1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Hệ thống bảo tàng thành phố vinh với hoạt động du lich thực trạng và giải pháp

88 5 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 88
Dung lượng 810 KB

Cấu trúc

  • Vinh, 2014

  • LỜI CẢM ƠN

  • A. MỞ ĐẦU

  • 1. Lý do chọn đề tài

  • 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

  • 3. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu

  • 4. Đóng góp của đề tài

  • 5. Bố cục của đề tài

  • B. NỘI DUNG

  • Chương 1

  • KHÁI QUÁT HỆ THỐNG BẢO TÀNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ VINH

  • 1.1. Một số vấn đề lý luận

  • 1.1.1. Khái niệm bảo tàng

  • 1.1.2. Các khâu công tác của bảo tàng

  • 1.1.3. Chức năng của bảo tàng

  • 1.1.4. Bảo tàng địa phương

  • 1.1.5. Bảo tàng lưu niệm

  • 1.1.6. Bảo tàng lịch sử quân sự

  • 1.2. Hệ thống bảo tàng ở thành phố Vinh

  • 1.2.1. Bảo tàng Quân khu IV

  • 1.2.1.1. Lịch sử hình thành

  • 1.2.1.2. Vị trí và quy mô

  • 1.2.1.3. Chức năng, nhiệm vụ

  • 1.2.1.4. Cơ cấu tổ chức

  • 1.2.1.5. Nội dung trưng bày

  • 1.2.2. Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh

  • 1.2.2.1. Lịch sử hình thành

  • 1.2.2.2. Vị trí và quy mô

  • 1.2.2.3. Chức năng, nhiệm vụ

  • 1.2.2.4. Cơ cấu tổ chức

  • 1.2.2.5. Nội dung trưng bày

  • 1.2.3. Bảo tàng tổng hợp Nghệ An

  • 1.2.3.1. Lịch sử hình thành

  • 1.2.3.2. Vị trí và quy mô

  • 1.2.3.3. Cơ cấu tổ chức

  • 1.2.3.4. Chức năng, nhiệm vụ

  • 1.2.3.5. Nội dung trưng bày

  • Chương 2

  • THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH CỦA HỆ THỐNG BẢO TÀNG THÀNH PHỐ VINH

  • 2.1. Đặc điểm mấu khảo sát

  • 2.2. Đánh giá thực trạng

  • 2.3. Một số nhận xét

  • 2.3.1. Ưu điểm

  • 2.3.2. Tồn tại

  • Chương 3

  • MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TẠI HỆ THỐNG BẢO TÀNG THÀNH PHỐ VINH

  • 3.1. Bảo tàng ở thành phố Vinh trong chiến lược phát triển của Đảng và Nhà nước

  • 3.2. Phương hướng phát triển của bảo tàng ở Nghệ An trong thời gian tới

  • 3.3. Vai trò của bảo tàng trong phát triển du lịch ở Nghệ An

  • 3.4. Đề xuất một số giải pháp

  • 3.5. Xây dựng một số tour du lịch gắn với bảo tàng ở thành phố Vinh

  • C. KẾT LUẬN

  • D. TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • PHỤ LỤC

Nội dung

NỘI DUNG

Chương 3: Một số giải pháp phát triển hoạt động du lịch tại hệ thống bảo tàng thành phố Vinh

Một số vấn đề lý luận

Bảo tàng là nơi lưu giữ ký ức và văn hóa của các dân tộc, phản ánh ước mơ và hy vọng của con người Theo "Luật di sản văn hóa", mỗi quốc gia, tổ chức và cá nhân đều có những khái niệm riêng về bảo tàng, thể hiện sự quan trọng của chúng trong việc nghiên cứu và bảo tồn di sản văn hóa.

Bảo tàng là cơ sở lưu giữ và giới thiệu các bộ sưu tập liên quan đến lịch sử tự nhiên và xã hội, nhằm đáp ứng nhu cầu nghiên cứu, giáo dục, tham quan và thưởng thức văn hóa của cộng đồng.

Theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn hóa năm 2009, bảo tàng là một thiết chế văn hóa có chức năng sưu tầm, bảo quản, nghiên cứu và trưng bày di sản văn hóa, cùng với các bằng chứng vật thể về thiên nhiên và con người Mục tiêu của bảo tàng là phục vụ nhu cầu nghiên cứu, học tập, tham quan và thưởng thức văn hóa của công chúng.

Có nhiều quan điểm khác nhau về bảo tàng như vậy nhưng chúng đều khẳng đinh:

- Bảo tàng là một thiết chế văn hóa đặc thù, một cơ quan văn hóa, khoa học và giáo dục.

Bảo tàng nghiên cứu và giới thiệu các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, đồng thời thể hiện mối liên hệ với môi trường sống của con người.

Bảo tàng thực hiện nhiều hoạt động quan trọng như nghiên cứu, sưu tầm, thu thập và bảo quản các hiện vật liên quan đến lịch sử xã hội và tự nhiên Ngoài ra, bảo tàng còn có nhiệm vụ gìn giữ và trưng bày các sưu tập hiện vật, nhằm giới thiệu thông tin phong phú đến công chúng.

- Các không gian chính của bảo tàng bao gồm:

+ Không gian trưng bày trong và ngoài bảo tàng.

+ Không gian bảo quản và xử lý hiện vật.

+ Không gian dành cho các thiết bị kỹ thuật.

+ Không gian dành cho cán bộ chuyên môn và cán bộ hành chính làm việc.

1.1.2 Các khâu công tác của bảo tàng

Hoạt động của bảo tàng gồm có 6 khâu công tác nghiệp vụ, bao gồm:

1 Công tác nghiên cứu khoa học.

2 Công tác sưu tầm hiện vật bảo tàng.

3 Công tác kiểm kê hiện vật bảo tàng.

4 Công tác tổ chức kho- bảo quản hiện vật bảo tàng.

5 Công tác trưng bày hiện vật bảo tàng.

6 Công tác giáo dục tuyên truyền [2, Tr.113]

Nội dung cụ thể của các khâu hoạt động của bảo tàng như sau:

* Công tác nghiên cứu khoa học

Nghiên cứu khoa học là một hoạt động nghiệp vụ quan trọng trong các bảo tàng, ảnh hưởng đến toàn bộ quy trình từ sưu tầm, kiểm kê, bảo quản đến trưng bày và giáo dục tuyên truyền.

Công tác nghiên cứu khoa học tại bảo tàng bao gồm việc nghiên cứu và sưu tập hiện vật cũng như các di sản văn hóa, từ di sản bất động sản, môi trường đến di sản phi vật thể Bên cạnh đó, nghiên cứu còn liên quan đến các bộ môn khoa học phù hợp với loại hình, nội dung và đối tượng trưng bày của bảo tàng.

Nghiên cứu bảo tàng học là một bộ môn khoa học xã hội, nhằm đóng góp vào lý luận bảo tàng qua việc xác định khái niệm, đặc trưng và chức năng của bảo tàng, cũng như phát triển các dự án khoa học liên quan đến trưng bày, triển lãm và sưu tầm Ngoài ra, nghiên cứu xã hội học công chúng của bảo tàng và đảm bảo tính nguyên gốc của các sưu tập cũng là những vấn đề quan trọng Để thực hiện hiệu quả công tác nghiên cứu khoa học, cần có sự hợp tác chặt chẽ với các trường học, trung tâm đào tạo bảo tàng học và các cơ quan nghiên cứu di sản văn hóa.

Công tác nghiên cứu khoa học tại bảo tàng liên quan chặt chẽ đến các bộ môn khoa học phù hợp với loại hình của từng bảo tàng Tất cả các hoạt động nghiên cứu đều bắt nguồn từ việc nghiên cứu hiện vật đặc trưng cho bảo tàng đó Mục tiêu chính của nghiên cứu là nhằm đưa ra kết quả trưng bày hiệu quả.

* Công tác sưu tầm hiện vật bảo tàng

Công tác sưu tầm hiện vật là bước đầu quan trọng, tạo nền tảng vật chất cho hoạt động của bảo tàng Không có hiện vật, bảo tàng sẽ không thể tồn tại Để bảo tàng có thể trưng bày, cần phải có sưu tập hiện vật gốc, và quá trình này được thực hiện theo các phương pháp và nguyên tắc của bảo tàng học.

* Công tác kiểm kê hiện vật bảo tàng

Kiểm kê hiện vật bảo tàng là quá trình nghiên cứu, ghi chép và mô tả các hiện vật nhằm xác định giá trị và nội dung khoa học của chúng Hoạt động này không chỉ giúp lập các thủ tục pháp lý cần thiết mà còn hỗ trợ công tác nghiên cứu và giáo dục trong bảo tàng Đây là một bước quan trọng, đòi hỏi tính chính xác và rõ ràng, tạo cơ sở cho việc thuyết minh các hiện vật bảo tàng.

Công tác tổ chức kho và bảo quản hiện vật, sưu tập tại bảo tàng là nhiệm vụ quan trọng được Nhà nước giao phó Tất cả hiện vật và sưu tập tại bảo tàng đều là phần di sản văn hóa cần được bảo vệ theo pháp luật Hệ thống bảo tàng ở Việt Nam áp dụng các phương pháp bảo vệ phòng ngừa và trị liệu để bảo quản hiện vật Những biện pháp tiên tiến nhất được sử dụng nhằm kéo dài tuổi thọ cho các hiện vật quý giá này.

* Công tác trưng bày hiện vật bảo tàng

Trưng bày tại bảo tàng không chỉ tạo ra sự kết nối giữa bảo tàng và công chúng mà còn góp phần nâng cao nhận thức về các giá trị văn hóa Hoạt động trưng bày là đặc trưng nổi bật giúp phân biệt bảo tàng với các cơ quan văn hóa, khoa học và giáo dục khác Nguyên tắc cốt lõi trong trưng bày là sử dụng hiện vật gốc, nhằm bảo tồn và giới thiệu những bộ sưu tập có giá trị văn hóa và lịch sử.

Công tác trưng bày trong bảo tàng cần được thiết kế hợp lý và sáng tạo để thu hút sự chú ý của khách tham quan Đặc biệt, hệ thống bảo tàng địa phương thường gặp phải tình trạng trùng lặp trong cách trưng bày, gây ra sự nhàm chán cho du khách.

* Công tác giáo dụ c- tuyên truyền

Bảo tàng thực hiện công tác giáo dục và tuyên truyền một cách sinh động thông qua việc trưng bày hiện vật gốc và tổ chức các chương trình giáo dục Để nâng cao hiệu quả công tác này, bảo tàng cung cấp hướng dẫn tham quan, phát hành ấn phẩm và quảng bá hình ảnh của mình trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Hệ thống bảo tàng ở thành phố Vinh

Thành phố Vinh hiện có ba bảo tàng lớn: Bảo tàng quân khu 4, Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh và Bảo tàng Tổng hợp Nghệ An Những bảo tàng này không chỉ lưu giữ di sản văn hóa của dân tộc qua các thời kỳ lịch sử mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục thế hệ trẻ và khơi dậy niềm tự hào dân tộc.

1.2.1 Bảo tàng Quân khu IV

Bảo tàng quân khu 4 là một biểu tượng quan trọng trong việc giáo dục tinh thần cách mạng cho cán bộ, chiến sỹ và nhân dân Nơi đây không chỉ ghi dấu ấn của cuộc kháng chiến lâu dài mà còn thể hiện sức mạnh kiên cường của quân và dân quân khu 4, góp phần vào lịch sử vẻ vang của cả nước.

Bảo tàng Quân khu 4 được thành lập và đi vào hoạt động vào ngày 22/12/1966, xuất phát từ các hoạt động triển lãm và trưng bày hiện vật gốc liên quan đến kháng chiến chống Pháp và những năm đầu kháng chiến chống Mỹ.

Bảo tàng ra đời trong bối cảnh chiến tranh ác liệt của Mỹ, trải qua nhiều năm phải sơ tán, nhưng với tinh thần kiên cường, cán bộ và nhân viên đã bám trụ, thu thập hiện vật và tư liệu Họ không ngừng tìm tòi, học hỏi để tổ chức hàng trăm cuộc trưng bày, triển lãm đa dạng Đặc biệt, những cuộc trưng bày lưu động tại trận địa đã kịp thời cổ vũ và tuyên truyền cho các chiến sĩ trên các mặt trận.

Sau nhiều năm phát triển, bảo tàng đã tích lũy được kinh nghiệm phong phú trên mọi lĩnh vực Hiện tại, bảo tàng đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là bảo tàng hạng 2 trong hệ thống bảo tàng quốc gia Việt Nam.

Lịch sử hình thành và phát triển của bảo tàng có thể chia làm 3 giai đoạn chính sau:

1.Một số hoạt động tiền thân bảo tàng Quân khu 4 trong kháng chiến chống Pháp và những năm đầu chống Mỹ (1948- 1965).

2.Bảo tàng Quân khu 4 ra đời, xây dựng và trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1966-1975).

3.Bảo tàng Quân khu 4 trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (1976-nay).

1.2.1.2 Vị trí và quy mô

Quân khu 4 là một khu vực chiến lược quan trọng về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội, nằm ở Bắc Trung Bộ Khu vực này kéo dài từ Dốc Xây (Thanh Hóa) đến Đèo Hải Vân (Thừa Thiên-Huế), phía Tây giáp dãy Trường Sơn hùng vĩ và có biên giới chung với Lào Phía Đông tiếp giáp biển Đông, nơi có hải cảng kết nối với các quốc gia châu Á và nhiều nước trên thế giới.

Với vị trí địa chính trị và quân sự quan trọng, lịch sử đấu tranh và xây dựng của quân và dân Quân khu 4 luôn gắn liền với sự phát triển của đất nước và dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt là Đảng ủy quân khu 4 và các Đảng bộ cấp địa phương.

Trong suốt chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp, Liên khu 4, bao gồm các tỉnh Bình, Trị, Thiên, đã trở thành chiến trường chính và là vùng tự do quan trọng.

Nghệ - Tĩnh đóng vai trò là hậu phương chiến lược của cả nước, nơi quân và dân quân khu 4 đã vượt qua nhiều khó khăn để bảo vệ vững chắc địa bàn Họ đã cung cấp sức người và sức của cho các chiến trường trên cả nước và Lào, góp phần quan trọng vào chiến dịch Đông Xuân 1953-1954, dẫn đến chiến thắng lừng lẫy tại Điện Biên Phủ.

Trong kháng chiến chống Mỹ, Quân khu 4 vừa là hậu phương của miền Nam và Đông Dương, vừa là tuyến đầu của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, thực hiện bốn nhiệm vụ trên ba chiến trường Đây là một trong những chiến tuyến ác liệt nhất, nơi quân và dân Quân khu 4 đã thể hiện ý chí chiến đấu ngoan cường và mưu trí, góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước.

Trong quá trình xây dựng hòa bình và hiện đại hóa đất nước, quân và dân quân khu 4 luôn là lực lượng tiên phong, tích cực tham gia vào phát triển kinh tế - xã hội Họ không ngừng nỗ lực để xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh, góp phần bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Xuất phát từ yêu cầu và thực tiễn cách mạng, việc lưu giữ và tái hiện truyền thống lịch sử của quân và dân Quân khu 4 là cần thiết Đảng ủy - Bộ tư lệnh quân khu đã sớm nhận thức được tầm quan trọng của công tác bảo tàng, coi đây là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng và cấp thiết trong việc khôi phục và phát huy giá trị lịch sử hào hùng của đơn vị.

Bảo tàng tọa lạc tại số 189 - Lê Duẩn, thành phố Vinh, Nghệ An, đã trải qua quá trình cải tạo và xây dựng khang trang hơn để đáp ứng tốt hơn các yêu cầu nhiệm vụ mới.

Bảo tàng có tổng diện tích khoảng 2.180m2, bao gồm 6 tỉnh: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế Trong đó, diện tích trưng bày chiếm khoảng 2.000m2, trong khi phần còn lại được sử dụng cho kho bảo quản và các hoạt động văn hóa khác, tổng cộng gần 2.500m2.

Ngoài ra, bảo tàng còn tổ chức trưng bày lưu động tại các địa phương trên địa bàn 6 tỉnh từ Thanh Hóa đến Thừa Thiên Huế.

Nghiên cứu khoa học và giáo dục truyền thống về Lực lượng vũ trang quân khu 4 nói riêng và cả nước nói chung.

Nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê lưu giữ tư liệu và hiện vật liên quan đến sự ra đời, lớn mạnh của quân và dân quân khu 4

Bảo tàng không chỉ trưng bày và giới thiệu các hiện vật phục vụ khách tham quan mà còn mang đến giáo dục truyền thống cách mạng cho người dân ở nhiều vùng miền khác nhau Đồng thời, bảo tàng cũng hỗ trợ cán bộ, học sinh và sinh viên trong việc nghiên cứu và khai thác tư liệu quý giá đang được lưu giữ tại đây.

- Ban kiểm kê, bảo quản gồm:

- Ban trưng bày, tuyên truyền gồm:

Nội dung trưng bày chính của bảo tàng được thể hiện ở phần trưng bày ngoại thất và trưng bày nội thất. a Trưng bày ngoại thất

Phần trưng bày này được thực hiện trên một khuôn viên rộng 800m 2 với những hiện vật thể khối lớn và các tác phẩm nghệ thuật.

* Những hiện vật có thể khối lớn:

+ Nhóm pháo cao xạ: có 5 khẩu

- Khẩu pháo cao xạ 14 ly5 bốn nòng của đại đội 94 dân quân huyệnQuảng Xương (Thanh Hóa) anh hùng.

- Khẩu pháo cao xạ 37 ly một nòng của đại đội 3 Tiểu đoàn 14 Nguyễn

- Khẩu pháo cao xạ 57 ly của Đại đội 1 Tiểu đoàn 19 Trung đoàn 214 anh hùng.

- Khẩu pháo cao xạ 100 ly của Trung đoàn 222.

- Khẩu pháo cao xạ 37 ly hai nòng của Đại đội 2 Trung đoàn 233 anh hùng.

+ Nhóm pháo mặt đất: có 5 khẩu.

- Khẩu sung cối 160 ly của Trung đoàn 84 chiến đấu ở Quảng Trị.

- Khẩu pháo 85 ly của Đại đội 10 (Quảng Bình) anh hùng.

- Khẩu pháo 85 ly của Đại đội dân quân gái pháo binh xã Ngư Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình anh hùng.

- Khẩu pháo 105 ly của Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 164 anh hùng.

- Khẩu pháo 122 ly của Đại đội 12 Trung đoàn 166 anh hùng.

+ Nhóm bệ phóng và tên lửa SAM - 2 của Đoàn 236 đã bắn rơi chiếc máy bay B52 đầu tiên trên miền Bắc tại Quảng Bình năm 1968.

+ Nhóm máy bay: có 2 chiếc.

- Chiếc máy bay trực thăng MI - 4 nhiều lần chở Bác Hồ đi công tác, đưa Bác về thăm quân khu lần thứ nhất năm 1957.

- Chiếc máy bay MIG - 17 do đồng chí Trần Hanh lái tham gia chính trong trận chiến đấu ngày 3 - 4 tháng 4 năm 1965 trên bầu trời Hàm Rồng, Thanh Hóa.

+ Nhóm xe máy: có 2 chiếc.

- Chiếc xe Ját 69 đã chạy hàng vạn km an toàn phục vụ các đồng chí trong

Đặc điểm mấu khảo sát

Để đánh giá chính xác và khách quan về hệ thống bảo tàng thành phố Vinh, đề tài đã tiến hành khảo sát thực địa nhằm làm rõ thực trạng hoạt động và nhu cầu của công chúng Khảo sát được thực hiện với các đối tượng như học sinh, sinh viên và người dân trên địa bàn thành phố Vinh.

- Độ tuổi: từ 13 đến 45 tuổi.

- Giới tính: cả nam và nữ.

Nghề nghiệp tại thành phố Vinh bao gồm học sinh từ các trường trung học cơ sở và trung học phổ thông, sinh viên của các trường trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học, cùng với công nhân, viên chức và người dân đang sinh sống và làm việc trong khu vực này.

- Nơi cư trú: những người đang sinh sống, làm việc, học tập tại thành phố Vinh.

 Đặc điểm của mẫu phỏng vấn sâu Để tiến hành khảo sát, đề tài đã phỏng vấn sâu một số cá nhân có liên quan như sau:

- Đơn vị công tác: Bảo tàng Quân khu 4

- Nơi cư trú: Phường Trung đô - Thành phố Vinh - Nghệ An

- Chức vụ: Phó giám đốc

- Đơn vị công tác: Bảo tàng Tổng hợp Nghệ An

- Nơi cư trú: Phường Hưng Bình - Thành phố Vinh - Nghệ An

- Đơn vị công tác: Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh

- Nơi cư trú: Phường Quang Trung - Thành phố Vinh - Nghệ An

- Nghề nghiệp: Bán hàng ăn (trước cổng bảo tàng Tổng hợp Nghệ

- Nơi cư trú: Phường Cửa Nam - thành phố Vinh - Nghệ An.

 Một số kết quả khảo sát

Theo kết quả điều tra, công chúng vẫn còn hạn chế trong việc hiểu biết về bảo tàng, với hơn 70% người tham gia khảo sát chưa từng đến thăm một bảo tàng nào.

Bảo tàng ở thành phố Vinh chưa thu hút được sự quan tâm của công chúng, do thiếu chính sách quảng bá hiệu quả và liên kết với các đơn vị du lịch, doanh nghiệp Cạnh tranh với các thiết chế văn hóa khác như rạp chiếu phim và công viên càng làm giảm sức hấp dẫn của bảo tàng Trong số gần 30% người dân đã từng đến bảo tàng, bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh thu hút nhiều du khách hơn Tuy nhiên, chỉ khoảng 1/7 số du khách quay trở lại bảo tàng, cho thấy sự thiếu hấp dẫn trong các hoạt động bảo tàng Đề tài đã khảo sát ý kiến người dân về chất lượng hoạt động của bảo tàng để làm rõ vấn đề này.

Bảng 2.1: Bảng đánh giá nội dung hoạt động của các bảo tàng

Tiêu chí Tốt Bình thường Chưa tốt

2.1: Biểu đồ thể hiện cơ cấu đánh giá nội dung hoạt động của các bảo tàng

Biểu đồ cho thấy mâu thuẫn giữa cơ sở vật chất và cách trưng bày tại bảo tàng, khi hơn 50% công chúng đánh giá cơ sở vật chất tốt nhưng cách thuyết minh lại bị cho là nhàm chán và không thu hút Nhiều người cho rằng cách trưng bày quá đơn điệu, không tạo hứng thú cho du khách Dù được đầu tư nâng cấp, bảo tàng vẫn chưa thay đổi đáng kể do chậm đổi mới và tư duy lạc hậu, dẫn đến hoạt động trì trệ và thiếu dấu ấn với du khách Bảo tàng cần nắm bắt xu thế phát triển để trở thành điểm du lịch hấp dẫn trong chương trình du lịch.

Ngoài hoạt động của bảo tàng, đề tài còn tìm hiểu mục đích và nhu cầu của công chúng khi đến vói bảo tàng:

Bảng 2.2: Bảng thể hiện mục đích tham quan bảo tàng

Tiêu chí Bảng mục đích tham quan bảo tàng

2.2: Biểu đồ thể hiện cơ cấu mục đích khách tham quan

Gần 50% khách tham quan các bảo tàng tại thành phố Vinh là học sinh từ các trường trung học cơ sở và trung học phổ thông, bao gồm các trường như Lê Mao, Trung Đô, Hà Huy Tập, Phan Bội Châu và chuyên Đại học Vinh Ngoài ra, hơn 30% khách đến với mục đích tham quan, chủ yếu là các đoàn thể trong tỉnh như hội cựu chiến binh, hội phụ nữ và đoàn thanh niên.

Bảng 2.3: Nhu cầu của công chúng khi đến với bảo tàng

Tiêu chí Bảng nhu cầu của công chúng khi đến bảo tàng

Thưởng thức các món ăn dân tộc 16

2 3 Biểu đồ thể hiện nhu cầu của công chúng khi đến với bảo tàng

Trong số 71 người chưa từng đến bảo tàng, hơn 90% bày tỏ mong muốn được tham quan Điều này cho thấy nhu cầu lớn từ người dân về việc trải nghiệm các hoạt động như chụp ảnh, vui chơi, thưởng thức ẩm thực địa phương và mua sắm quà lưu niệm Tuy nhiên, hiện tại bảo tàng ở thành phố Vinh chỉ đáp ứng được nhu cầu tham quan Để thu hút công chúng, bảo tàng cần đa dạng hóa các hoạt động của mình.

Bảng 2.4: Bảng mong muốn của công chúng về vấn đề thay đổi ở bảo tàng tàng

2.4 Biểu đồ thể hiện cơ cấu mong muốn khách tham quan về vấn đề thay đổi ở bảo tàng Những mong muốn về vấn đề thay đổi ở bảo tàng cũng chính là những tồn tại, hạn chế của hệ thống bảo tàng ở thành phố Vinh Những yếu tố về cơ sở vật chất, cách trưng bày hay trong thuyết minh của bảo tàng đều có vấn đề Cũng vì nguyên nhân này mà có hơn 50% người nhân khi được hỏi có mong muốn thay đổi cả 3 vấn đề trên Những hạn chế trên các mặt là nguyên nhân khách tham quan không hài lòng khi đến bảo tàng ở thành phố Vinh và nhu cầu quay trở lại rất hạn chế Mức độ hài lòng của những du khách đã từng đến bảo tàng trên thành phố Vinh chỉ chiếm hơn 10% , tỷ lệ du khách có mong muốn quay trở lại chỉ chiếm gần 1/5 trong tổng số du khách được hỏi

Hệ thống bảo tàng thành phố Vinh có tiềm năng lớn với nhu cầu tham quan và tìm hiểu ngày càng tăng từ người dân Cơ sở vật chất đang được đầu tư và hiện đại hóa, tuy nhiên, các bảo tàng vẫn chưa phát huy hết tiềm năng và chưa thu hút được khách du lịch Cần khắc phục những hạn chế hiện tại để đáp ứng nhu cầu phát triển chung của đất nước.

Đánh giá thực trạng

Hệ thống bảo tàng ở Vinh, mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu, vẫn gặp phải một số hạn chế đáng lo ngại Bảo tàng Dân tộc học và bảo tàng phụ nữ mới thành lập đã chú trọng vào việc thu hút khách tham quan, tạo ra sự liên kết chặt chẽ giữa bảo tàng và du lịch, từ đó thoát khỏi tư duy thành lập bảo tàng truyền thống Tuy nhiên, các bảo tàng ở Nghệ An vẫn chưa phát huy hết tiềm năng của mình.

Ngành du lịch đang đối mặt với nhiều thách thức, từ khâu tổ chức đến khả năng thu hút khách tham quan, điều này thể hiện rõ qua những thực trạng hiện tại.

Bảo tàng trong tình trạng “ đóng cửa cài then ”

Trong những năm gần đây, bảo tàng ở thành phố Vinh luôn trong tình trạng “đóng cửa cài then”, khiến cho người dân không biết rằng nó vẫn hoạt động nhưng không tổ chức trưng bày Theo phản ánh của những người sống và làm việc xung quanh, cả bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh và bảo tàng Tổng hợp Nghệ An đều đã đóng cửa trong nhiều năm qua.

Bảo tàng đang trong quá trình nâng cấp và sửa chữa, nhưng cán bộ vẫn tiếp tục hoạt động bình thường.

Nguyên nhân tình trạng hạn chế trong bảo tàng Nghệ An được cho là do nguồn vốn đầu tư hạn hẹp, theo nhận định của cán bộ bảo tàng và Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Nghệ An Cụ thể, vào ngày 18/6/2010, UBND tỉnh đã ký quyết định phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình trưng bày nội ngoại thất cho Bảo tàng Tổng hợp Nghệ An.

Dự án đầu tư có tổng kinh phí 44,2 tỷ đồng và thời gian thực hiện trong 3 năm Theo kế hoạch, dự án sẽ hoàn thành vào cuối năm 2013 và sẵn sàng phục vụ khách tham quan.

Việc tổ chức lại Bảo tàng là động lực quan trọng giúp chuẩn hóa hoạt động của bảo tàng, từ đó phát huy tối đa vai trò của nó trong việc đóng góp vào sự phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội của tỉnh.

Dự án bảo tàng được phê duyệt từ năm 2010 nhưng chỉ bắt đầu nhận vốn đầu tư vào năm 2011 với tổng số tiền cấp trong ba năm chỉ đạt 11 tỷ đồng, chưa đến 1/3 tổng vốn dự án Đến tháng 4 năm 2014, công trình mới hoàn thành 1/4, khiến việc mở cửa trở lại phải chờ thêm hơn 3 năm nữa Tình trạng xuống cấp của công trình hiện tại rất nghiêm trọng, với mối ăn từ móng, tường bong tróc và hệ thống cửa kính bị bể Thêm vào đó, thiết kế mái không hợp lý dẫn đến tình trạng ngập nước khi có mưa lớn, buộc tỉnh Nghệ An phải cấp thêm 1,6 tỷ đồng để sửa chữa Điều đáng lo ngại là hiện vật lưu giữ trong bảo tàng đang gặp nguy cơ bị đe dọa.

Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh đã trải qua 18 năm không được đầu tư nâng cấp Tuy nhiên, từ tháng 6 năm 2013, bảo tàng đã được đầu tư để tu sửa cả nội và ngoại thất Dự kiến, công tác nâng cấp sẽ hoàn thành vào tháng 5 - 6 năm nay.

Vì vậy, đến nay cả 2 bảo tàng này vẫn luôn trong tình trạng đóng cửa.

Không phải đầu tư nâng cấp, tu sửa nhưng bảo tàng Quân khu 4 vẫn thường xuyên đóng cửa Bảo tàng chỉ mở cửa thường xuyên vào ngày thứ 3, thứ

Bảo tàng chỉ thu hút khách tham quan vào các ngày chủ nhật và những ngày lễ như 8/3, 30/4, 1/5, trong khi vào các ngày thường, lượng khách hầu như rất ít, chủ yếu là những người đến nghiên cứu và học tập Theo thông tin từ cán bộ bảo tàng, phòng trưng bày chỉ được mở cửa khi có đoàn khách đăng ký trước, còn vào những ngày khác, bảo tàng không hoạt động.

Lối tư duy “ bao cấp ”

Các bảo tàng tại thành phố Vinh đều thuộc sở hữu Nhà nước, theo điều 8, chương I của “Quy chế tổ chức và hoạt động của bảo tàng” được ký bởi đồng chí Nguyễn Khoa Điềm vào ngày 6/2/1998 Bộ Văn hóa Thông tin (hiện nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) có trách nhiệm quản lý Nhà nước và chỉ đạo các hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của các bảo tàng Tại Vinh, nổi bật là Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh cùng các bảo tàng khác.

Tổng hợp Nghệ An được quản lý bởi Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Nghệ An cùng với UBND tỉnh Nghệ An Riêng Bảo tàng Quân khu 4, thuộc lực lượng vũ trang và là chi nhánh của Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, còn chịu sự quản lý trực tiếp từ cấp trung ương Tất cả các bảo tàng này phải hoạt động theo quy định của hiến pháp và pháp luật.

Hệ thống bảo tàng ở Việt Nam chủ yếu thuộc sở hữu Nhà nước, đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý thống nhất trên toàn quốc Nhà nước thiết lập các quy chế và chính sách để tổ chức, thực hiện, kiểm tra và giám sát hoạt động của các bảo tàng, nhằm tạo sự nhất quán trong công tác Tuy nhiên, điều này cũng dẫn đến tình trạng "thụ động" trong hoạt động của các bảo tàng, đặc biệt là ở Nghệ An, nơi mà các bảo tàng vẫn hoạt động theo cơ chế bao cấp Dưới cơ chế này, mọi hoạt động đều chịu sự quản lý của Nhà nước thông qua Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch cùng UBND tỉnh, gây ra sự phụ thuộc và làm mất đi tính chủ động của các bảo tàng trong việc phát triển và đổi mới.

Cách nghĩ thụ động và chờ đợi khách tham quan vẫn là vấn đề lớn tại các bảo tàng ở thành phố Vinh và nhiều nơi khác trên cả nước Nguyên nhân chính là do nguồn nhân lực chưa đủ trình độ và năng lực để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội, trong bối cảnh người dân ngày càng có tri thức và có cơ hội du lịch quốc tế.

Trong cuộc trao đổi với ông Nguyễn Công Thành, giám đốc Bảo tàng Quân trường quân sự, cho thấy rằng đội ngũ cán bộ hiện tại chủ yếu là những người học chuyên ngành lịch sử và văn hóa, không có ai chuyên về du lịch Ông cũng đã chuyển từ quân đội sang lĩnh vực bảo tàng Điều này đặt ra câu hỏi về khả năng của bảo tàng trong việc theo kịp xu thế phát triển hiện đại của các bảo tàng trên thế giới trong tương lai.

Một số nhận xét

Trong bối cảnh hòa bình và hợp tác phát triển, đất nước đang trên đà đổi mới, nhu cầu du lịch của người dân ngày càng gia tăng.

Du khách hiện nay không chỉ tìm kiếm những trải nghiệm nghỉ ngơi và tham quan, mà còn mong muốn khám phá văn hóa Bảo tàng ở thành phố Vinh, Nghệ An đã được đầu tư nâng cấp và đổi mới trưng bày, trang bị thiết bị hiện đại để đáp ứng nhu cầu này.

Bảo tàng ở thành phố Vinh, bao gồm bảo tàng Quân khu 4 (1966), bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh (1960) và bảo tàng Tổng hợp Nghệ An (1979), là những bảo tàng ra đời sớm nhất ở Việt Nam Trong quá trình phát triển, các bảo tàng này đã đóng góp quan trọng vào việc gìn giữ và trưng bày di sản văn hóa, đồng thời giáo dục khoa học và truyền thống cho cộng đồng Nằm ở trung tâm tỉnh Nghệ An, vùng đất lịch sử và văn hiến, các bảo tàng này có điều kiện thuận lợi để thu hút đông đảo du khách đến tham quan, tìm hiểu và nghiên cứu.

Trong những năm gần đây, du lịch Nghệ An đã trải qua sự chuyển mình mạnh mẽ với sự đầu tư và nâng cấp hạ tầng du lịch Nhiều tuyến đường giao thông được xây dựng để kết nối các khu du lịch trọng điểm, đặc biệt là khu vực ven biển Sân bay Vinh đã được nâng cấp để tiếp nhận các máy bay lớn hơn, cùng với sự hoàn thiện và hiện đại hóa của hệ thống bưu chính viễn thông, điện, cấp và thoát nước.

Nhiều di tích lịch sử và văn hóa quan trọng đã được đầu tư xây dựng và bảo tồn, trong đó nổi bật là Dự án Bảo tồn tôn tạo Khu di tích lịch sử văn hóa Kim Liên, Khu mộ Bà Hoàng Thị Loan, Quảng trường Hồ Chí Minh và Tượng đài Bác Hồ, Đền thờ vua Quang Trung, thành cổ Vinh, và chùa Đảo Ngư Những công trình này không chỉ hoàn thành mà còn trở thành những điểm du lịch văn hóa và tâm linh hấp dẫn, thu hút du khách và nhân dân trên toàn quốc.

Hệ thống cơ sở vật chất phục vụ du lịch tại tỉnh đang phát triển mạnh mẽ về quy mô và chất lượng, góp phần thay đổi diện mạo nhiều vùng quê và đô thị Hiện tại, toàn tỉnh có 549 cơ sở lưu trú với tổng cộng 12.043 phòng và 22.487 giường, bao gồm 4 khách sạn 4 sao và 8 khách sạn 3 sao.

Tỉnh có 50 khách sạn từ 1 đến 2 sao, cùng với 26 doanh nghiệp lữ hành, bao gồm 9 đơn vị quốc tế và 17 đơn vị nội địa Sản phẩm du lịch và dịch vụ đang được đa dạng hóa và nâng cao chất lượng, tập trung vào du lịch văn hóa lịch sử kết hợp với lễ hội và tâm linh, cũng như du lịch nghỉ dưỡng Khu di tích Kim Liên và Bãi biển Cửa Lò nổi bật như những điểm đến hấp dẫn, trở thành địa chỉ quan trọng trên bản đồ du lịch Việt Nam.

Công tác tuyên truyền và quảng bá du lịch Nghệ An đã được đẩy mạnh, tổ chức nhiều hoạt động văn hóa gắn với các sự kiện chính trị lớn, giúp quảng bá hình ảnh Nghệ An đến du khách Sự hợp tác phát triển du lịch với các tỉnh trong nước và khu vực ngày càng mở rộng Đội ngũ lao động trong ngành du lịch đã phát triển cả về số lượng và chất lượng, với nhiều trường đào tạo nghề du lịch như Đại học Vinh và Cao đẳng du lịch Nghệ An Hoạt động kinh doanh du lịch tại Nghệ An đang tăng trưởng nhanh, với tổng lượng khách du lịch giai đoạn 2006 - 2010 tăng bình quân 14,4% mỗi năm và doanh thu dịch vụ du lịch tăng 23,7%/năm Năm 2011, mặc dù gặp khó khăn do lạm phát toàn cầu, du lịch Nghệ An vẫn đạt 2,95 triệu lượt khách, trong đó có hơn 98.000 khách quốc tế, với tổng doanh thu đạt 1.317 tỷ đồng, tương đương 130% so với năm 2010, trong đó doanh thu từ khách quốc tế ước đạt 17 triệu USD Ngành du lịch cũng đã tạo ra gần 13.000 việc làm trực tiếp và gián tiếp cho người dân địa phương.

Bảo tàng thành phố Vinh đã được nâng cấp và tu sửa nhờ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và tỉnh, nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của du khách.

Trong những năm qua, bảo tàng ở thành phố Vinh đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, thể hiện sự thực hiện hiệu quả đường lối và chủ trương của Đảng và Nhà nước.

 Công tác nghiên cứu khoa học

Bảo tàng ở thành phố Vinh đã hợp tác với các chuyên gia từ Viện Việt Nam học và khoa học phát triển, cùng các chuyên gia Nhật Bản và Đức, để nghiên cứu hiện vật liên quan đến giao thương Việt - Nhật và Phật giáo Đặc biệt, bảo tàng hỗ trợ đoàn tăng ni Thiền Viện Phật giáo Đà Lạt, Hồng Lĩnh trong việc nghiên cứu hiện vật Phật giáo Ngoài ra, bảo tàng cũng đã phối hợp với các đài truyền hình để sản xuất phim, chụp ảnh và nghiên cứu tư liệu hiện vật Đáng chú ý, bảo tàng đã hoàn thành việc dịch thuật tài liệu chữ Hán với 11.201 chữ, tương ứng 128 trang.

Trong những năm qua, các bảo tàng ở thành phố Vinh đã tích cực nghiên cứu khoa học và ứng dụng kết quả vào tổ chức trưng bày cũng như bảo quản hiện vật Nhiều đề tài nghiên cứu cấp cơ sở đã được hoàn thành, như "Công tác kiểm kê bảo quản của bảo tàng Quân khu: Thực trạng và giải pháp" tại bảo tàng Quân khu 4, cùng với các đề tài khoa học cấp tỉnh của bảo tàng Xô Viết.

Nghệ Tĩnh “ Đưa Xô Viết Nghệ Tĩnh vào trường học.

Từ khi thành lập, các bảo tàng đã chú trọng công tác sưu tầm hiện vật, thu được số lượng lớn tài liệu và hiện vật, cụ thể bảo tàng Quân khu 4 có 10.000 hiện vật, bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh có 15.000, và bảo tàng tổng hợp Nghệ An đạt 20.000 tài liệu, hiện vật Đặc biệt, năm 2013, công tác sưu tầm ở các bảo tàng đạt được nhiều kết quả to lớn.

Bảo tàng Quân khu 4 đã thu thập hơn 1.000 hiện vật liên quan đến kháng chiến, di vật liệt sĩ và hình ảnh, cùng với các sáng kiến kỹ thuật trong hoạt động của lực lượng vũ trang quân khu.

Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh đã tiến hành sưu tầm hiện vật và tài liệu tại các tỉnh Khánh Hòa, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi Bộ Công an đã thu thập được 40 hiện vật thể khối, 150 hồ sơ và ảnh, cùng với việc dịch thuật 200 trang tài liệu từ tiếng Hán và tiếng Pháp sang tiếng Việt.

Ngày đăng: 06/09/2021, 16:47

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 2.1: Bảng đỏnh giỏ nội dung hoạt động của cỏc bảo tàng - Hệ thống bảo tàng thành phố vinh với hoạt động du lich thực trạng và giải pháp
Bảng 2.1 Bảng đỏnh giỏ nội dung hoạt động của cỏc bảo tàng (Trang 36)
Bảng 2.2: Bảng thể hiện mục đớch tham quan bảo tàng - Hệ thống bảo tàng thành phố vinh với hoạt động du lich thực trạng và giải pháp
Bảng 2.2 Bảng thể hiện mục đớch tham quan bảo tàng (Trang 38)
Bảng 2.3: Nhu cầu của cụng chỳng khi đến với bảo tàng - Hệ thống bảo tàng thành phố vinh với hoạt động du lich thực trạng và giải pháp
Bảng 2.3 Nhu cầu của cụng chỳng khi đến với bảo tàng (Trang 39)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w