tài chính và nhóm có lợi ích không thuộc cộng đồng tài chính. Bảng câu hỏi gồm 51 câu hỏi khảo sát tương ứng với 51 TNKT được đề xuất ở cả hai quốc gia. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng:(1)Có 3 thành phần cấu thành nên AEG (i) khoảng cách hợp lý; (ii) khoảng cách hoàn thiện chuẩn mực (iii) khoảng cách tăng cường TNKT ở cả hai quốc gia;(2)Năm 1999, có sự tương đồng rõ rệt về các TNKT cấu thành nên các thành phần của khoảng cách kỳ vọng hiện thực ở hai quốc gia này. Mức độ khác biệt nhỏ hơn 2%. Tuy nhiên, có sự khác biệt về khoảng cách tương ứng với từng thành phần.Cấu trúc và mức độ khoảng cách: Khoảng cách tăng cường trách nhiệm, khoảng cách hoàn thiện chuẩn mực, khoảng cách hợp lý đóng góp tương ứng 8%, 42% và 50% khoảng cách này ở UK và 6%, 41% và 53% ở NZ. TNKT cấu thành nên các thành phần này tương ứng là 23, 10 và 7 TNKT ở UK; 18, 14, 5 TNKT ở NZ.(3)Năm 1989, ở NZ khoảng cách tăng cường trách nhiệm, khoảng cách hoàn thiện chuẩn mực, khoảng cách hợp lý đóng góp tương ứng 11%, 58% và 31%. Đến năm 1999, các thành phần này thay đổi đáng kể, kết quả công việc của KTV đã cải thiện giảm từ 11% xuống 6%, khoảng cách hoàn thiện chuẩn mực giảm xuống từ 58% xuống 41% nhưng kỳ vọng không hợp lý của công chúng tăng lên dẫn tới khoảng cách hợp lý nới rộng từ 31% lên 53%.Tại Hoa Kỳ, Baron et al (1977) khảo sát nhận thức của KTV và người sử dụng BCKT về trách nhiệm KTV trong việc phát hiện sai sót trọng yếu, hoạt động bất thường và các hành vi không tuân thủ pháp luật. Kết quả cho thấy, người sử dụng BCKT kỳ vọng KTV chịu trách nhiệm phát hiện và công bố các hoạt động bất thường và hành vi không tuân thủ pháp luật cao hơn so với KTV kỳ vọng họ sẽ thực hiện. Đặc biệt, người sử dụng BCKT có thể giúp KTV nâng cao trách nhiệm để phát hiện và công bố các dấu hiệu bất thường và hành vi bất hợp pháp hơn là tự bản thân KTV tin mình có thể thực hiện. Tiếp theo nghiên cứu Baron et al.(1977), Lowe (1994) và Epstein Geiger (1994) đã tiến hành hai cuộc khảo sát độc lập nhau ở Hoa Kỳ để đo lường mức độ kỳ vọng giữa KTV và người sử dụng BCKT. Kết quả khảo sát chỉ ra rằng, người sử dụng BCKT mong đợi nghề nghiệp kiểm toán cung cấp nhiều giá trị hơn là những gì mà KTV tin rằng họ có thể cung cấp Lowe (1994) và NĐT trông đợi mức độ đảm bảo BCTC không chứa đựng gian lận và sai sót ở mức cao hơn so với mức độ mà KTV có thể cung cấp. Kết quả tương tự cũng được phát hiện trong nghiên cứu của McEnroe Martens (2001) và ông kết luận rằng tồn tại khoảng cách hợp lý theo phân loại các thành phần khoảng cách trong nghiên cứu của Porter (1993).Tại Úc, Beck (1973) đã tiến hành khảo sát ở Úc vào năm 1972,với mục tiêu tương tự như nghiên cứu của Lee (1970) ở Anh. Có 32 câu hỏi khảo sát liên quan đến kiểm toán, trong đó 15 câu hỏi liên quan đến luật kế toán và kiểm toán. Người tham gia đến từ hai ngành chính là công nghiệp khai khoáng và thương mại. Họ được yêu cầu cung cấp mức độ đồng ý hoặc liệu họ có chắc chắn với mỗi câu hỏi. Ông phát hiện ra rằng, dịch vụ kiểm toán mà các cổ đông kỳ vọng lớn hơn hơn nhiều so với hầu hết KTV nhận thức hợp lý hoặc có thể cung cấp được. Điển hình, người khảo sát muốn KTV đảm bảo rằng không còn gian lận trong công ty (93%), tình hình tài chính công ty lành mạnh (81%), việc quản lý của công ty là hữu hiệu (71%). Dựa trên các phát hiện của mình, Ông đã kết luận rằng các cổ đông ở Úc trong năm 1972 nhận được mức độ đảm bảo phi lý từ kết quả kiểm toán trên phạm vi rộng khắp.Monroe Woodliff (1994) kiểm tra sự tồn tại và bản chất AEG và liệu rằng sự thay đổi từ ngữ trong BCKT có ảnh hưởng đến AEG giữa KTV và người sử dụng BCTC (kế toán, giám đốc, chủ nợ, các cổ đông và sinh viên thương mại) liên quan đến: trách nhiệm KTV, mức độ tin cậy của BCKT, triển vọng tương lai của KHKT trên cơ sở 22 câu hỏi khảo sát tương ứng với hai dạng BCKT (dạng cũ và dạng mới). Kết quả nghiên cứu cho thấy tồn tại khoảng cách thông tin trên BCKT khi sử dụng các thuật ngữ khác nhau. Những thay đổi trong BCKT mới có ảnh hưởng quan trọng đến niềm tin về mục tiêu của một cuộc kiểm toán và trách nhiệm của KTV. Việc sửa đổi từ ngữ trong BCKT cũ giúp loại bỏ một vài sự khác biệt nhưng cũng tạo ra một vài khác biệt mới về niềm tin đối với các thông điệp được truyền tải từ BCKT. Kết quả khảo sát cũng cung cấp bằng chứng tồn tại AEG liên quan đến việc KTV phải có trách nhiệm ngăn ngừa, phát hiện gian lận và hành vi bất hợp pháp. Ngoài ra, người sử dụng cũng mong đợi KTV thực hiện vai trò giám sát xã hội. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cho thấy tồn tại khoảng cách hoàn thiện chuẩn mực (một thành phần cấu thành nên khoảng cách hiện thực trong nghiên cứu của Porter (1993)). Cuối cùng, ông kết luận rằng, những người có kinh nghiệm đầu tư, am hiểu về lĩnh vực tài chính, kiểm toán thường có kỳ vọng thấp hơn những người không có các đặc điểm này. Kết quả tương tự cũng được tìm thấy trong nghiên cứu của Gay et al (1997).Nghiên cứu của Schelluch Gay (2006) được tiến hành ở Úc nhằm mục đích khảo sát liệu tồn tại khoảng cách kỳ vọng liên quan đến khả năng dự báo tình hình tài chính đối của BCKT liên quan đến các nội dung (i) độ tin cậy của BCTC được kiểm toán; (ii) trách nhiệm của KTV và nhà quản lý; (iii) dự báo triển vọng tương lai của khách hàng kiểm toán. Đối tượng khảo sát gồm KTV, khách hàng kiểm toán (thư ký, kế toán viên) và người sử dụng BCKT (cổ đông). Phát hiện trong nghiên cứu này trái ngược với các nghiên cứu trước liên quan khi kết luận rằng, KTV nhận thức rằng khả năng dự báo thông tin tài chính trong BCKT cao hơn và họ cũng có trách nhiệm cao hơn so với nhận thức của các đối tượng khác. Niềm tin của các nhóm đối tượng bị ảnh hưởng bởi loại báo cáo phát hành của KTV và các đối tượng khảo sát có thể phân biệt rõ giữa mức độ đảm bảo được cung cấp bởi ý kiến đảm bảo khẳng định và phủ định của KTV. Tuy nhiên, dựa trên kết quả khảo sát, nhóm cổ đông tin rằng rằng, ý kiến phủ định của KTV trong báo cáo soát xét có thể làm cho người đọc lo lắng và có thể không đáp ứng yêu cầu của thị trường.Tại New Zealand, Porter (1993) đã tiến hành khảo sát lần đầu tiên vào năm 1989, nhằm xác định bản chất, các thành phần cấu thành khoảng cách kỳ vọng – hiện thực, cấu trúc và mức độ của chúng. Phương pháp nghiên cứu kế thừa một phần từ các nghiên cứu của Lee (1970) và Beck (1973). Điểm mới trong nghiên cứu này là cung cấp phương pháp xác định thành phần, cấu trúc và đo lường mức độ khoảng cách của từng bộ phận cấu thành nên AEG (khoảng cách hợp lý, khoảng cách hoàn thiện chuẩn mực, khoảng cách tăng cường trách nhiệm) phù hợp hơn so với các nghiên cứu trước, qua đó, đề xuất giải pháp tổng thể để thu hẹp kỳ vọng của xã hội đối với nghề nghiệp kiểm toán, giảm sự phê bình và kiện tụng mà KTV đối mặt như hiện nay. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, tồn tại AEG giữa KTV, nhà quản lý và người sử dụng BCKT (chuyên gia phân tích tài chính, chuyên gia kiểm toán, luật sư, ký giả tài chính và công chúng). Kỳ vọng bất hợp lý (khoảng cách hợp lý), hạn chế chuẩn mực (khoảng cách hoàn thiện chuẩn mực) và kết quả hạn chế của KTV (khoảng cách tăng cường trách nhiệm) chiếm tương ứng 31%, 58% và 11%.Tại Trung Đông, kế thừa phương pháp nghiên cứu từ ba nghiên cứu trước gồm Schelluch et al 1996; Best et al 2001 và Fadzly Ahmad 2004, Dixon et al. 2006 đã khảo sát sự tồn tại của AEG giữa KTV và người sử dụng BCTC (nhân viên ngân hàng, nhà đầu tư) tại Ai Cập. Phát hiện trong nghiên cứu chỉ ra rằng tồn tại AEG đáng kể về trách nhiệm KTV trong việc (i) ngăn ngừa và phát hiện gian lận;(ii) trách nhiệm của KTV ghi chép, lưu trữ hồ sơ, sổ sách kế toán; (iii) trong việc lựa chọn các thủ tục kiểm toán, (iv) đánh giá về sự phù hợp đối của hệ thống kiểm soát nội bộ và (vi) mức độ tin cậy và hữu ích của BCKT. Phát hiện về tồn tại AEG liên quan đến những nội dung này cũng phù hợp với nghiên cứu của (Schelluch 1996; Best et al 2001; Fadzly Ahmad 2004).Một nghiên cứu khác của Haniffa Hudaib (2007), tiến hành tại A Rập Saudi cũng cho kết quả tương tự với nghiên cứu của Dixon et al. (2006). Ngoài việc cung cấp bằng chứng tồn tại khoảng cách kỳ vọng, họ kết luận rằng, khoảng cách trách nhiệm” (thành phần khoảng cách theo phân loại của Porter (1993)) có nguồn gốc từ bốn yếu tố trong môi trường kiểm toán: chính sách, quy trình tuyển dụng, thể chế chính trị và luật pháp, các giá trị xã hội. Ngoài ra, kết quả phỏng vấn cho thấy ảnh hưởng của thể chế chính trị và văn hóa Đạo Hồi có tác động đến khoảng cách kỳ vọng kiểm toán.Sidani et al (2007) nghiên cứu khoảng cách kỳ vọng kiểm toán dựa trên nghiên cứu của Frank et al (2001). Đối tượng khảo sát là KTV và những người không phải KTV (thẩm phán, luật sư, quản lý ngân hàng, nhân viên môi giới...) ở Lebanon. Mục tiêu khảo sát nhằm khẳng định có tồn tại sự khác biệt giữa hai nhóm khảo sát trên liên quan đến (i) hiểu biết chung về kiểm toán; (ii) trách nhiệm của KTV và (ii) thái độ nhìn nhận về nghề nghiệp kiểm toán. Điểm mới của nghiên cứu này là bổ sung thêm thành phần khoảng cách thứ tư “khoảng cách tiềm ẩn” so với mô hình đề xuất của Porter (1993). Khoảng cách này phụ thuộc vào thái độ của người được khảo sát đối với nghề nghiệp kiểm toán. Phát hiện trong nghiên cứu này chỉ ra rằng tồn tại khác biệt đáng kể giữa hai nhóm liên quan đến các khía cạnh như hiểu biết chung về kiểm toán và trách nhiệm KTV, đặc biệt trách nhiệm KTV trong việc phát hiện gian lận nhưng không có khác biệt đối với ý kiến cho rằng KTV phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường tổn thất cho các cổ đông. Cả hai nhóm đều nhìn nhận nghề nghiệp kiểm toán ở mức không quan trọng như nhau. Kết luận chỉ ra trong nghiên cứu là có tồn tại khoảng cách hợp lý nhưng không có bằng chứng cho thấy tồn tại khoảng cách hoàn thiện chuẩn mực và khoảng cách tăng cường trách nhiệm ở Lebanon như trong phát hiện của (Porter 1993).Tại Châu Á, Low et al. (1988) nghiên cứu khoảng cách kỳ vọng giữa các KTV và các chuyên gia phân tích tài chính xoay quanh mục tiêu của công ty kiểm toán ở Singapore. Kết quả cho thấy cả hai nhóm đều có chung nhận thức rằng “mục tiêu kiểm toán truyền thống là xác minh và bày tỏ ý kiến về BCTC” như là một trong những mục tiêu tổng quát của kiểm toán. Tuy nhiên, phát hiện trong nghiên cứu cũng chỉ ra rằng tồn tại khoảng cách kỳ vọng kiểm toán là rất đáng kể giữa các chuyên gia phân tích tài chính và KTV. Các chuyên gia tài chính tin rằng công ty kiểm toán ngoài việc trình bày ý kiến về BCTC thì thông qua kiểm toán còn phải cung cấp thông tin chính xác về tình hình tài chính của công ty và KTV phải có trách nhiệm phát hiện và ngăn ngừa gian lận trong công ty được kiểm toán.Leung Chau (2001) đã tiến hành nghiên cứu để đánh giá tác động sau khi chỉnh sửa BCKT tại Hồng Kông. Nghiên cứu kế thừa và mở rộng tiếp nghiên cứu của Hartherly et al (1991) trong việc lựa chọn đối tượng khảo sát (lựa chọn đối tượng khảo sát là các KTV và nhân viên ngân hàng thay vì sinh viên học MBA trong nghiên cứu của Hatherly et al (1991)). Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng BCKT sau khi sửa đổi đạt được sự đồng thuận cao hơn giữa các KTV và các nhân viên ngân hàng so với trước khi sửa đổi và cũng phù hợp với nghiên cứu của Hartherly et al (1991). Ngoài ra, nghiên cứu cũng tiết lộ tồn tại khoảng cách kỳ vọng trong việc hiểu và áp dụng các phương pháp, thủ tục kiểm toán, nhận thức mức độ hữu ích BCKT, trách nhiệm KTV trong việc phát hiện gian lận và thực hiện công việc kiểm toán phải bao quát hơn.Lin Chen (2004) xem xét AEG và các vấn đề liên quan đến kiểm toán tại Trung Quốc dựa trên nghiên cứu của Humphrey et al (1993) và Porter (1993). Bảng khảo sát được gửi bằng email với đối tượng khảo sát gồm KTV và người sử dụng BCTC (nhà đầu tư, chủ nợ, quan chức chính phủ, nhà quản lý và nhà nghiên cứu trong các viện nghiên cứu). Phát hiện trong nghiên cứu chi ra rằng, hầu hết đều đồng thuận với nhận định kiểm toán có vai trò tích cực trong nền kinh tế Trung Quốc trong việc nâng cao tính trung thực và mức độ độ tin cậy BCTC. Tuy nhiên, tồn tại khác biệt trong nhận thức đối với mục tiêu kiểm toán, trách nhiệm của KTV trong việc phát hiện gian lận, trách nhiệm của KTV đối với bên thứ ba và vai trò quản lý của chính phủ tác động đến dịch vụ kiểm toán..Nghiên cứu cung cấp bằng chứng tồn tại AEG cũng được thực hiện tại Malaysia. Dựa trên Bảng câu hỏi của Best et al (2001) và Schelluch (1996), Fadzly Ahmad (2004) đã kiểm tra AEG giữa các KTV và người sử dụng BCKT bao gồm các nhân viên ngân hàng, các nhà đầu tư và nhà môi giới chứng khoán. Nghiên cứu này dựa trên lập luận cho rằng “khoảng cách hợp lý xuất hiện nếu tồn tại quan điểm khác biệt giữa KTV và người sử dụng BCKT”. Kết quả nghiên cứu cho thấy, AEG tồn tại ở Malaysia, đặc biệt liên quan đến trách nhiệm của KTV. Trong đó, khoảng cách đáng kể nhất liên quan đến trách nhiệm của KTV trong việc ngăn ngừa và phát hiện gian lận, lập BCTC và sổ sách kế toán cũng như trong vấn đề kiểm soát nội bộ.Để bổ sung cho các nghiên cứu của Fadzly Ahmad (2004), Lee et al (2007) đã tiến hành một nghiên cứu để điều tra nhận thức giữa các KTV, KHKT và nhóm lợi ích về các vấn đề liên quan đến AEG chưa được đề cập trong nghiên cứu Fadzly Ahmad (2004) gồm: tìm hiểu bản chất, thành phần cấu thành của AEG. Nghiên cứu cho thấy các KHKT và các nhóm lợi ích liên quan đặt kỳ vọng đối với trách nhiệm của KTV cao hơn nhiều so với nhận thức của KTV. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra tồn tại ba thành phần khoảng cách trong nghiên cứu của Porter (1993).

Vấn đề nghiên cứu

Khoảng cách kỳ vọng kiểm toán (AEG) đã được nghiên cứu từ năm 1974 và ngày càng thu hút sự quan tâm từ cả học giả lẫn giới hành nghề AEG không chỉ tồn tại trong các quốc gia mà còn lan rộng ra toàn cầu, phản ánh nhận thức và mong đợi của từng cá nhân Mục đích nghiên cứu AEG là để cung cấp bằng chứng rõ ràng về trách nhiệm của kiểm toán viên (KTV) và những kỳ vọng từ công chúng mà KTV không thể đáp ứng Sự xuất hiện của AEG có thể gây hại cho nghề kiểm toán, đặc biệt khi nhiều công ty lớn sụp đổ do niềm tin quá mức vào kết quả kiểm toán Nghiên cứu về AEG sẽ giúp định hình xu hướng phát triển nghề nghiệp kiểm toán, như mở rộng trách nhiệm của KTV và nâng cao chất lượng kiểm toán Trong bối cảnh toàn cầu hóa, các yêu cầu và mong đợi luôn thay đổi nhanh chóng, đồng thời cũng bị ảnh hưởng bởi các yếu tố kinh tế, chính trị và xã hội khác nhau Do đó, tổng kết các nghiên cứu quốc tế và khảo sát thực nghiệm AEG tại Việt Nam là cần thiết để làm rõ hơn về chủ đề này.

Chưa có nghiên cứu nào xác định rõ các thành phần tạo nên khoảng cách giữa kỳ vọng và thực tế trong kiểm toán tại Việt Nam, đồng thời cũng chưa khẳng định được sự khác biệt trong nhận thức và kỳ vọng giữa các nhóm đối tượng khảo sát.

Nghiên cứu AEG không chỉ cung cấp thêm bằng chứng thực nghiệm cho lý thuyết AEG mà còn hỗ trợ các nhà hoạch định chính sách và tổ chức nghề nghiệp trong việc xây dựng và cung cấp nguồn lực nhằm thu hẹp AEG, từ đó nâng cao uy tín nghề nghiệp kiểm toán độc lập Đồng thời, việc Việt Nam mở rộng hợp tác và đầu tư quốc tế, ký kết nhiều hiệp định thương mại như Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương, vừa tạo cơ hội học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia phát triển, vừa gây áp lực cạnh tranh cho nghề kiểm toán trong nước.

Mục tiêu nghiên cứu

Bài viết này xuất phát từ sự thiếu hụt trong lý thuyết về AEG và nhu cầu tìm hiểu cách xác định AEG tại Việt Nam, với hai mục tiêu chính được đặt ra.

(1) Xác định các yếu tố cấu thành nên khoảng cách kỳ vọng - hiện thực kiểm toán.

(2) Khẳng định tồn tại khoảng cách kỳ vọng – hiện thực và nguyên nhân đóng góp.

Câu hỏi nghiên cứu

Để đạt được mục tiêu nghiên cứu thứ nhất, câu hỏi nghiên cứu được đề xuất:

Q1: Người sử dụng BCKT kỳ vọng những TNKT nào mà KTV nên thực hiện và kỳ vọng bất hợp lý đối với những TNKT nào?;

Q2: Người sử dụng BCKT nhận thức (hiểu biết) về các TNKT được quy định hiện hành như thế nào?

Q3: Đánh giá của hai nhóm trên về kết quả thực hiện các TNKT hiện nay như thế nào?;

Dựa trên việc xác định trách nhiệm tạo nên khoảng cách giữa kỳ vọng và hiện thực, nghiên cứu này đặt ra câu hỏi nhằm đạt được mục tiêu thứ hai.

Trong lĩnh vực kiểm toán báo cáo tài chính (BCTC) ở Việt Nam, có sự khác biệt rõ rệt trong nhận thức, đánh giá và kỳ vọng giữa kiểm toán viên (KTV) và nhà đầu tư (NĐT) về các trách nhiệm của kiểm toán Những khác biệt này góp phần hình thành khoảng cách giữa kỳ vọng và thực tế trong quy trình kiểm toán Nguyên nhân của khoảng cách này có thể bao gồm sự thiếu thông tin, khác biệt trong tiêu chuẩn nghề nghiệp và mong đợi không thực tế từ phía nhà đầu tư.

Mô hình nghiên cứu của Porter

Mô hình AEG, được phát triển bởi Porter (1993, 2012), thể hiện khoảng cách giữa kỳ vọng và hiện thực thông qua ba thành phần chính: (i) khoảng cách kỳ vọng hợp lý, (ii) khoảng cách hoàn thiện chuẩn mực, và (iii) khoảng cách tăng cường trách nhiệm Mô hình này không chỉ phân loại rõ ràng từng bộ phận của AEG mà còn giúp đo lường mức độ đóng góp của mỗi thành phần trong quá trình khảo sát, từ đó đề xuất các giải pháp hiệu quả nhằm thu hẹp khoảng cách này cả về lý thuyết lẫn thực tiễn.

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu định lượng được thực hiện thông qua khảo sát KTV và NĐT bằng phỏng vấn trực tiếp và phiếu khảo sát qua email Mẫu khảo sát bao gồm danh sách các công ty kiểm toán độc lập đăng ký hành nghề năm 2014 và các công ty niêm yết, công ty đại chúng cho NĐT Kích thước mẫu gồm 110 mẫu, trung bình 55 mẫu cho mỗi nhóm, với phương pháp chọn mẫu phi xác suất do sự phân bố không đồng đều giữa KTV và NĐT Thời gian khảo sát diễn ra từ tháng 12 năm 2014 đến tháng 1 năm 2015 Bảng câu hỏi khảo sát được điều chỉnh từ nghiên cứu của Porter et al (2012) để phù hợp với môi trường kinh doanh Việt Nam Phân tích thống kê phi tham số Mean –Whitney U được sử dụng để kiểm định sự khác biệt trong nhận thức và kỳ vọng giữa hai nhóm khảo sát.

Đóng góp mới của Đề tài

Đề tài xác định các trách nhiệm cấu thành khoảng cách giữa kỳ vọng và hiện thực trong kiểm toán, bao gồm khoảng cách hợp lý, khoảng cách hoàn thiện chuẩn mực và khoảng cách tăng cường trách nhiệm.

Bài viết này cung cấp thêm bằng chứng thực nghiệm để bổ sung cho lý thuyết về khoảng cách giữa kỳ vọng và thực tế trong kiểm toán tại Việt Nam Qua đó, khẳng định rằng khoảng cách này (AEG) luôn hiện hữu giữa kiểm toán viên (KTV) và người sử dụng báo cáo tài chính (BCKT).

Đề tài này phân tích thực trạng phát triển nghề nghiệp kiểm toán tại Việt Nam, đồng thời xác định và phân loại các trách nhiệm kiểm toán hiện hành theo quy định.

Việc xác định rõ trách nhiệm của từng bộ phận trong khoảng cách giữa kỳ vọng và thực tế kiểm toán là rất quan trọng Điều này giúp tìm ra các giải pháp cụ thể nhằm thu hẹp khoảng cách, từ đó nâng cao năng lực của nghề kiểm toán độc lập tại Việt Nam.

Cấu trúc của Đề tài

Ngoài phần giới thiệu, Đề tài nghiên cứu gồm năm chương, trình bày theo thứ tự và nội dung chính sau đây:

Nghiên cứu này nhằm làm rõ sự cần thiết của việc tìm hiểu về đề tài, xác định mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu, cùng với đối tượng và phạm vi nghiên cứu cụ thể Đề tài không chỉ đóng góp vào kho tàng tri thức khoa học mà còn mang lại ý nghĩa thực tiễn quan trọng, giúp giải quyết các vấn đề hiện tại trong lĩnh vực nghiên cứu.

Chương 1- Tổng quan các nghiên cứu trước liên quan đến AEG.

Tổng quan các nghiên cứu trước đây trên thế giới và tại Việt Nam cho thấy nhiều kết quả đáng ghi nhận, nhưng vẫn còn tồn tại những vấn đề cần được nghiên cứu thêm Những khoảng trống lý thuyết này sẽ là trọng tâm mà đề tài hướng đến, nhằm cung cấp cái nhìn sâu sắc hơn và đóng góp cho lĩnh vực nghiên cứu hiện tại.

Chương 2 cung cấp cái nhìn tổng quan về trách nhiệm của kiểm toán viên trong kiểm toán báo cáo tài chính (BCTC) Đầu tiên, chương này khám phá lịch sử phát triển của kiểm toán, liên kết với những thay đổi về trách nhiệm của kiểm toán viên (KTV) trên toàn cầu Tiếp theo, chương tóm tắt sự phát triển của kiểm toán độc lập tại Việt Nam, dựa trên những thay đổi trong quy định liên quan đến trách nhiệm của KTV Cuối cùng, chương sẽ phân tích thực trạng của kiểm toán viên trên thế giới và tại Việt Nam.

Nam.Chương 3- Phương pháp nghiên cứu

Chương này, mô tả nguồn dữ liệu, quy trình ghi chép và phân tích dữ liệu cho từng bước nghiên cứu định lượng.

Chương 4- Phân tích và thảo luận kết quả nghiên cứu

Chương này sử dụng để phân tích và thảo luận kết quả khảo sát AEG ở Việt Nam.

Chương 5- Kết luận và một số gợi ý chính sách thu hẹp khoảng cách kỳ vọng kiểm toán ở Việt Nam.

Giới thiệu

Chương này trình bày lý thuyết chung về AEG được công nhận rộng rãi, đồng thời tổng hợp các nghiên cứu trước liên quan đến AEG trên toàn cầu và tại Việt Nam Cuối cùng, chương sẽ tổng kết những kết quả đạt được cũng như các hạn chế trong các nghiên cứu trước, từ đó chỉ ra khoảng trống lý thuyết cần được nghiên cứu tiếp.

Lý thuyết về khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán

1.2.1 Khái niệm khoảng cách kỳ vọng kiểm toán

Khái niệm “khoảng cách kỳ vọng kiểm toán” lần đầu tiên được Liggio (1974) giới thiệu, định nghĩa là sự khác biệt giữa nhận thức của người sử dụng BCKT và các kiểm toán viên (KTV) về kết quả công việc mà KTV nên thực hiện Tuy nhiên, việc đo lường nhận thức này có thể không chính xác nếu chỉ dựa vào những mong đợi mà người sử dụng BCKT hình dung, vì họ có thể ghi nhận những kết quả mà KTV chưa thực hiện Do đó, vào năm 1978, Uỷ ban về Trách nhiệm Kiểm toán viên thuộc Hội Kế toán viên công chứng Hoa Kỳ (AICPA) đã đưa ra định nghĩa về AEG.

Khoảng cách giữa yêu cầu và mong muốn của công chúng đối với KTV và khả năng thực hiện hợp lý của KTV là một vấn đề quan trọng cần được xem xét.

Năm 1978, người sử dụng BCKT được thay bằng công chúng hay xã hội nói chung, và nghiên cứu của Guy & Sullivan (1988) đã chỉ ra rằng khoảng cách kỳ vọng giữa công chúng và KTV phản ánh những gì công chúng tin là trách nhiệm của KTV so với những gì KTV cho là trách nhiệm của mình Năm 1992, Hiệp hội Kế toán viên công chứng Hoa Kỳ (AICPA) cũng đưa ra định nghĩa tương tự về trách nhiệm KTV AEG không chỉ liên quan đến kỳ vọng về trách nhiệm mà còn xuất phát từ những khác biệt trong nhận thức về thông điệp truyền tải trên BCKT, được gọi là khoảng cách thông tin Các nghiên cứu như của Jennings et al (1993) đã xác định khoảng cách kỳ vọng kiểm toán là sự khác biệt giữa kỳ vọng của công chúng và khả năng thực tế của nghề kiểm toán Mặc dù các nghiên cứu này khẳng định sự tồn tại của khoảng cách kỳ vọng do quan điểm khác biệt giữa công chúng và KTV, nhưng chưa có nghiên cứu nào xác định đầy đủ các yếu tố cấu thành và đo lường mức độ khoảng cách này.

Poter (1993, 50) đã chỉ ra rằng định nghĩa của Liggio (1974) và CAR (1978) quá hẹp và không thực tiễn trong lĩnh vực kiểm toán, vì không đề cập đến khả năng kiểm toán viên không thể đáp ứng kỳ vọng quá mức và kỳ vọng hợp lý của công chúng Ông đề xuất rằng thuật ngữ “khoảng cách kỳ vọng - hiện thực” sẽ phù hợp hơn để mô tả vấn đề này.

Năm 1998, tác giả bổ sung ý kiến rằng khoảng cách kỳ vọng xuất phát từ sự "khớp nối lỏng lẻo" giữa lý tưởng hóa nghề nghiệp kiểm toán và thực tế thực hiện nghề này.

Hiện nay, có nhiều cơ quan và nhà nghiên cứu đưa ra các định nghĩa về kiểm toán, nhưng vẫn thiếu sự đồng thuận về ý nghĩa của các khái niệm này (Koh & Woo 1998; Ojo 2006) Sự khác biệt trong quan điểm về vai trò của kiểm toán dẫn đến việc hiểu sai hoặc thiếu hiểu biết về chức năng của nó, tạo ra "khoảng cách kỳ vọng kiểm toán", tức là sự khác biệt giữa vai trò và nhận thức về kiểm toán (Liggio, 1974; Jennings et al 1993; Monroe & Woodliff 1993; McEnroe & Marteens 2001; Power 1998).

Định nghĩa của Porter (1993) về khoảng cách này được xem là có cơ sở khoa học vững chắc hơn so với các định nghĩa trước và sau, vì nó nêu rõ các thành phần và cấu trúc hình thành khoảng cách, đồng thời cung cấp phương pháp để lượng hóa chúng Hơn nữa, định nghĩa này cũng xem xét khả năng thực hiện không hiệu quả của các KTV, trách nhiệm chung của các tổ chức nghề nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước, cũng như các kỳ vọng hợp lý hoặc không hợp lý từ phía người sử dụng.

1.2.2 Mô hình cấu trúc của AEG

Mô hình cấu trúc của AEG của Porter (1993) có hai thành phần chính (Hình 1.1) và các thành phần được định nghĩa như sau:

Khoảng cách hợp lý được xác định là sự khác biệt giữa kỳ vọng của công chúng đối với KTV và kỳ vọng hợp lý của họ Kỳ vọng này được coi là hợp lý khi đáp ứng tiêu chuẩn chi phí-lợi ích.

Khoảng cách hiện thực được định nghĩa là sự khác biệt giữa kỳ vọng hợp lý của công chúng đối với KTV và nhận thức của họ về kết quả thực hiện của KTV Khoảng cách này bao gồm hai thành phần chính.

Khoảng cách hoàn thiện chuẩn mực, hay còn gọi là chuẩn mực hạn chế, đề cập đến sự khác biệt giữa kỳ vọng hợp lý của công chúng đối với kiểm toán viên (KTV) và nhiệm vụ hiện tại của họ theo các chuẩn mực nghề nghiệp và quy định liên quan Khoảng cách này xuất hiện khi thiếu các chuẩn mực nghề nghiệp và quy định cần thiết cho những trách nhiệm mà KTV có thể thực hiện một cách hợp lý.

Khoảng cách giữa nhiệm vụ hiện tại của Kiểm Toán Viên (KTV) theo quy định và kết quả thực hiện của KTV công thể hiện sự tăng cường trách nhiệm, đồng thời cũng cho thấy những hạn chế trong việc đạt được mục tiêu đề ra Việc xác định rõ khoảng cách này là cần thiết để cải thiện hiệu suất làm việc và nâng cao chất lượng dịch vụ công.

Nhận thức thực hiện của KTV Khoảng cách kz vọng- hiện thực

Kz vọng của xã hội đối với KTV

Khoảng cách thực hiện Khoảng cách hợp l{

Kết quả hạn chế chuẩn mực hạn chế Kz vọng quá mức

Quy định trách nhiệm của

Kì vọng hợp lý về trách nhiêm của

Khoảng cách giữa KTV và công chúng xuất hiện khi KTV không tuân thủ đầy đủ các quy định và chuẩn mực nghề nghiệp trong quá trình thực hiện nhiệm vụ Điều này dẫn đến sự thiếu tin tưởng từ phía công chúng đối với chất lượng dịch vụ mà KTV cung cấp.

Trong Hình 1.1, khoảng cách AEG từ A đến D thể hiện sự khác biệt giữa nhận thức của công chúng về mức độ hoàn thành nhiệm vụ của KTV và kỳ vọng xã hội đối với trách nhiệm của họ Điểm B chỉ ra trách nhiệm hiện tại của KTV, trong khi điểm C thể hiện trách nhiệm mà công chúng kỳ vọng một cách hợp lý Phạm vi từ C đến D đại diện cho các kỳ vọng vượt quá tiêu chuẩn hiện hành, được gọi là khoảng cách bất hợp lý Ngược lại, khoảng cách từ A đến C phản ánh kỳ vọng hợp lý của xã hội đối với kết quả thực hiện của KTV.

Hình 1.1 Mô hình cấu trúc khoảng cách kỳ vọng của Porter

Các nghiên cứu trước về khoảng cách kỳ vọng kiểm toán

1.3.1 Các nghiên cứu trên thế giới về khoảng cách kỳ vọng.

Ban đầu, nhiều nghiên cứu tập trung vào việc khám phá khái niệm khoảng cách kỳ vọng kiểm toán thông qua việc xác định sự tồn tại, các thành phần, nguyên nhân và phương pháp đo lường khoảng cách này (AICPA 1978; Humphrey et al 1993; Porter 1993) Gần đây, xu hướng nghiên cứu đã chuyển sang tìm hiểu các yếu tố cấu thành khoảng cách này trong các bối cảnh kinh doanh khác nhau, với các tác giả như Lee (1970), Humphrey et al (1993), Baron et al (1977), Lowe (1994) và Epstein & Geiger.

(1994) và McEnroe & Martens (2001) ở Hoa Kỳ; Beck (1973), Monroe & Woodliff

Nhiều nghiên cứu về khoảng cách kỳ vọng đã được thực hiện trên toàn cầu, bao gồm các tác giả như Gay et al (1997) tại Australia, Low et al (1988) và De Martinis et al (2000) tại Singapore, cùng với Lin & Chen (2004) ở Trung Quốc, Fadzly & Ahmed (2004) và Lee et al (2007) ở Malaysia, Haniffa & Hudaib (2007) ở A Rập, Dixon et al (2006) ở Ai Cập, và Sidani et al (2007) ở Lebanon Tuy nhiên, các nghiên cứu này cho thấy có rất ít sự đồng thuận về ý nghĩa của khái niệm khoảng cách kỳ vọng (Koh & Woo, 1998; Ojo, 2006) Đặc biệt, Lee (1970) đã thực hiện nghiên cứu đầu tiên về AEG tại Anh, mở đầu cho các nghiên cứu tiếp theo trong lĩnh vực này.

Năm 1970, ông đã tiến hành khảo sát các KTV, khách hàng kiểm toán và các bên liên quan khác để thu thập ý kiến về mục tiêu kiểm toán Những người tham gia được yêu cầu lựa chọn mục tiêu kiểm toán từ 13 mục tiêu đã được định nghĩa trước, phân chia thành ba nhóm: các mục tiêu được tán thành, các mục tiêu còn hiệu lực và các mục tiêu đã tồn tại trong lý thuyết kiểm toán.

1970, 295) Kết quả nghiên cứu cho thấy:

(i) Trên 80% số người được khảo sát từ mỗi nhóm (KTV, khách hàng kiểm toán và bên liên quan khác) cho rằng, mục tiêu kiểm toán là:

- Phát hiện gian lận và sai sót trọng yếu trong công ty;

1 American Institute of Certified Public Accountant

- Đảm bảo khách hàng kiểm toán tuân thủ đầy đủ quy định pháp luật;

- Xác minh tính chính xác của sổ sách kế toán; và

- Trình bày ý kiến về sự trung thực và hợp lý của BCTC.

(ii)Từ 50%-80% người được được khảo sát từ mỗi nhóm cho rằng mục tiêu kiểm toán bao gồm:

- Ngăn ngừa gian lận và sai sót trọng yếu trong công ty;

- Thực hiện nghĩa vụ quyết toán thuế cho khách hàng;

- Tư vấn quản lý cho khách hàng;

- Kiểm tra và trình bày ý kiến về sự phù hợp và hữu hiệu trong hoạt động của khách hàng.

Mặc dù có nhiều mục tiêu kiểm toán được người khảo sát xác nhận (8/13), nhiều mục tiêu này không phù hợp hoặc vượt quá khả năng thực hiện của kiểm toán viên (KTV), nhưng vẫn được bên liên quan công nhận Điều này cho thấy tồn tại khoảng cách hợp lý (AEG) giữa người sử dụng báo cáo tài chính (BCKT) và KTV Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng không có sự khác biệt đáng kể giữa hiểu biết về mục tiêu kiểm toán của KTV và các nhóm khảo sát khác Như Lee (1970) đã nhận xét, “thật đáng thất vọng khi KTV cũng thể hiện niềm tin vào kiểm toán như những sai lệch được nhận thấy bên ngoài.”

Sau hơn hai thập kỷ từ nghiên cứu của Lee (1970), Humphrey và các cộng sự (1993) đã thực hiện một cuộc khảo sát vào năm 1990 tại Anh, nhằm tìm hiểu về trách nhiệm của kiểm toán viên (KTV), mục tiêu kiểm toán và kết quả kiểm toán Đối tượng khảo sát bao gồm các KTV, các chuyên gia khoa học kỹ thuật (KHKT) và người sử dụng báo cáo tài chính (BCKT), như nhà phân tích đầu tư, ngân hàng và ký giả tài chính.

Bài khảo sát bao gồm 54 câu hỏi, chia thành hai nhóm: 35 câu hỏi tập trung vào trách nhiệm hiện tại, trách nhiệm mong đợi của kiểm toán viên (KTV), mục tiêu và quy trình kiểm toán; và 19 câu hỏi liên quan đến kết quả kiểm toán của KTV Người tham gia phỏng vấn sẽ đánh giá mức độ đồng ý của mình trên thang đo 7 điểm.

Trong một nghiên cứu, tổng cộng 2.445 phiếu khảo sát đã được gửi đến các kế toán viên công chứng (KTV) và giám đốc tài chính (KHKT), trong đó có 935 bảng khảo sát không được phản hồi, dẫn đến tỷ lệ không phản hồi là 38% Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra những thông tin quan trọng liên quan đến nhóm đối tượng này.

Trách nhiệm của kiểm toán viên (KTV) bao gồm việc hiểu rõ mục tiêu và quy trình kiểm toán, đồng thời duy trì mối quan hệ hợp tác giữa KTV, khách hàng và các bên liên quan khác nhằm đảm bảo tính chính xác và minh bạch trong các nhận định.

- Có quá nhiều kỳ vọng từ cộng đồng NĐT đối với TNKT của KTV (Tỷ lệ đồng ý đối với 3 nhóm lần lượt là 82%, 73%, 33%) (Humphrey et al 1993, 399);

- KTV không hiểu các vấn đề tồn tại trong doanh nghiệp và KTV phải báo cáo hiệu quả quản lý tới các cổ đông;

- Mọi gian lận trọng yếu trong khách hàng kiểm toán phải được phát hiện;

- Bất cứ sai sót trong quản lý của khách hàng kiểm toán cũng phải được báo cáo đầy đủ tới cấp quản lý phù hợp;

- BCKT phải phải cung cấp những đánh giá hợp lý về tình hình tài chính công ty

Kết quả khảo sát 35 câu hỏi cho thấy KTV nhận thức rõ hơn về vai trò hạn chế của mình so với giám đốc tài chính và các nhóm lợi khác Hơn nữa, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng không có sự khác biệt trong hiểu biết về chức năng kiểm toán tại Anh, tương tự như nghiên cứu của Lee (1970).

Kết quả công việc kiểm toán cho thấy sự khác biệt trong đánh giá giữa các nhóm về mức độ hoàn thành nhiệm vụ của kiểm toán viên, với sự phân loại theo mức độ khác biệt giảm dần.

Theo một khảo sát, 86% kế toán viên tin rằng họ đã thành công trong việc đối phó với rủi ro gian lận, tuy nhiên chỉ có 58% kế toán viên, 29% giám đốc tài chính và 20% các bên liên quan khác đồng ý với quan điểm này.

Có sự khác biệt trong việc đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của KTV, đặc biệt ở các khía cạnh như xác định trọng yếu, rủi ro, thiết kế thủ tục kiểm toán và đảm bảo tính khách quan KTV thường tự đánh giá mức độ hoàn thành công việc của mình cao hơn so với các nhóm khác Điều này cho thấy sự khác biệt trong quan điểm đánh giá mức độ hoàn thành của KTV, và đây chính là nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt này.

Nghiên cứu của Porter et al (2004) đã tiến hành khảo sát khoảng cách kỳ vọng - hiện thực trong lĩnh vực kiểm toán tại Vương quốc Anh và New Zealand vào năm 1999 với ba mục tiêu chính: xác định các thành phần và cấu trúc của khoảng cách này, so sánh sự khác biệt giữa hai quốc gia, và phân tích sự thay đổi của khoảng cách kỳ vọng - hiện thực ở New Zealand từ năm 1989 đến 1999.

Năm 1999, nghiên cứu khảo sát bao gồm bốn nhóm đối tượng: Kỹ thuật viên (KTV), khách hàng khoa học kỹ thuật (KHKT), nhóm có lợi ích trong cộng đồng tài chính và nhóm không thuộc cộng đồng tài chính Bảng câu hỏi khảo sát gồm 51 câu hỏi tương ứng với 51 tiêu chuẩn kỹ thuật (TNKT) được đề xuất tại hai quốc gia Kết quả nghiên cứu cho thấy

(1) Có 3 thành phần cấu thành nên AEG (i) khoảng cách hợp lý; (ii) khoảng cách hoàn thiện chuẩn mực (iii) khoảng cách tăng cường TNKT ở cả hai quốc gia;

Năm 1999, hai quốc gia này cho thấy sự tương đồng rõ rệt về các yếu tố cấu thành khoảng cách giữa kỳ vọng và hiện thực, với mức độ khác biệt chỉ nhỏ hơn 2% Tuy nhiên, khoảng cách này lại có sự khác biệt đáng kể giữa từng thành phần.

Kết quả và những hạn chế từ nghiên cứu trước

1.4.1 Kết quả khảo sát khoảng cách kỳ vọng

Tổng kết các nghiên cứu khác nhau ở các quốc khác nhau có thể đi đến một số khẳng định sau:

Nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra rằng luôn tồn tại khoảng cách kỳ vọng kiểm toán giữa các quốc gia và trong từng giai đoạn liên quan đến trách nhiệm của kiểm toán viên, hiểu biết về mục tiêu và chức năng kiểm toán, cũng như thông điệp trong báo cáo kiểm toán Khoảng cách này đặc biệt rõ ràng trong hai lĩnh vực chính: trách nhiệm của kiểm toán viên và thông tin trên báo cáo kiểm toán, ngoại trừ nghiên cứu của Lee (1970).

(i) Đối với trách nhiệm KTV, có 4 TNKT thường tồn tại khác biệt trong kỳ vọng giữa các nhóm đối tượng khảo sát:

-Trách nhiệm KTV trong việc phát hiện và báo cáo tất cả các sai sót và gian lận (trách nhiệm đối với gian lận và sai sót);

-Mức độ đảm bảo về tính chính xác của BCTC và khả năng thanh toán của công ty (trách nhiệm đảm bảo khả năng hoạt động liên tục);

-Trách nhiệm đưa ra cảnh báo sớm sự thất bại của công ty (trách nhiệm dự báo);

-Kiểm toán có trách nhiệm phát hiện và báo cáo hành vi bất hợp pháp (trách nhiệm đối với việc tuân thủ pháp luật).

Trong báo cáo kiểm toán (BCKT), thường có hai vấn đề chính gây ra sự khác biệt trong nhận thức: mục đích và hạn chế của kiểm toán, cùng với các khái niệm và thuật ngữ được sử dụng.

Kết quả nghiên cứu về sự tồn tại và nguyên nhân của khoảng cách kỳ vọng kiểm toán (AEG) cho thấy nó bao gồm hai thành phần chính: khoảng cách hợp lý và khoảng cách hiện thực Khoảng cách hợp lý xuất phát từ những kỳ vọng không thực tế của công chúng đối với nghề kiểm toán, thường được xác định qua sự khác biệt trong nhận thức giữa kiểm toán viên (KTV) và công chúng Trong khi đó, khoảng cách hiện thực, được Porter et al (1993) bổ sung vào định nghĩa AEG, đã được nghiên cứu để chứng minh sự tồn tại và đo lường mức độ ảnh hưởng của nó đến khoảng cách kỳ vọng - hiện thực.

Thứ ba, mặc dù, các thành phần và mức độ khoảng cách có thể khác nhau.

Kết quả đồng nhất cho thấy rằng các yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội không ảnh hưởng trực tiếp đến khoảng cách kỳ vọng kiểm toán Thay vào đó, chúng có thể đóng vai trò như những phương tiện trung gian, tác động gián tiếp đến việc hình thành khoảng cách này.

1.4.2 Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu

Mặc dù nhiều nghiên cứu AEG đã chứng minh sự tồn tại của AEG trong các bối cảnh lịch sử khác nhau, việc loại bỏ hoàn toàn hiện tượng này vẫn gặp khó khăn Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề cần được làm rõ để hiểu rõ hơn về AEG.

Chưa có khung lý thuyết đầy đủ về AEG, dẫn đến nhiều định nghĩa khác nhau và kết quả nghiên cứu chủ yếu dựa vào khảo sát ý kiến thông qua bảng câu hỏi về vai trò kiểm toán, trách nhiệm KTV, cũng như những hạn chế trong quá trình kiểm toán Hạn chế của các nghiên cứu này là không thể xác định liệu các đối tượng khảo sát đã cân nhắc đến tiêu chuẩn chi phí và lợi ích hay chưa, vì KTV có thể ước tính thêm chi phí trước khi đưa ra ý kiến, trong khi người sử dụng khác có thể không làm như vậy Sự khác biệt trong cách nhìn nhận này sẽ tạo ra những khác biệt trong quan điểm đánh giá.

Nhiều nghiên cứu hiện nay vẫn tiếp tục sử dụng phương pháp tiếp cận của các nghiên cứu từ những năm 1970 và 1980 (Dewing & Russell 2002; Lin & Chen 2004; Haniffa & Hudaib 2007), mặc dù lĩnh vực kiểm toán và trách nhiệm pháp lý trong nghề nghiệp kiểm toán đã trải qua nhiều biến đổi quan trọng.

Mặc dù một số nghiên cứu đã chỉ ra nguyên nhân hình thành AEG, nhưng vẫn thiếu các nghiên cứu phân tích mối liên hệ giữa từng nguyên nhân và các thành phần của AEG Cụ thể, cần xem xét liệu việc chậm thích ứng với kỳ vọng xã hội có làm gia tăng khoảng cách hợp lý hay không, và liệu sự chậm trễ trong việc thay đổi và ban hành chuẩn mực so với kỳ vọng có làm tăng AEG hay không.

TỔNG QUAN VỀ TRÁCH NHIỆM KIỂM TOÁN VIÊN TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH

Giới thiệu

Chương này khám phá lịch sử phát triển của kiểm toán và sự thay đổi trách nhiệm của kiểm toán viên (KTV) trên toàn cầu Tiếp theo, bài viết tổng quan về sự phát triển của kiểm toán độc lập tại Việt Nam, dựa trên những thay đổi trong quy định liên quan đến trách nhiệm của KTV Cuối cùng, chương sẽ xem xét thực trạng của AEG cả ở thế giới và Việt Nam.

Lịch sử phát triển kiểm toán và trách nhiệm kiểm toán viên

2.2.1 Lịch sử phát triển kiểm toán và trách nhiệm của kiểm toán viên trên bình diện quốc tế.

Kiểm toán, mặc dù không có tài liệu ghi chép cụ thể về sự ra đời, được cho là bắt nguồn từ các hoạt động kiểm tra cổ xưa ở Ai Cập, Hi Lạp và Trung Quốc vào khoảng năm 350 trước Công nguyên Tương tự, ở Anh và Italia, các hình thức kiểm tra cũng xuất hiện trong thời kỳ Vua Henry I (1100-1135) Trong giai đoạn này, trách nhiệm chính của kiểm toán viên là xác nhận tài sản và phát hiện gian lận, nhưng chưa có khái niệm về thử nghiệm, chọn mẫu kiểm toán hay kiểm soát nội bộ Mục đích của kiểm toán thời kỳ này chủ yếu là xác nhận sự trung thực của người nắm giữ ngân sách, thay vì trách nhiệm của người quản lý ngân sách.

Cách mạng công nghiệp Anh diễn ra trong suốt thời kỳ những năm 1840 -

Năm 1920, Gill & Cosserat (1996) đã thúc đẩy việc thành lập các doanh nghiệp kiểm toán, trong khi Brown (1962) chỉ ra rằng sự phát triển quy mô của doanh nghiệp trong thời kỳ cách mạng công nghiệp đã dẫn đến sự ra đời của các công ty cổ phần và nhu cầu vốn tăng cao, tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán hình thành, mặc dù chủ yếu vẫn là hoạt động đầu cơ Hệ quả là tỷ lệ phá sản gia tăng, khiến nhà đầu tư chuyển từ vai trò chủ nợ sang con nợ, đánh dấu thời điểm thích hợp cho sự xuất hiện của nghề kiểm toán Để đáp ứng sự phát triển kinh tế xã hội tại Vương quốc Anh, một số quy định về kiểm toán đã được ban hành, nổi bật là Luật Các công ty cổ phần năm 1844, quy định rằng giám đốc công ty phải lập báo cáo tài chính và bổ nhiệm kiểm toán viên để kiểm tra Tuy nhiên, chỉ từ năm 1900, theo Đạo luật Công ty sửa đổi năm 1862, mới có quy định rõ ràng về các đối tượng bắt buộc phải kiểm toán và trách nhiệm của ban giám đốc trong việc gửi báo cáo tài chính tới cổ đông (Leung et al 2007).

Trong giai đoạn 1962, KTV có trách nhiệm kiểm tra đầy đủ các nghiệp vụ kinh tế và lập BCTC chính xác, tuy nhiên, hệ thống kiểm soát nội bộ ít được chú trọng Trách nhiệm của KTV chủ yếu dựa vào thỏa thuận trong hợp đồng, và như Porter et al (2005) đã chỉ ra, trách nhiệm này phụ thuộc vào quyết định của tòa án Các vụ kiện như của Ngân hàng Trung ương UK năm 1895 và Kingston Cotton Mill năm 1896 đã khẳng định rằng mục tiêu của kiểm toán là phát hiện gian lận và sai sót, đồng thời cung cấp thông tin về khả năng trả nợ của KHKT (Heang & Ali 2008) Các chuẩn mực kiểm toán sau đó cũng quy định rõ trách nhiệm này Theo Lawrence R Dicksee (1892), mục tiêu kiểm toán bao gồm phát hiện gian lận, sai sót kỹ thuật và sai sót hệ thống Do đó, vai trò của KTV trong giai đoạn này là rất quan trọng trong việc phát hiện gian lận và đánh giá khả năng trả nợ của KHKT.

Tăng trưởng kinh tế Hoa Kỳ từ cuối những năm 1920 đến đầu những năm 1960 đã dẫn đến việc chuyển giao chức năng kiểm toán từ Vương quốc Anh sang Hoa Kỳ Sau giai đoạn suy thoái, đầu tư vào doanh nghiệp tăng nhanh, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán và sự ra đời của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm, đã thúc đẩy thị trường vốn Sự mở rộng quy mô doanh nghiệp đã dẫn đến sự tách rời giữa quyền sở hữu của cổ đông và chức năng điều hành của nhà quản lý, khiến nhiệm vụ của kiểm toán viên (KTV) chuyển sang phục vụ lợi ích của cổ đông trong cộng đồng, không chỉ là các nhà đầu tư địa phương mà còn là các ngân hàng lớn và nhà đầu tư lớn Luật Chứng khoán Liên bang năm 1933 và Luật Giao dịch Chứng khoán năm 1934 yêu cầu các công ty niêm yết phải có báo cáo tài chính (BCTC) được kiểm toán để xác định tính trung thực Các quy định pháp luật và yêu cầu xã hội đã làm thay đổi trách nhiệm của KTV, với chức năng chính là cung cấp sự tin cậy cho BCTC do nhà quản lý lập Trong giai đoạn này, các khái niệm như trọng yếu (Queenan 1946), kỹ thuật chọn mẫu (Brown, 1962) và kiểm soát nội bộ đã được áp dụng do KTV không thể kiểm tra toàn bộ các nghiệp vụ kinh tế khi quy mô công ty ngày càng lớn.

Trong giai đoạn này, phán quyết của Tòa án đã ảnh hưởng đến trách nhiệm của kiểm toán viên (KTV), điển hình là vụ kiện của các chủ nợ đối với KTV trong vụ Công ty Untramares & Touche năm 1931 và vụ kiện của cổ đông liên quan đến Công ty McKesson & Robbins năm 1938 Tòa án Liên bang Mỹ kết luận rằng KTV đã bất cẩn trong kiểm toán nhưng không phải chịu trách nhiệm đối với các chủ nợ của Untramares & Touche do nghĩa vụ vượt quá hợp đồng Tương tự, KTV cũng không bị quy trách nhiệm trong vụ McKesson & Robbins, nhưng Tòa án yêu cầu quy định bắt buộc KTV phải kiểm tra vật chất tiền và tài sản của khách hàng Theo Porter et al (2005), phương pháp kiểm toán trong giai đoạn này có những đặc điểm chính như dựa vào kiểm soát nội bộ, thu thập bằng chứng cả bên trong và bên ngoài, nhấn mạnh tính trung thực và hợp lý của báo cáo tài chính, bổ sung kiểm toán báo cáo kết quả kinh doanh, cùng với việc quan sát và kiểm kê tài sản vật chất.

Trong giai đoạn này, điều kiện kinh tế - xã hội đã ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của kiểm toán Việc thiếu các quy định pháp luật chi tiết về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của kiểm toán viên (KTV) đối với bên thứ ba đã dẫn đến việc Tòa án phải đưa ra phán quyết trong từng trường hợp cụ thể để xác định trách nhiệm của KTV Những phán quyết này thường được sử dụng để điều chỉnh chức năng, mục tiêu và trách nhiệm của KTV Do đó, mục tiêu hàng đầu của kiểm toán trong thời kỳ này là tăng cường tính tin cậy của báo cáo tài chính (BCTC) thay vì chỉ tập trung vào việc phát hiện gian lận và sai sót.

Tăng trưởng kinh tế toàn cầu từ 1960 đến 1990 đã chứng kiến sự phát triển quan trọng của nghề kiểm toán Trong những năm 1970, vai trò chính của kiểm toán viên (KTV) là nâng cao độ tin cậy của thông tin tài chính và thúc đẩy hiệu quả thị trường vốn Chức năng kiểm toán nhằm xác nhận tính trung thực của báo cáo tài chính (BCTC) và đảm bảo BCTC được trình bày hợp lý, bao gồm việc kiểm tra sổ sách và áp dụng các nguyên tắc kế toán KTV có trách nhiệm xác minh liệu BCTC có chứa sai sót trọng yếu hay không, đồng thời khái niệm “trình bày hợp lý” liên quan đến việc tuân thủ các nguyên tắc kế toán được thừa nhận chung Trong giai đoạn này, nghề kiểm toán đã từ chối trách nhiệm lập BCTC cho doanh nghiệp.

Vào đầu thập niên 1980, phương pháp kiểm toán đã chuyển từ tiếp cận hệ thống sang tiếp cận dựa trên đánh giá rủi ro, với trách nhiệm chính của kiểm toán viên (KTV) không còn là phát hiện gian lận mà là xác định tình hình tài chính và kết quả hoạt động thực tế của doanh nghiệp Trách nhiệm này được quy định rõ trong các chuẩn mực kiểm toán, đặc biệt là chuẩn mực IAG số 11 được ban hành năm 1982, xác định rằng trách nhiệm phát hiện và ngăn ngừa gian lận thuộc về Ban giám đốc Mục tiêu của kiểm toán là đưa ra ý kiến về báo cáo tài chính, trong khi KTV cần thiết lập các thủ tục phát hiện gian lận dựa trên đánh giá rủi ro Đến thập niên 1990, Uỷ ban thực hành Kiểm toán quốc tế tiếp tục phát triển các chuẩn mực này thông qua việc ban hành ISA.

Mục tiêu và nguyên tắc chi phối cuộc kiểm toán báo cáo tài chính (BCTC) được quy định trong ISA 240, tập trung vào gian lận và sai sót từ năm 1994 Hai chuẩn mực chính này xác định trách nhiệm của kiểm toán viên (KTV) đối với việc phát hiện gian lận và sai sót, với trọng tâm là ISA 240.

1994 tập trung về các vấn đề chính sau:

Theo ISA 240, gian lận và sai sót là hai loại sai phạm trong báo cáo tài chính Gian lận được định nghĩa là hành vi cố ý của một hoặc nhiều cá nhân trong Ban giám đốc, nhân viên hoặc bên thứ ba nhằm sửa đổi, giả mạo chứng từ, thay đổi ghi chép, tham ô tài sản, hoặc bỏ sót các nghiệp vụ phát sinh Trong khi đó, sai sót là những lỗi không cố ý, như lỗi số học, ghi chép, hiểu sai các nghiệp vụ, hoặc áp dụng sai các phương pháp kế toán, ảnh hưởng đến tính chính xác của báo cáo tài chính.

Ban giám đốc chịu trách nhiệm ngăn chặn và phát hiện gian lận cũng như sai sót bằng cách thiết lập và duy trì hệ thống kiểm soát nội bộ Đồng thời, kiểm toán viên (KTV) cần xem xét và đánh giá các rủi ro gian lận, sai sót có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến báo cáo tài chính (BCTC) và thiết lập các thủ tục để phát hiện các vấn đề này.

Để phát hiện gian lận và sai sót, KTV cần đánh giá rủi ro và thiết lập các thủ tục phù hợp dựa trên đánh giá này Việc điều chỉnh bổ sung thủ tục kiểm toán và thông báo về gian lận, sai sót cho Ban giám đốc cũng là những bước quan trọng trong quy trình này.

Trong giai đoạn hiện nay, trách nhiệm chủ yếu của kiểm toán viên (KTV) là đưa ra ý kiến về tính trung thực và hợp lý của báo cáo tài chính (BCTC), thay vì đảm bảo độ chính xác của số liệu tài chính KTV không có trách nhiệm phát hiện gian lận, mà nhiệm vụ này thuộc về Ban giám đốc Việc phát hiện gian lận chỉ là trách nhiệm gián tiếp của KTV thông qua việc thiết kế các thủ tục đánh giá rủi ro.

2.2.1.5 Giai đoạn từ cuối thập niên 1990 đến nay

Vào cuối thế kỷ 20, môi trường kinh doanh đã thay đổi, dẫn đến việc các chuẩn mực kiểm toán quốc tế ban hành năm 1994 bộc lộ nhiều khuyết điểm, đặc biệt là sau những vụ sụp đổ của các công ty lớn như Enron và Worldcom, trong đó có trách nhiệm của các công ty kiểm toán Nguyên nhân chính là xung đột lợi ích giữa các công ty kiểm toán và người sử dụng báo cáo tài chính, bao gồm việc thẩm quyền bổ nhiệm kiểm toán viên độc lập, sự độc quyền của Big 4 chiếm 98% thị phần trên sàn chứng khoán Mỹ, và quy định pháp luật lỏng lẻo giúp các hãng kiểm toán né tránh kiện tụng Để khắc phục những khiếm khuyết này và phục hồi niềm tin của công chúng, các tổ chức nghề nghiệp đã tăng cường sửa đổi và ban hành mới các chuẩn mực kiểm toán nhằm nâng cao trách nhiệm của kiểm toán viên.

2 http://kiemtoan.com.vn/vi-sao-kiem-toan-big-4-ngay-cang-tro-nen-vo-dung/

Theo Tân (2014), có bốn nhân tố chính ảnh hưởng đến sự thay đổi hệ thống chuẩn mực kiểm toán trong giai đoạn này: (i) toàn cầu hóa làm gia tăng nhu cầu thông tin cho người sử dụng báo cáo tài chính, đòi hỏi áp dụng hệ thống chuẩn mực kiểm toán quốc tế chất lượng cao; (ii) sự phát triển của các công ty kiểm toán với nhiều dịch vụ bảo đảm mới, cùng với phương pháp tiếp cận kiểm toán dựa trên rủi ro kinh doanh; (iii) báo cáo COSO năm 1992 đã định hình lại khuôn mẫu về kiểm soát nội bộ, khiến các chuẩn mực kiểm toán ban hành năm 1994 trở nên không còn phù hợp; và (iv) mặc dù các chuẩn mực kiểm toán ban hành năm 1994 đã được bổ sung và chỉnh sửa, nhưng vẫn bộc lộ nhiều bất cập trong quá trình áp dụng thực tiễn.

Thực trạng AEG ở Việt Nam

2.3.1 Khoảng cách kỳ vọng hợp lý tại Việt Nam

Việt Nam đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu, thu hút nhiều doanh nghiệp và nhà đầu tư nước ngoài Tuy nhiên, sự gia tăng đầu tư cũng kéo theo nguy cơ "nhập khẩu" các hình thức gian lận mới, phức tạp và khó phát hiện Gần đây, nhiều vụ sai phạm trong lĩnh vực tài chính đã được đưa ra ánh sáng, như vụ việc tại Vinashin, Công ty cho thuê tài chính II (Agribank), và Công ty Cổ phần Dược phẩm, cho thấy sự cần thiết phải nâng cao công tác quản lý và giám sát trong ngành này.

Viễn Đông, Công ty Bông Bạch Tuyết và Công ty CP Quốc Cường Gia Lai đã cảnh báo về tính trung thực hợp lý của các báo cáo tài chính đã được kiểm toán, dẫn đến sự sụt giảm niềm tin của công chúng vào nghề kiểm toán Điều này đã tạo ra những kỳ vọng và yêu cầu mới từ các nhà đầu tư cũng như những người sử dụng báo cáo tài chính đối với nghề kiểm toán tại Việt Nam, như đã nêu bởi Humphrey et al.

Từ năm 1992, nghề nghiệp kiểm toán đã dần trở nên xã hội hóa và cần phải điều chỉnh để đáp ứng kỳ vọng của xã hội Nếu không thay đổi kịp thời với môi trường kinh doanh Việt Nam, nghề kiểm toán sẽ tạo ra khoảng cách giữa kỳ vọng và thực tế Trong bối cảnh toàn cầu hóa, môi trường kinh doanh ngày càng phức tạp và rủi ro cao, nhà đầu tư không chỉ mong muốn lợi nhuận mà còn yêu cầu sự an toàn cho khoản đầu tư của họ Điều này dẫn đến kỳ vọng cao hơn đối với nghề kiểm toán và trách nhiệm của kiểm toán viên, trong đó có nhiều kỳ vọng không hợp lý Hai nguyên nhân chính gây ra những kỳ vọng bất hợp lý này xuất phát từ sự biến đổi liên tục của môi trường kinh doanh.

Hoạt động kinh doanh ngày càng đa dạng và phức tạp đã làm tăng khối lượng công việc kiểm toán, trong khi mức tăng phí dịch vụ kiểm toán lại không đủ để bù đắp cho thời gian và chi phí phát sinh Để tối ưu hóa hoạt động, các doanh nghiệp kiểm toán sẽ tìm cách giảm thời gian và khối lượng công việc, thay đổi phương pháp tiếp cận, giảm bớt trách nhiệm của kiểm toán viên để giảm thiểu rủi ro, và tăng cường cung cấp các dịch vụ bổ sung Tuy nhiên, khi những thay đổi này được áp dụng, những kỳ vọng trước đây trở nên không còn hợp lý do người sử dụng báo cáo tài chính thường chậm thay đổi nhận thức so với kiểm toán viên.

Khi tham gia vào thị trường toàn cầu, các doanh nghiệp Việt Nam thường phải đổi mới hoạt động kinh doanh và quản lý để cạnh tranh hiệu quả Họ thường tham khảo kinh nghiệm thành công từ các quốc gia khác, tuy nhiên, những kỳ vọng mới có thể không luôn phù hợp với thực tế tại Việt Nam do tính khả thi có thể thấp.

2.3.2 Khoảng cách hoàn thiện chuẩn mực kiểm toán

Việt Nam đã xây dựng một hệ thống quy định đầy đủ về trách nhiệm của kiểm toán viên (KTV) từ khi thành lập đến nay, với sự ban hành của Nghị định 105/2004/NĐ-CP và Thông tư 64/2004/TT-BTC bởi Chính phủ và Bộ Tài chính Luật kiểm toán độc lập năm 2011 cũng quy định chi tiết về trách nhiệm của KTV Các chuẩn mực kiểm toán tại Việt Nam đã tiếp cận và phù hợp với thông lệ quốc tế Tuy nhiên, vẫn còn những điểm khác biệt trong quá trình phát triển các quy định kiểm toán liên quan đến trách nhiệm của KTV giữa Việt Nam và thế giới.

Hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam hiện chưa được cập nhật thường xuyên, dẫn đến việc ban hành các chuẩn mực diễn ra chậm Nhiều nội dung trong chuẩn mực không còn phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế và yêu cầu xã hội, đặc biệt là trong việc ứng dụng công nghệ thông tin trong kinh doanh và báo cáo tài chính Kể từ ngày 1/1/2014, hệ thống chuẩn mực mới đã có hiệu lực sau 15 năm từ khi ban hành chuẩn mực đầu tiên, nhưng vẫn chậm hơn so với chuẩn mực kiểm toán quốc tế Hiện nay, chuẩn mực kiểm toán Việt Nam được soạn thảo dựa trên chuẩn mực quốc tế có hiệu lực từ ngày 15/12/2009, chậm 4 năm so với thời điểm đó Từ năm 2010 đến nay, IAASB đã sửa đổi 3 chuẩn mực, cho thấy sự cần thiết phải cập nhật nhanh chóng hơn nữa.

315, ISA 610, ISRE 2400; ban hành thêm dự thảo Chuẩn mực mới ISA 701 và ban hành 3 dự thảo sửa đổi ISA 700, ISA 705, ISA 706 (Trần Thị Giang Tân 2014).

Hiện nay, các quy định về trách nhiệm của kiểm toán viên (KTV) trong việc phát hiện gian lận trong quá trình kiểm toán chưa được đặt nặng Các quy định này chủ yếu được quy định trong Nghị định số 105/2004/NĐ-CP và Luật Kiểm toán độc lập.

Mặc dù đã có các quy định như Thông tư 183/2013/TT-BTC và các chuẩn mực VSA số 200, 240, 250 được ban hành từ năm 2011, nhưng hiện vẫn thiếu các chế tài cụ thể để xử lý vi phạm, phạt hoặc bồi thường thiệt hại đối với kiểm toán viên (KTV) và công ty kiểm toán khi không hoàn thành trách nhiệm của mình Hơn nữa, các cuộc kiểm tra của Bộ Tài chính và đánh giá chất lượng kiểm toán của VACPA chưa chú trọng đầy đủ đến trách nhiệm của KTV trong việc phát hiện gian lận và sai sót.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, việc chấp nhận và áp dụng các quy định và nguyên tắc chung của nhiều quốc gia là điều cần thiết Do đó, sự chậm trễ trong việc ban hành và cập nhật Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam so với các Chuẩn mực kiểm toán quốc tế đã tạo ra khoảng cách trong việc hoàn thiện chuẩn mực, ảnh hưởng đến thành phần của AEG.

2.3.3 Khoảng cách chất lượng hoạt động kiểm toán.

Chất lượng kiểm toán chưa có một định nghĩa hoàn chỉnh, nhưng kết quả do các kiểm toán viên độc lập cung cấp là một trong những chỉ số quan trọng nhất để đánh giá chất lượng này Hiện nay, tại Việt Nam, dịch vụ kiểm toán thường bị đánh giá thấp về nhiều khía cạnh khác nhau.

Thứ nhất, nhiều công ty lớn bị phá sản có một phần trách nhiệm của công ty kiểm toán khi đưa ra ý kiến kiểm toán không phù hợp;

Phần lớn các công ty kiểm toán hiện nay là những công ty quy mô nhỏ, và nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng có mối tương quan tuyến tính mạnh giữa quy mô công ty kiểm toán và mức phí dịch vụ Cụ thể, các công ty kiểm toán nhỏ thường áp dụng mức phí thấp, tuy nhiên, áp lực cạnh tranh có thể dẫn đến việc không đủ bù đắp chi phí, từ đó ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán Một nghiên cứu chất lượng kiểm toán của 30 công ty vào năm 2011 do VACPA thực hiện cho thấy hầu hết các công ty này chưa tuân thủ đúng các quy định của chuẩn mực kiểm toán, đặc biệt là ở các công ty quy mô nhỏ, với 19 trên 30 công ty không đạt yêu cầu chất lượng dịch vụ.

Các công ty kiểm toán tại Việt Nam hiện chưa chú trọng đến việc đào tạo và bồi dưỡng nhân viên, dẫn đến tình trạng thiếu hụt số lượng kiểm toán viên (KTV) so với nhu cầu Chất lượng đội ngũ KTV hiện tại cũng chưa đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế.

Thái độ và sự quan tâm của nhà đầu tư, cổ đông và nhà quản lý có ảnh hưởng lớn đến chất lượng dịch vụ kiểm toán Theo Điều 21, Thông tư số 121/2012/TT-BTC, Ban kiểm soát có quyền đề xuất Đại hội đồng cổ đông phê chuẩn tổ chức kiểm toán độc lập cho báo cáo tài chính của công ty đại chúng Tuy nhiên, mẫu điều lệ áp dụng cho các công ty đại chúng lại quy định rằng Đại hội đồng cổ đông thường niên có trách nhiệm chọn công ty kiểm toán độc lập, hoặc thông qua danh sách các công ty và ủy quyền cho Hội đồng quản trị quyết định lựa chọn Sự mâu thuẫn này giữa quyền lựa chọn kiểm toán viên cho Ban kiểm soát và quy định của Đại hội đồng cổ đông có thể gây khó khăn trong việc thực hiện kiểm toán thực tế.

Khái quát về Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)

Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) xuất phát từ Hiệp định hợp tác, nhằm thúc đẩy thương mại và đầu tư giữa các quốc gia tham gia.

3 http://www.tinmoi.vn/chat-luong-kiem-toan-chua-dat-chuan-01802654.html

Hiệp định Kinh tế chiến lược Xuyên Thái Bình Dương (P4) là một hiệp định thương mại tự do được ký kết vào ngày 3/6/2005 và có hiệu lực từ 28/5/2006, giữa bốn quốc gia Singapore, Chile, New Zealand và Brunei Hiệp định này xuất phát từ sáng kiến của ba nước Chile, New Zealand và Singapore (P3) nhằm thúc đẩy hợp tác kinh tế chặt chẽ hơn, được khởi động trong khuôn khổ Hội nghị Cấp cao APEC 2002 tại Mexico.

Năm 2005, Brunei gia nhập với tư cách thành viên sáng lập P4 trước khi vòng đàm phán cuối cùng kết thúc Đến năm 2007, các nước thành viên P4 quyết định mở rộng phạm vi đàm phán của Hiệp định sang các vấn đề dịch vụ tài chính và đầu tư, đồng thời trao đổi với Hoa Kỳ về khả năng tham gia vào đàm phán mở rộng Hoa Kỳ đã tiến hành nghiên cứu và tham vấn nội bộ về vấn đề này Vào tháng 9/2008, Đại diện thương mại Hoa Kỳ thông báo quyết định tham gia đàm phán P4 mở rộng và tham gia thảo luận về thị trường dịch vụ tài chính với các nước P4 Đến tháng 11 cùng năm, Australia, Peru và Việt Nam cũng bày tỏ sự quan tâm và tham gia vào đàm phán TPP, nâng tổng số thành viên tham gia lên.

Tính đến ngày 13/11/2010, có 8 quốc gia (ngoại trừ Việt Nam) đã tuyên bố tham gia đàm phán với tư cách thành viên đầy đủ, trong khi các quốc gia khác đã quyết định tham gia ngay từ đầu Từ thời điểm này, quá trình đàm phán mở rộng P4 được đổi tên thành Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP).

Từ năm 2006, Singapore đã tích cực mời Việt Nam tham gia TPP - P4, nhưng Việt Nam chưa chấp nhận do cân nhắc kinh tế và chính trị Tuy nhiên, khi Mỹ quyết định tham gia TPP và mời Việt Nam cùng tham gia, Việt Nam đã xem xét lại quyết định của mình Đầu năm 2009, Việt Nam chính thức tham gia TPP với tư cách thành viên liên kết, và đến tháng 11/2010, sau ba phiên đàm phán, Việt Nam đã tham gia chính thức vào quá trình đàm phán TPP.

Vào tháng 10 năm 2010, Malaysia chính thức tham gia vào TPP, nâng tổng số nước tham gia đàm phán lên 9 Trong 3 Vòng đàm phán đầu tiên, có 8 đối tác gồm 4 nước thành viên P4 (New Zealand, Brunei, Chile, Singapore) và 4 nước bên ngoài (Australia, Peru, Hoa Kỳ, Việt Nam) Malaysia là nước thứ 9 tham gia từ Vòng đàm phán thứ 3 Trong tương lai, số lượng các bên tham gia có thể mở rộng khi nhiều nước trong khu vực ASEAN và APEC, như Nhật Bản, Canada, Hàn Quốc, Indonesia và Thái Lan, bày tỏ sự quan tâm đến TPP.

2.4.2 Những nội dung cơ bản của Hiệp định TPP

Hiệp định TPP được kỳ vọng sẽ tăng cường thương mại và đầu tư giữa các nước thành viên, thúc đẩy đổi mới, tăng trưởng kinh tế và phát triển, đồng thời tạo ra và duy trì việc làm Trong bản mô tả các lĩnh vực đàm phán chính vào ngày 12/11/2011, các Bộ trưởng thương mại đã xác định 5 đặc trưng quan trọng, giúp Hiệp định TPP trở thành một hiệp định thương mại mang tính bước ngoặt của thế kỷ 21.

Tiếp cận thị trường toàn diện thông qua việc bãi bỏ thuế và các rào cản thương mại sẽ mở ra nhiều cơ hội mới cho người lao động và doanh nghiệp, đồng thời mang lại lợi ích trực tiếp cho người tiêu dùng.

Hiệp định khu vực toàn diện thúc đẩy sự phát triển sản xuất và chuỗi cung ứng giữa các thành viên TPP, góp phần tạo ra việc làm, nâng cao mức sống và cải thiện phúc lợi xã hội Đồng thời, hiệp định này cũng hỗ trợ phát triển bền vững tại các quốc gia thành viên.

Các vấn đề thương mại xuyên suốt được hình thành dựa trên các thỏa thuận đã đạt được trong khuôn khổ APEC và các diễn đàn khác, đồng thời được đưa vào Hiệp định TPP với bốn vấn đề mới, tạo thành một khung pháp lý toàn diện cho các quốc gia tham gia.

Các cam kết trong chính sách sẽ tạo ra một môi trường thương mại gắn kết và hiệu quả, từ đó thúc đẩy sự giao thương giữa các nước thành viên.

Các cam kết trong TPP sẽ nâng cao năng lực cạnh tranh cho các nền kinh tế thành viên, thúc đẩy hội nhập kinh tế và tạo thêm việc làm Điều này sẽ được thực hiện thông qua việc phát triển chuỗi sản xuất và chuỗi cung ứng trong khu vực, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc kinh doanh.

Doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ được hỗ trợ thông qua các cam kết nhằm giải quyết những lo ngại về việc hiểu và áp dụng các hiệp định thương mại, từ đó khuyến khích giao thương quốc tế Đồng thời, việc tự do hóa thị trường mạnh mẽ sẽ cải thiện thương mại và đầu tư, tăng cường kỷ cương và thực hiện các cam kết, bao gồm thiết lập cơ chế hỗ trợ các thành viên TPP trong việc thực thi hiệu quả hiệp định Điều này không chỉ giúp tối đa hóa lợi ích mà Hiệp định mang lại mà còn nâng cao vai trò của các thể chế quan trọng trong quản lý và phát triển kinh tế, góp phần thúc đẩy các ưu tiên phát triển kinh tế của từng thành viên TPP.

Những thách thức mới trong thương mại hiện nay yêu cầu thúc đẩy đầu tư và thương mại cho các sản phẩm và dịch vụ sáng tạo, bao gồm cả nền kinh tế kỹ thuật số và công nghệ xanh Đồng thời, cần đảm bảo một môi trường kinh doanh cạnh tranh trong toàn bộ khu vực TPP để tối ưu hóa lợi ích cho các quốc gia thành viên.

Hiệp định mở cho phép điều chỉnh các điều khoản để giải quyết những vấn đề thương mại phát sinh trong tương lai và thích ứng với các thách thức mới khi mở rộng để kết nạp thêm thành viên.

Kết luận

AEG đã đồng hành cùng sự phát triển của nghề kiểm toán, mặc dù cấu trúc và mức độ của nó có sự khác biệt qua các thời kỳ và quốc gia Tại Việt Nam, mặc dù các quy định và chuẩn mực kiểm toán đã tiến gần đến tiêu chuẩn quốc tế, nhưng chất lượng dịch vụ kiểm toán vẫn chưa đáp ứng được kỳ vọng của người sử dụng Một phần nguyên nhân là do người sử dụng thiếu hiểu biết và quan tâm đến chức năng kiểm toán và trách nhiệm của kiểm toán viên.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

PHÂN TÍCH VÀ THẢO LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Ngày đăng: 07/09/2021, 16:04

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Trong Hình 1.1, AEG chính là khoảng cách từ A đế nD biểu hiện sự khác biệt giữa nhận thức của công chúng đối với mức độ hoàn thành nhiệm vụ của KTV và kỳ vọng của xã hội đối với trách nhiệm của KTV - Luận văn Kinh tế ĐỘC QUYỀN: KHOẢNG CÁCH KỲ VỌNG KIỂM TOÁN TRONG NHẬN THỨC CỦA CÁC NHÀ ĐẦU TƯ KHI VIỆT NAM GIA NHẬP TPP
rong Hình 1.1, AEG chính là khoảng cách từ A đế nD biểu hiện sự khác biệt giữa nhận thức của công chúng đối với mức độ hoàn thành nhiệm vụ của KTV và kỳ vọng của xã hội đối với trách nhiệm của KTV (Trang 14)
- Trong quá trình kiểm toán, nếu phát hiện đơn  vị  được  kiểm  toán  có  hiện  tượng  vi - Luận văn Kinh tế ĐỘC QUYỀN: KHOẢNG CÁCH KỲ VỌNG KIỂM TOÁN TRONG NHẬN THỨC CỦA CÁC NHÀ ĐẦU TƯ KHI VIỆT NAM GIA NHẬP TPP
rong quá trình kiểm toán, nếu phát hiện đơn vị được kiểm toán có hiện tượng vi (Trang 38)
Bảng 2.2. Trách nhiệm kiểm toán viên độc lập giai đoạn hiện nay STT Quy định pháp luật Trách nhiệm KTV theo quy định 1Luật Kiểm toán độc lập - Luận văn Kinh tế ĐỘC QUYỀN: KHOẢNG CÁCH KỲ VỌNG KIỂM TOÁN TRONG NHẬN THỨC CỦA CÁC NHÀ ĐẦU TƯ KHI VIỆT NAM GIA NHẬP TPP
Bảng 2.2. Trách nhiệm kiểm toán viên độc lập giai đoạn hiện nay STT Quy định pháp luật Trách nhiệm KTV theo quy định 1Luật Kiểm toán độc lập (Trang 44)
Bảng 3.1. Câu hỏi khảo sát AEG S - Luận văn Kinh tế ĐỘC QUYỀN: KHOẢNG CÁCH KỲ VỌNG KIỂM TOÁN TRONG NHẬN THỨC CỦA CÁC NHÀ ĐẦU TƯ KHI VIỆT NAM GIA NHẬP TPP
Bảng 3.1. Câu hỏi khảo sát AEG S (Trang 56)
Thang đo 1 (Câu hỏi 1a trong Bảng khảo sát): Bạn có thừa nhận đây là trách nhiệm của KTV theo quy định hiện hành?; - Luận văn Kinh tế ĐỘC QUYỀN: KHOẢNG CÁCH KỲ VỌNG KIỂM TOÁN TRONG NHẬN THỨC CỦA CÁC NHÀ ĐẦU TƯ KHI VIỆT NAM GIA NHẬP TPP
hang đo 1 (Câu hỏi 1a trong Bảng khảo sát): Bạn có thừa nhận đây là trách nhiệm của KTV theo quy định hiện hành?; (Trang 59)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w