1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Phát triển du lịch ở làng nghề thủ công truyền thống chế biến nước mắm phú lợi (quỳnh dị quỳnh lưu – nghệ an

66 36 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 66
Dung lượng 1,12 MB

Cấu trúc

  • Vinh, 2014

  • A. MỞ ĐẦU

  • 1. Lý do chọn đề tài

  • 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

  • 3. Mục đích nghiên cứu

  • 4. Phương pháp nghiên cứu

  • 5. Đóng góp của đề tài

  • B. NỘI DUNG

  • CHƯƠNG 1

  • TỔNG QUAN VỀ HUYỆN QUỲNH LƯU VÀ LÀNG NGHỀ

  • TRUYỀN THỐNG

  • 1.1. Tổng quan về huyện Quỳnh Lưu

  • 1.1.1. Vị trí địa lí và tài nguyên thiên nhiên của huyện Quỳnh Lưu

  • 1.1.2. Lịch sử hình thành

  • 1.1.3. Con người

  • 1.1.4. Truyền thống lao động, sản xuất

  • 1.2. Giới thiệu khái quát về làng nghề thủ công truyền thống ở huyện Quỳnh Lưu

  • 1.2.1. Quan niệm về làng nghề, làng nghề thủ công truyền thống

  • Ở Việt Nam hiện nay có gần 2000 làng nghề, phân bố khắp cả nước, tập trung đông nhất ở Đồng bằng sông Hồng trong đó chỉ có khoảng 15% là các làng nghề truyền thống.

  • 1.2.2. Đặc điểm của làng nghề thủ công truyền thống

  • 1.2.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển

  • 1.2.2.2. Đặc điểm của làng nghề thủ công truyền thống

  • 1.2.3. Những nhân tố tác động đến sự phát triển của các làng nghề thủ công truyền thống ở Quỳnh Lưu

  • 1.3. Giới thiệu về làng chế biến nước mắm truyền thống Phú Lợi (Quỳnh Dị - Quỳnh Lưu – Nghệ An).

  • CHƯƠNG 2

  • THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH TẠI LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG TRUYỀN THỐNG CHẾ BIẾN NƯỚC MẮM PHÚ LỢI

  • 2.1. Một số giá trị của làng nghề đối với sự phát triển du lịch

  • 2.1.1. Giá trị sản xuất

  • 2.1.2. Giá trị xã hội

  • 2.1.3. Giá trị văn hóa

  • 2.2. Thực trạng phát triển du lịch tại làng nghề thủ công truyền thống chế biến nước mắm Phú Lợi

  • 2.2.1. Đặc điểm mẫu khảo sát

  • 2.2.2. Nguồn gốc hình thành

  • 2.2.3. Quá trình phát triển

  • 2.2.4. Cơ cấu nguồn lao động

  • 2.2.5. Nguồn thu nhập từ làng nghề

  • 2.2.6. Thị trường tiêu thụ sản phẩm

  • 2.2.7. Cơ cấu khách tham quan

  • Thực trạng trên đã phản ánh hoạt động du lịch tại làng nghề chế biến nước mắm truyền thống Phú Lợi chưa thu hút được nhiều đối tượng khách tới tham quan. Vấn đề đặt ra là cần phải có những đánh giá, nhận xét đúng đắn về tầm quan trọng và vai trò của hoạt động du lịch làng nghề đối với sự phát triển của địa phương. Từ đó sẽ đưa ra những chính sách phù hợp, kịp thời nhằm bảo tồn và phát huy những giá trị truyền thống làng nghề, góp phần thúc đẩy nền kinh tế xã nhà phát triển.

  • 2.2.8. Hệ thống cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật

  • 2.2.8.1. Thực trạng hệ thống cơ sở hạ tầng

  • 2.2.8.2. Thực trạng hệ thống cơ sở vật chất kĩ thuật

  • 2.2.9. Thực trạng môi trường tại làng nghề

  • 2.2.10. Đánh giá chung

  • CHƯƠNG 3

  • MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ

  • 3.1. Giải pháp về quy hoạch phát triển làng nghề

  • 3.2. Giải pháp phát triển cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kĩ thuật

  • 3.3. Giải pháp phát triển thị trường, thương hiệu cho sản phẩm làng nghề.

  • 3.4. Giải pháp bảo vệ môi trường

  • 3.5. Có sự liên kết với các loại hình du lịch khác trong địa bàn huyện

  • C. KẾT LUẬN

  • TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • PHỤ LỤC

Nội dung

MỞ ĐÂU

Lý do chọn đề tài

Nghề thủ công truyền thống có vai trò quan trọng trong sự phát triển của con người từ xa xưa, khi các thế hệ cha ông đã bắt đầu tạo ra sản phẩm để đáp ứng nhu cầu cuộc sống hàng ngày Qua thời gian, nghề thủ công không chỉ phục vụ cho đời sống mà còn phản ánh sự tiến bộ của xã hội, khẳng định vị trí của các làng nghề truyền thống trong nền văn hóa và kinh tế.

Du lịch làng nghề trên thế giới đã phát triển mạnh mẽ, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập hiện nay, khi các làng nghề truyền thống khẳng định vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội Mỗi làng nghề mang đậm bản sắc riêng, phản ánh nét độc đáo của từng vùng miền Tại Việt Nam, du lịch làng nghề truyền thống đã đóng góp tích cực vào sự phát triển ngành du lịch, với những làng nghề nổi tiếng như Gốm Bát Tràng, Tranh Đông Hồ, chiếu Nga Sơn và đá Non Nước thu hút đông đảo du khách Gần đây, du lịch làng nghề ngày càng hấp dẫn du khách quốc tế nhờ vào giá trị văn hóa và sản phẩm thủ công đặc trưng Tuy nhiên, hoạt động du lịch tại các làng nghề vẫn chủ yếu mang tính tự phát và cần được phát triển chuyên nghiệp hơn.

Du lịch Nghệ An đang trải qua sự chuyển mình mạnh mẽ nhờ vào sự phát triển nhanh chóng của ngành du lịch cả nước và những đầu tư tích cực.

Du lịch, được gọi là "ngành công nghiệp không khói", đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra nguồn thu lớn cho ngân sách tỉnh và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế Ngoài ra, hoạt động du lịch còn nâng cao sự hiểu biết lẫn nhau và củng cố mối quan hệ hợp tác về kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội giữa các vùng trong nước cũng như giữa các quốc gia.

Hoạt động du lịch tại các làng nghề thủ công truyền thống ở tỉnh hiện chưa phát triển, với khách chủ yếu là người dân địa phương và vùng lân cận đến học hỏi và giao lưu Sản phẩm làng nghề còn ít thương hiệu, cơ sở hạ tầng và kỹ thuật nghèo nàn, chưa được đầu tư đúng mức, dẫn đến việc không thu hút đông đảo du khách Do đó, cần tìm ra các biện pháp để phát huy tiềm năng du lịch làng nghề, góp phần phát triển kinh tế - xã hội và bảo tồn các giá trị văn hóa.

Dựa trên nhận thức về tiềm năng du lịch, tôi đã chọn đề tài “Phát triển du lịch ở làng nghề thủ công truyền thống chế biến nước mắm Phú Lợi (Quỳnh Dị - Quỳnh Lưu – Nghệ An)” Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá khả năng phát triển du lịch tại làng nghề, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động du lịch trong khu vực này.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu hoạt động du lịch làng nghề.

Phạm vi nghiên cứu là làng nghề chế biến nước mắm Phú Lợi nằm trong không gian xã Quỳnh Dị, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.

Thời gian đề tài được thực hiện từ 12/2013 đến 04/2014.

Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu tiềm năng du lịch làng nghề chế biến nước mắm Phú Lợi

(Quỳnh Dị) nhằm đẩy mạnh hoạt động du lịch tại địa phương và thu hút du khách đến với làng nghề.

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu các tài liệu sẵn có: Các tài liệu thành văn, các bài báo, mạng internet…

Khảo sát thực địa: Tiến hành phỏng vấn trực tiếp, thăm dò ý kiến người dân thông qua phiếu điều tra tại làng nghề.

Phân tích tổng hợp các số liệu thống kê từ phiếu điều tra sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về thông tin thu thập được Việc đối chiếu và so sánh các số liệu thực tế với lý thuyết là cần thiết để xác định tính chính xác và đáng tin cậy của dữ liệu Ngoài ra, các cuộc phỏng vấn và trao đổi với người cao niên, nghệ nhân hiện tại hoặc hậu duệ của những nghệ nhân xưa sẽ cung cấp cái nhìn sâu sắc về nghề truyền thống và văn hóa làng nghề.

Đóng góp của đề tài

Tác giả mong muốn đóng góp vào sự phát triển của làng nghề chế biến nước mắm Phú Lợi (Quỳnh Dị) thông qua hoạt động du lịch, nhằm tạo việc làm ổn định và nâng cao thu nhập cho người dân Đồng thời, việc phát triển làng nghề thủ công truyền thống gắn với du lịch sẽ tạo ra loại hình du lịch mới cho Quỳnh Lưu, được gọi là “Du lịch làng nghề truyền thống” Điều này không chỉ giúp đa dạng hóa loại hình du lịch mà còn bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của làng nghề.

NỘI DUNG

TRUYỀN THỐNG 1.1 Tổng quan về huyện Quỳnh Lưu

1.1.1 Vị trí địa lí và tài nguyên thiên nhiên của huyện Quỳnh Lưu

Quỳnh Lưu, huyện nằm ở phía bắc tỉnh Nghệ An, có diện tích tự nhiên 60.706 ha và dân số khoảng 360.000 người (tính đến năm 2007) Huyện có địa hình đa dạng với đồng bằng, rừng núi và biển, tọa lạc tại các tọa độ địa lý: cực Bắc 19º22’12”, cực Nam 19º0’15”, cực Tây 106º5’15”, và cực Đông 105º47’50” Quỳnh Lưu có đường biên giới dài 122 km, trong đó 88 km là biên giới đất liền và 34 km là đường biển Từ thị trấn Cầu Giát, huyện lị của Quỳnh Lưu, đến thành phố Vinh, tỉnh lỵ Nghệ An, khoảng cách là 60 km Huyện giáp với huyện Tĩnh Gia (Thanh Hóa) ở phía bắc, huyện Diễn Châu và huyện Yên Thành ở phía nam và tây nam, và huyện Nghĩa Đàn ở phía tây, với các ranh giới tự nhiên như khe nước lạnh và dãy núi Phía đông, Quỳnh Lưu tiếp giáp với biển Đông.

Quỳnh Lưu, mặc dù không được ưu đãi về đất đai, nhưng lại sở hữu vẻ đẹp thiên nhiên tuyệt vời với nhiều ngọn núi hùng vĩ như Núi Trụ Hải, Núi Bào Đột và Núi Tùng Lĩnh Ngoài ra, khu vực này còn có nhiều sông và cửa biển, tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông đường thủy phát triển, với những con sông nổi bật như Sông Thai và Sông Hoàng Mai.

Tổng quan về huyện Quỳnh Lưu

1.1.1 Vị trí địa lí và tài nguyên thiên nhiên của huyện Quỳnh Lưu

Quỳnh Lưu, nằm ở phía bắc tỉnh Nghệ An, là một huyện đồng bằng có diện tích 60.706 ha và dân số khoảng 360.000 người (năm 2007) Huyện có tọa độ địa lý với cực Bắc tại 19º22’12” vĩ độ bắc và cực Nam tại 19º0’15” vĩ độ bắc Quỳnh Lưu có đường biên giới dài 122 km, bao gồm 88 km đường biên giới đất liền và 34 km đường biển Từ Thị trấn Cầu Giát, huyện lị, đến Thành phố Vinh, tỉnh lỵ, khoảng cách là 60 km Huyện giáp với huyện Tĩnh Gia (Thanh Hóa) ở phía bắc, huyện Diễn Châu và huyện Yên Thành ở phía nam và tây nam, và huyện Nghĩa Đàn ở phía tây Phía đông, Quỳnh Lưu tiếp giáp với biển Đông.

Quỳnh Lưu, mặc dù không được ưu đãi về đất đai, nhưng lại sở hữu vẻ đẹp thiên nhiên tuyệt vời với nhiều ngọn núi hùng vĩ như Núi Trụ Hải, Núi Bào Đột và Núi Tùng Lĩnh Ngoài ra, khu vực này còn có nhiều sông và cửa biển, tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông đường thủy phát triển, với những con sông nổi bật như Sông Thai và Sông Hoàng Mai.

Khí hậu Quỳnh Lưu được chia thành hai mùa rõ rệt: mùa nóng từ tháng 5 đến tháng 10 với nhiệt độ trung bình khoảng 30ºC, có khi lên tới 40ºC, và mùa lạnh từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, thường có gió mùa Đông Bắc và ít mưa Với điều kiện địa lý không thuận lợi như các huyện khác trong tỉnh, Quỳnh Lưu gặp nhiều khó khăn trong việc phát triển các làng nghề thủ công truyền thống.

Vùng ven biển bao gồm các xã từ Quỳnh Lộc đến Quỳnh Thọ gồm có

Quỳnh Lưu có 13 xã, chủ yếu nằm giữa kênh Dâu và biển Đông, trong đó những xã gần kênh và mép nước được gọi là vùng Bãi Ngang Vùng ven biển này hình thành từ cát, đất bồn, vỏ nhuyễn thể và trầm tích biển, dẫn đến độ màu mỡ hạn chế Mặc dù diện tích nhỏ, địa hình nơi đây khá phức tạp, với độ cao trung bình từ tây xuống đông là 4m, có nơi lên đến 6m so với mặt nước biển Đất cát và độ chênh này khiến đồng ruộng dễ bị xói mòn, gây khó khăn trong canh tác và cải tạo đất, trong khi thành phần dinh dưỡng như đạm, lân, kali đều kém và lượng mùn nghèo.

Vùng đồng bằng Quỳnh Lưu bao gồm 18 xã, từ Mai Hùng đến Quỳnh Diễn, nổi bật với đất đai phẳng và màu mỡ nhờ sự bồi tụ của trầm tích biển và cải tạo của con người Đây là vựa thóc lớn của huyện, nơi người dân trồng lúa, ngô, khoai, đậu, lạc và vừng Sự xuất hiện của nước sông Nông Giang từ Đô Lương và các đập kênh tưới tiêu đã nâng cao năng suất cây trồng đáng kể, làm cho vùng này trở thành trung tâm kinh tế, văn hóa và chính trị của huyện Quỳnh Lưu.

Vùng đồi núi tại huyện Quỳnh Lưu không chỉ bao gồm các xã phía tây mà còn một số xã phía bắc, tạo điều kiện thuận lợi cho việc trồng các loại cây công nghiệp như chè và mía Ngoài ra, vùng đất này cũng thích hợp cho việc trồng các cây có hạt như trẩu và sở Mặc dù địa hình bị chia cắt mạnh, nhưng vùng này vẫn có tiềm năng mở rộng diện tích canh tác, phát triển chăn nuôi, điều hòa dân số và nâng cao sự phát triển nông nghiệp.

Quỳnh Lưu sở hữu đặc điểm tự nhiên đa dạng, tạo nên nền kinh tế phong phú, phù hợp với cư dân phương Đông Nông nghiệp trồng lúa nước vẫn giữ vai trò chủ đạo, nhưng các làng nghề thủ công nghiệp cũng ngày càng phát triển, góp phần tăng thu nhập và cải thiện chất lượng cuộc sống cho người dân Chính vì vậy, các làng nghề truyền thống ở Quỳnh Lưu luôn được chính quyền quan tâm, bảo tồn và phát huy qua các thế hệ.

Quỳnh Lưu là một vùng đất cổ có cư dân sinh sống từ rất lâu đời, được chứng minh qua di chỉ văn hóa Quỳnh Văn Ngoài Quỳnh Văn, còn có các di chỉ cồn sò điệp tại các xã như Quỳnh Hoa, Quỳnh Hậu, Quỳnh Xuân, Quỳnh Lương và Mai Hùng Niên đại văn hóa Quỳnh Văn được xác định ít nhất từ thời kỳ đồ đá, khoảng 6000 năm trước Cư dân nguyên thủy ở Quỳnh Lưu sống thành từng bộ lạc trong vùng lõm, đầm lầy ven biển, và thông qua lao động, họ đã "khai thiên phá thạch", tạo nên một kỳ tích hình thành vùng đất và cộng đồng dân cư từ thời xa xưa.

Tên Quỳnh Lưu xuất hiện vào thế kỉ XV, dưới triều đại nhà Lê (1430), bao gồm khu vực từ biển Đông đến Quỳ Châu, với 7 tổng ở phía trên (thuộc huyện Nghĩa Đàn hiện nay) và 4 tổng ở phía dưới (thuộc huyện Quỳnh Lưu ngày nay).

Thời kỳ nhà Lý, Diễn Châu được xác định là một châu, sau đó chuyển thành lộ và cuối cùng là phủ, trở thành đơn vị hành chính trung ương từ năm 1010 đến 1225, trong đó Quỳnh Lưu thuộc về Diễn Châu Đến thời nhà Trần, khu vực Hoan Châu và Diễn Châu được đổi tên thành trại, rồi lộ, phủ; đến năm 1397, Diễn Châu được gọi là trấn với tên mới là Vọng Giang.

Thời nhà Hồ, trấn Vọng Giang được đổi thành phủ Linh Nguyên, bao gồm các vùng đất Diễn Châu, Yên Thành, Quỳnh Lưu và Nghĩa Đàn ngày nay Đến thời Lê, Diễn Châu chỉ còn là một phủ thuộc Nghệ An, với hai huyện chính là Đông Thành và Quỳnh Lưu.

“Quỳnh Lưu” lần đầu tiên xuất hiện dưới thời nhà Lê với niên đại được xác định là năm 1430.

Từ năm 1831, dưới triều đại nhà Nguyễn, huyện Quỳnh Lưu thuộc tỉnh Nghệ An được thành lập, ban đầu là một đơn vị hành chính trong phủ Diễn Châu với 11 tổng Đến năm 1840, 7 tổng ở vùng trên được tách ra thành huyện Nghĩa Đàn, trong khi 4 tổng còn lại (Quỳnh Lâm, Hoàng Mai, Hoàn Hậu, Thanh Viên) hình thành huyện Quỳnh Lưu như hiện nay Năm 1919, trong thời kỳ thực dân Pháp đô hộ, chính quyền thực dân đã bỏ cấp phủ, khiến Quỳnh Lưu trở thành đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Nghệ An.

Sau khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập vào ngày 2 tháng 9 năm 1945, địa giới huyện Quỳnh Lưu không có nhiều thay đổi Tuy nhiên, một số làng từ huyện Diễn Châu và huyện Yên Thành đã được sáp nhập vào huyện Quỳnh Lưu Kể từ đó, một số tên xã trong huyện cũng đã được thay đổi để phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội.

Lưu có thể còn thay đổi theo hướng lập ra những đơn vị mới trên cơ sở tách ra từ những đơn vị cũ.

Trước khi chia tách, huyện Quỳnh Lưu có 43 đơn vị hành chính gồm 2 thị trấn: Cầu Giát (huyện lị), Hoàng Mai và 41 xã.

Vào ngày 3/4/2013, thị trấn Hoàng Mai cùng với 9 xã: Mai Hùng, Quỳnh Vinh, Quỳnh Lộc, Quỳnh Lập, Quỳnh Dị, Quỳnh Phương, Quỳnh Liên, Quỳnh Xuân và Quỳnh Trang đã được tách ra để thành lập thị xã Hoàng Mai.

Cách đây 5 – 6 nghìn năm, cư dân đã sinh sống trên đất Quỳnh Lưu, hình thành nên nền văn hóa độc đáo được gọi là “Văn hóa Quỳnh Văn” Họ cư trú trên các đồi điệp, để lại dấu ấn văn hóa quan trọng cho các nhà khảo cổ học và sử học nghiên cứu.

Giới thiệu khái quát về làng nghề thủ công truyền thống ở huyện Quỳnh Lưu

Nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra thu nhập cho người dân địa phương, với các sản phẩm chủ yếu phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày.

Tùy thuộc vào đặc điểm địa hình và nguồn nước, cư dân đã phát triển các phương thức canh tác phù hợp Ở vùng trung du, người dân trồng cây công nghiệp lâu năm và cây ăn quả, trong khi ở đồng bằng, họ chủ yếu trồng lúa và cây công nghiệp ngắn ngày như lạc, ngô, rau màu Đối với cư dân miền biển, khai thác và chế biến hải sản là hoạt động chính.

Truyền thống lao động và sản xuất tại Quỳnh Lưu đã đóng góp quan trọng vào việc hình thành tính cách và phẩm chất của người dân nơi đây, đồng thời ảnh hưởng tích cực đến nhân dân cả nước.

Hiện nay, nhờ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương, truyền thống lao động và sản xuất của cư dân Quỳnh Lưu ngày càng được phát huy, góp phần xây dựng nền kinh tế huyện vững mạnh và thúc đẩy sự phát triển của đất nước.

1.2 Giới thiệu khái quát về làng nghề thủ công truyền thống ở huyệnQuỳnh Lưu

1.2.1 Quan niệm về làng nghề, làng nghề thủ công truyền thống

- Quan niệm về làng nghề

Cho tới nay, việc đưa ra khái niệm làng nghề chưa có sự thống nhất Có một số quan niệm về làng nghề như sau:

Làng nghề là một mô hình kinh tế - xã hội đặc trưng ở nông thôn, bao gồm hai yếu tố chính là làng và nghề, diễn ra trong một không gian địa lý cụ thể Tại đây, nhiều hộ gia đình chủ yếu sống bằng nghề thủ công, tạo nên mối liên kết chặt chẽ về kinh tế và xã hội giữa các thành viên trong cộng đồng.

Làng nghề là một cộng đồng cư dân trong một thôn, nơi có một hoặc nhiều nghề tách biệt khỏi nông nghiệp, hoạt động sản xuất và kinh doanh độc lập Những nghề này chiếm ưu thế về số hộ gia đình, số lượng lao động và tỷ trọng so với nghề nông.

Tiêu chí nhận biết làng nghề chủ yếu dựa vào tỷ lệ lao động tham gia vào nghề và tỷ trọng thu nhập từ ngành thủ công trong tổng thể kinh tế Tuy nhiên, các định mức cụ thể cho những tiêu chí này vẫn chưa được thống nhất.

Theo thông tư 116/2006 TT – BNN của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, tiêu chí để xác định làng nghề như sau:

Để được công nhận làng nghề, cần đáp ứng ba tiêu chí quan trọng: Thứ nhất, ít nhất 30% hộ dân trong khu vực phải tham gia vào các hoạt động nghề nông Thứ hai, hoạt động sản xuất kinh doanh phải duy trì ổn định trong ít nhất hai năm trước thời điểm đề nghị công nhận Cuối cùng, làng nghề phải tuân thủ nghiêm túc các chính sách pháp luật và quy định của Nhà nước.

- Quan niệm về nghề thủ công truyền thống

Theo Bùi Văn Vượng, để một nghề thủ công truyền thống phát triển bền vững, cần hội tụ những yếu tố sau: có lịch sử hình thành và phát triển lâu dài, sản xuất tập trung tại các làng nghề hoặc phố nghề, sở hữu nhiều thế hệ nghệ nhân tài hoa cùng đội ngũ thợ lành nghề, kỹ thuật và công nghệ ổn định, và sử dụng nguyên liệu chủ yếu từ địa phương hoặc trong nước.

Sản phẩm đặc trưng của Việt Nam không chỉ có giá trị và chất lượng cao mà còn mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Những sản phẩm này không chỉ là hàng hóa thông thường mà còn là tác phẩm nghệ thuật, mỹ thuật, góp phần tạo nên di sản văn hóa phong phú của đất nước.

Là nghề nghiệp nuôi sống của một bộ phận dân cư của cộng đồng, có đóng góp đáng kể vào ngân sách Nhà nước.

- Quan niệm về làng nghề thủ công truyền thống

Theo Bùi Văn Vượng, làng nghề thủ công truyền thống là trung tâm sản xuất hàng thủ công, nơi tập trung các nghệ nhân và hộ gia đình có nghề truyền thống lâu đời Các thành viên trong làng nghề thường liên kết hỗ trợ nhau trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm theo mô hình phường hội hoặc doanh nghiệp vừa và nhỏ Họ cùng tuân thủ các quy định xã hội và gia tộc, đồng thời hợp tác về nghề, kinh tế, kỹ thuật và đào tạo thợ trẻ trong suốt quá trình hình thành và phát triển của làng nghề tại địa phương.

Theo Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn:

Làng nghề truyền thống phải đáp ứng tiêu chí cụ thể, bao gồm ít nhất một nghề đã tồn tại từ 50 năm trở lên, sản xuất sản phẩm mang bản sắc văn hóa dân tộc, và gắn liền với tên tuổi của nghệ nhân hoặc làng nghề Những làng chưa đủ tiêu chuẩn nhưng có ít nhất một nghề truyền thống được công nhận vẫn được công nhận là làng nghề truyền thống Hiện nay, Việt Nam có gần 2000 làng nghề, tập trung chủ yếu ở Đồng bằng sông Hồng, trong đó chỉ khoảng 15% là làng nghề truyền thống.

1.2.2 Đặc điểm của làng nghề thủ công truyền thống

1.2.2.1 Lịch sử hình thành và phát triển

Các làng nghề thủ công truyền thống đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử dân tộc Việt Nam, đặc biệt là tại Quỳnh Lưu Nhiều làng nghề này được hình thành từ xa xưa, được truyền lại qua các thế hệ và thường được gọi là làng nghề thủ công truyền thống Sự phát triển của nền văn minh nông nghiệp từ hàng ngàn năm trước đã dẫn đến sự ra đời của nhiều nghề thủ công tại các vùng nông thôn, bắt nguồn từ những công việc mà cư dân thực hiện trong thời gian nông nhàn, ngoài mùa vụ chính.

Kinh tế của người Việt Cổ chủ yếu dựa vào nghề trồng lúa nước, nhưng công việc này không phải lúc nào cũng có sẵn Người nông dân thường chỉ bận rộn vào đầu và cuối vụ với các công việc như cày bừa, cấy, làm cỏ và gặt lúa Trong những ngày còn lại, họ có ít việc để làm và thường có thời gian nhàn rỗi.

Nhiều người đã bắt đầu tìm kiếm công việc phụ với mục đích cải thiện bữa ăn và đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày, sau đó là tăng thêm thu nhập cho gia đình.

Giới thiệu về làng chế biến nước mắm truyền thống Phú Lợi (Quỳnh Dị - Quỳnh Lưu – Nghệ An)

Quỳnh Dị là một xã ven biển thuộc huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, với diện tích tự nhiên 6,3 km² và dân số khoảng 6.697 người vào năm 2013 Xã nằm ở phía bắc huyện, giáp với Quỳnh Thiện ở phía tây, Quỳnh Lộc ở phía bắc, Quỳnh Phương ở phía đông và Mai Hùng ở phía nam Quỳnh Dị có tọa độ địa lý 19º 14’ 43” B và 105º 43’ 29” Đ, tạo nên vị trí thuận lợi cho sự phát triển kinh tế và du lịch.

Xã Quỳnh Dị được thành lập năm 1981theo quyết định 76/ 1981/ QĐ -

NV Ngày 3/4/2013 được nâng lên thành phường thuộc thị xã Hoàng Mai theo nghị quyết 47 /2013NQ - CP của Chính Phủ.

Giao thông tại xã Quỳnh Dị rất thuận lợi với vị trí chỉ cách quốc lộ 1A 500m và đường ĐT537 chạy xuyên suốt Sông Hoàng Mai bao quanh xã cùng với gần biển tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông đường thủy Người dân Quỳnh Dị nổi bật với sự thông minh, cần cù, chịu khó trong công việc, và luôn ân cần, thân thiện, hiếu khách trong giao tiếp.

Kinh tế bao gồm nhiều lĩnh vực như khai thác và chế biến thủy hải sản, trồng trọt, cùng với các ngành dịch vụ khác Một trong những điểm nổi bật là làng nghề Phú Lợi, nổi tiếng với hoạt động chế biến thủy hải sản.

Làng chế biến nước mắm Phú Lợi, với lịch sử lâu đời và sự phát triển thăng trầm, đã được công nhận là "Làng nghề tiểu thủ công chế biến hải sản" vào năm 2005 nhờ nỗ lực của chính quyền và người dân địa phương Hai xóm Phú Lợi 1 và Phú Lợi 2 thuộc huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, đã góp phần quan trọng trong việc gìn giữ và phát triển nghề truyền thống này.

Hiện tại, làng nghề thu hút hơn 600 lao động tham gia sản xuất, góp phần quan trọng trong việc tạo ra công ăn việc làm, tăng thu nhập và cải thiện chất lượng cuộc sống cho người dân địa phương.

Một số giá trị của làng nghề đối với sự phát triển du lịch

Trong thời kỳ chiến tranh, làng Phú Lợi gặp nhiều khó khăn do chiến tranh tàn phá cơ sở vật chất và không có điều kiện phát triển nghề làm nước mắm Tuy nhiên, vào năm 2005, hai xóm Phú Lợi được công nhận là làng nghề tiểu thủ công truyền thống, đánh dấu bước ngoặt quan trọng cho nghề nước mắm tại đây Sự công nhận này đã giúp cải thiện đời sống người dân, giảm tình trạng lao động dư thừa và tăng thu nhập Nhiều hộ gia đình như ông Nguyễn Văn Kề và bà Trần Thị Ơng thu mua hơn 50 tấn chượp và tiêu thụ 100 lít nước mắm mỗi ngày, với vốn đầu tư lên tới 300 triệu đồng Hộ bà Trần Thị Chính cũng thu mua 400-500 tấn cá hàng năm, bán ra thị trường từ 9.000-10.000 lít nước mắm loại 1, tạo việc làm cho 30-40 lao động với mức thu nhập trung bình 900.000 đồng/người/tháng.

Hầu hết các hộ dân ở đây có truyền thống làm nước mắm lâu đời, trong đó nổi bật là gia đình anh Cương – chị Ngần với 4 thế hệ làm nghề Mỗi năm, gia đình ướp khoảng 30 tấn cá tươi, sản xuất được từ 7000 đến 9000 lít nước mắm, được nhiều người ưa chuộng Vào ngày 20 tháng 2 năm 2006, sản phẩm nước mắm của cơ sở Cương Ngần đã tham gia trưng bày tại sự kiện giới thiệu sản phẩm doanh nghiệp nữ tỉnh Nghệ An và nhận được đánh giá chất lượng rất cao.

Nhờ vào việc khai thác và chế biến hải sản, đặc biệt là sản xuất nước mắm, đời sống của người dân làng Phú Lợi và xã Quỳnh Dị đã trở nên ổn định và phát triển Hiện nay, làng có hàng chục xe vận tải, hai cơ sở đại lý xăng dầu, bốn cơ sở sản xuất đá lạnh, và 100% hộ gia đình đều sở hữu nhà ngói, trong đó nhiều hộ đã xây dựng nhà cao tầng với đầy đủ tiện nghi Làng Phú Lợi giờ đây không còn thiếu thốn như trước mà đã trở nên nhộn nhịp, sôi động như một thành phố.

Nghề chế biến nước mắm không chỉ làm thay đổi đời sống của nhân dân làng Phú Lợi mà còn góp phần ổn định và cải thiện đời sống của toàn xã.

Có được những thành tựu đó một phần là nhờ khai thác và chế biến hải sản ở làng Phú Lợi mà mũi nhọn là nghề làm nước mắm.

Nghề làm nước mắm đã mang lại sự ổn định và thành tựu lớn cho đời sống người dân làng Phú Lợi, nhưng vẫn còn nhiều thách thức cản trở sự phát triển của ngành này Đất đai chật hẹp khiến cư dân không thể mở rộng quy mô sản xuất, trong khi chế biến tại hộ gia đình gây khó khăn trong xử lý chất thải, dẫn đến ô nhiễm môi trường Hơn nữa, việc nâng cao dây chuyền thiết bị sản xuất cũng gặp nhiều khó khăn.

Ngư dân chủ yếu sử dụng tàu thuyền công suất thấp, vì vậy họ chỉ có khả năng đánh bắt gần bờ và vùng lộng Điều này dẫn đến hiệu quả đánh bắt không cao và không đủ nguyên liệu để mở rộng quy mô sản xuất nước mắm tại các hộ gia đình.

Trong những năm gần đây, ngư dân làng Phú Lợi đã nhận được sự hỗ trợ từ các ngành, các cấp, giúp họ vay vốn phát triển kinh tế Tuy nhiên, vấn đề thiếu vốn vẫn là thách thức lớn, khiến ngư dân gặp khó khăn trong việc chuyển đổi sản xuất, mở rộng quy mô và nâng cấp phương tiện đánh bắt cũng như chế biến nước mắm.

Gần đây, các cơn bão thường xuyên tấn công vùng biển Việt Nam, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động khai thác và đánh bắt hải sản, cũng như đe dọa tính mạng con người Trong bối cảnh đó, nguồn tài nguyên biển ngày càng cạn kiệt.

Nghề chế biến nước mắm tại địa phương vẫn phát triển chậm, với nhiều hộ gia đình chưa dám đầu tư, dẫn đến sự phát triển chưa tương xứng với tiềm năng của làng Mặc dù người dân có truyền thống làm nước mắm, nhưng sản xuất vẫn chủ yếu dựa vào phương pháp thủ công lạc hậu, ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm.

Làng chưa có một đội ngũ có trình độ khoa học để hướng dẫn cho người dân.

Cơ chế thị trường đã thúc đẩy sự phát triển của nghề làm nước mắm tại Phú Lợi, với nhiều hộ gia đình tự gián nhãn hiệu để quảng bá chất lượng sản phẩm Tuy nhiên, sản phẩm nước mắm ở đây vẫn thiếu thương hiệu, gây khó khăn trong việc cạnh tranh trên thị trường Để xây dựng thương hiệu cho nước mắm Phú Lợi, cần có sự nỗ lực từ chính quyền các cấp và toàn thể cộng đồng dân cư.

Các cấp chính quyền và làng nghề Phú Lợi đã triển khai nhiều biện pháp nhằm duy trì và phát triển nghề sản xuất nước mắm.

Làng Phú Lợi, với vị trí và điều kiện tự nhiên thuận lợi, sở hữu tiềm năng lớn để phát triển nghề làm nước mắm Tuy nhiên, nghề này vẫn gặp nhiều khó khăn và hạn chế Để duy trì và phát triển nghề làm nước mắm truyền thống, cần thực hiện các biện pháp như: rà soát và quản lý các phương tiện khai thác hải sản theo quy định, bố trí hợp lý các thiết bị trên từng phương tiện, nâng cấp tàu cũ, đầu tư đóng mới tàu có công suất lớn, trang bị đầy đủ thiết bị khai thác và đảm bảo an toàn Những nỗ lực này sẽ giúp ngư dân làng Phú Lợi mở rộng quy mô chế biến nước mắm và nâng cao giá trị sản phẩm.

Bố trí cơ cấu nghề hợp lí để khai thác hiệu quả cả 3 ngư trường: Vùng khơi, vùng lộng và vùng gần bờ.

Gắn kết khai thác với chế biến sản phẩm sau khai thác là cách nâng cao giá trị sản phẩm Cần kết hợp hài hòa giữa chủ tàu và các hộ sản xuất nước mắm trong từng khâu sản xuất nguyên liệu, chế biến và dịch vụ tiêu thụ sản phẩm.

Tổ chức đội tàu khai thác dựa trên quan hệ dòng họ và gia đình, cùng với sự hỗ trợ từ chính quyền địa phương, nhằm nâng cao hiệu quả khai thác và hỗ trợ lẫn nhau khi gặp khó khăn trên biển.

Cần bổ sung nguồn lao động có kỹ thuật và trình độ bằng cách cử họ đi học hỏi kinh nghiệm từ nơi khác, đồng thời tạo điều kiện để tiếp cận công nghệ hiện đại.

Gấp rút xây dựng các cơ sở chế biến và hoàn thiện kết cấu hạ tầng để phục vụ cho nghề làm nước mắm.

Cần có sự hỗ trợ về vốn, để mở rộng quy mô sản xuất, giải quyết việc làm cho nhân dân trong làng và trong xã nói chung.

Thực trạng phát triển du lịch tại làng nghề thủ công truyền thống chế biến nước mắm Phú Lợi

2.2.1 Đặc điểm mẫu khảo sát Để đánh giá một cách chân thực, đầy đủ và khách quan, đề tài đã tiến hành khảo sát dựa trên bảng hỏi và một số bản phỏng vấn sâu đối với các đối tượng như sau: Đặc điểm của đối tượng điều tra theo bảng hỏi: Độ tuổi: từ 28 đến 65 tuổi

Giới tính: Cả nam và nữ

Nghề nghiệp: Chủ yếu là ngư dân

Nơi cư trú của các cá nhân tham gia phỏng vấn sâu là Khối Phú Lợi 1 và Khối Phú Lợi 2 Để thực hiện khảo sát, đề tài đã tiến hành phỏng vấn sâu một số cá nhân có liên quan nhằm thu thập thông tin chi tiết.

1) Họ tên: Bác Trần Tân Mân, 60 tuổi

Chức vụ: Nguyên là chủ nhiệm Hợp Tác Xã làng nghề

Nơi cư trú: Khối Phú Lợi 2

2) Họ tên: Bác Trần Văn Lê, 58 tuổi

Chức vụ: Khối trưởng Khối Phú Lợi 2

Nơi cư trú: Khối Phú Lợi 2

3) Họ tên: Bác Nguyễn Đức Xân, 55 tuổi

Chức vụ: Hội trưởng Hội làng nghề

Nơi cư trú: Khối Phú Lợi 1

4) Họ tên: Cụ Lê Quang Đại, 80 tuổi

Nơi cư trú: Khối Phú Lợi 1

Phú Lợi là một làng gồm hai xóm, Phú Lợi 1 và Phú Lợi 2, nằm bên bờ sông Hoàng Mai, nơi có điều kiện tự nhiên khó khăn Tuy nhiên, từ thời Bắc thuộc khoảng 200 năm trước, người dân đã phát triển nghề làm nước mắm, trở thành nguồn thu nhập chính cho cuộc sống của họ.

Làng nghề chế biến nước mắm Quỳnh Dị có bề dày lịch sử lâu đời, được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác Ông Trần Văn Lê, khối trưởng khối Phú Lợi 2, cho biết ông là thế hệ thứ ba tiếp nối nghề nghiệp gia truyền của gia đình trong lĩnh vực này.

Làng Phú Lợi, trước kia chỉ là một gò đất trống ven biển, đã trở thành nơi định cư của người dân từ Diễn Châu, Nghi Lộc và Thanh Hóa, sống chủ yếu bằng nghề đánh bắt hải sản gần bờ với phương tiện thô sơ Vùng đất này được thiên nhiên ưu ái với nguồn hải sản phong phú và đa dạng, đặc biệt là cá cơm, loại cá lý tưởng cho việc chế biến nước mắm Ngành đánh bắt hải sản sớm trở thành nghề chính của người dân, họ gắn bó với biển cả và sử dụng những phương tiện đơn giản Ban đầu, hải sản chỉ đủ cung cấp cho gia đình, nhưng dần dần, sản lượng tăng lên, dẫn đến việc phơi khô và muối hải sản để bảo quản và tiêu thụ trong cộng đồng.

Ban đầu, chỉ có một vài gia đình làm nước mắm với số lượng nhỏ, nhưng cuộc sống của họ trên sông, biển vẫn rất khó khăn Trong khi hải sản đánh bắt dư thừa nhưng không tiêu thụ hết, nhiều người dân trong làng đã tìm đến các nghề ven biển để học cách làm nước mắm Cụ Hoàng Đức Phơn là người tiên phong ra Cát Hải - Hải Phòng để học nghề này, sau đó đã truyền lại cho con cháu và nhiều hộ gia đình trong làng, giúp cải thiện cuộc sống của họ.

Biển khơi đã mang đến cho người dân Phú Lợi nguồn hải sản phong phú, nhưng cũng phải đối mặt với gió tây nam khắc nghiệt Tuy nhiên, họ đã vượt qua khó khăn và tận dụng điều kiện tự nhiên để phát triển nghề làm nước mắm Chính sự khắc nghiệt đó đã rèn luyện cho họ tính cứng cỏi, góp phần quan trọng làm cho nước mắm nơi đây có hương vị thơm ngon, thậm chí vượt trội hơn so với những nơi khác mà họ từng học hỏi.

Lịch sử có những bước thăng trầm và nghề làm nước mắm ở làng Phú Lợi cũng có nững bước thăng trầm nhất định:

Thời kì kháng chiến chống Pháp

Làng Phú Lợi, tọa lạc ven sông Hoàng Mai, là nơi hội tụ của người dân từ khắp nơi, chủ yếu sống dựa vào đánh bắt hải sản gần bờ Cuộc sống gắn liền với sông, biển đã hình thành nên những "dân vạn chài" Để tận dụng hải sản dư thừa, người dân bắt đầu làm nước mắm, tuy nhiên, vào thời kỳ này, nước mắm chủ yếu phục vụ cho gia đình và chưa trở thành nghề chính Đây có thể coi là giai đoạn khởi đầu cho nghề làm nước mắm tại làng Phú Lợi.

Người dân làng Phú Lợi sống trên mảnh đất hẹp, chủ yếu phụ thuộc vào nghề đánh bắt hải sản ven bờ Ngành sản xuất nước mắm bắt đầu hình thành từ thời Pháp thuộc và phát triển mạnh mẽ khi nhiều ngư dân trong làng đi học nghề ở các vùng ven biển như Cát Hải – Hải Phòng Đến thời điểm hiện tại, nghề làm nước mắm không chỉ phục vụ nhu cầu gia đình mà còn được trao đổi, buôn bán trong cộng đồng, giúp các hộ gia đình xây dựng và cải thiện cơ sở vật chất.

Sau khi cuộc cách mạng tháng Tám giành thắng lợi, Pháp đã quay trở lại xâm lược Việt Nam, gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho cơ sở vật chất của ngư dân Phú Lợi Chiến tranh đã khiến lực lượng đánh bắt hải sản chủ yếu là thanh niên ra chiến trường, dẫn đến tình trạng thiếu hụt nguyên liệu hải sản để sản xuất nước mắm Điều này đã cản trở sự phát triển và mở rộng nghề làm nước mắm tại địa phương.

Thời kì kháng chiến chống Mỹ

Vào ngày 10/10/1954, quân Pháp rút khỏi Miền Bắc, đánh dấu thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp Tuy nhiên, ngay sau đó, Mỹ tiến hành xâm lược Việt Nam, thiết lập chính quyền phản động ở Miền Nam, dẫn đến sự chia cắt đất nước thành hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau.

Trong bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước ta đã xác định nhiệm vụ cho cả hai miền Miền Bắc đã hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến tới xây dựng xã hội chủ nghĩa và trở thành hậu phương vững chắc cho miền Nam Ngược lại, miền Nam vẫn chưa hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, do đó cần tiếp tục thực hiện cuộc cách mạng này để hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước.

Trong bối cảnh khôi phục kinh tế sau chiến tranh, nhân dân làng Phú Lợi cùng cả nước đã nỗ lực hàn gắn vết thương và cung cấp nguồn lực cho tiền tuyến miền Nam Nhờ đó, ngành đánh bắt và chế biến hải sản, đặc biệt là nghề làm nước mắm truyền thống, đã dần được phục hồi.

Ngày 22/10/1958, Hợp Tác Xã khai thác hải sản được thành lập tại làng Phú Lợi, đánh dấu bước ngoặt quan trọng cho sự phát triển nghề nước mắm tại đây Mô hình hợp tác này đã khuyến khích người dân cùng nhau đánh bắt và chế biến hải sản, mang lại hy vọng mới cho mỗi ngư dân trong làng.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, ngư dân Phú Lợi đã tích cực tham gia vào hoạt động đánh bắt và chế biến hải sản, dẫn đến việc Phú Lợi được công nhận là “lá cờ đầu” trong phong trào đánh cá ở Miền Bắc vào năm 1962 - 1963 Những người tiên phong trong nghề làm nước mắm như cụ Lục, cụ Hà, cụ Tấn và cụ Thường đã đóng góp quan trọng cho sự phát triển của nghề truyền thống này tại làng.

Ngày đăng: 06/09/2021, 16:47

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
[3] Bùi Văn Vượng (1998), Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam. Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam
Tác giả: Bùi Văn Vượng
Nhà XB: Nhàxuất bản Văn hóa dân tộc
Năm: 1998
[5] Đề án xây dựng làng nghề 1 + 2 xã Quỳnh Dị - Quỳnh Lưu – Nghệ An, UBND xã Quỳnh Dị, 2009 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đề án xây dựng làng nghề 1 + 2 xã Quỳnh Dị - Quỳnh Lưu – Nghệ An
[6] Đề án phát triển tiểu thủ công nghiệp và xây dựng làng nghề tỉnh Nghệ An, Hội đồng liên minh HTX và doanh nghiệp ngoài quốc doanh Nghệ An, 2000 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đề án phát triển tiểu thủ công nghiệp và xây dựng làng nghề tỉnh NghệAn
[7] Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2006, UBND xã Quỳnh Dị, 2005 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2006
[8] Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2007, UBND xã Quỳnh Dị, 2006 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2007
[9] Lưu Thị Tuyết Vân (1999), Một số vấn đề về làng nghề nước ta, Tạp chí NCLS, số 5/1999, trang 63 – 68 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vấn đề về làng nghề nước ta
Tác giả: Lưu Thị Tuyết Vân
Năm: 1999
[10] Nghề, làng nghề thủ công truyền thống Nghệ An, Sở khoa học công nghệ Nghệ An, Hội văn hóa dân gian Nghệ An, 1998.Ngoài ra còn tham khảo một số trang web Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghề, làng nghề thủ công truyền thống Nghệ An
[4] Các cuộc trao đổi với thợ làng nghề đang làm việc tại Quỳnh Dị Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 2.2. Cơ cấu nguồn thu nhập của người lao động trong làng - Phát triển du lịch ở làng nghề thủ công truyền thống chế biến nước mắm phú lợi (quỳnh dị   quỳnh lưu – nghệ an
Bảng 2.2. Cơ cấu nguồn thu nhập của người lao động trong làng (Trang 44)
Bảng 2.3. Thị trường tiờu thụ sản phẩm                                                                                                        Đvt: % - Phát triển du lịch ở làng nghề thủ công truyền thống chế biến nước mắm phú lợi (quỳnh dị   quỳnh lưu – nghệ an
Bảng 2.3. Thị trường tiờu thụ sản phẩm Đvt: % (Trang 45)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w