CƠ SỞ LÝ LUẬN VA THỰC TIỄN
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Khái niệm chuyển dạ: Là hiện tượng sinh lý đưa thai nhi từ trong buồng tử cung ra ngoài qua đường âm đạo khi thai có tuần tuổi thai từ 38 - 42 tuần Lúc ấy thai nhi đã trưởng thành và có thể phát triển ngoài tử cung
1.2 Sinh lý chuyển dạ: Chuyển dạ được chia thành 3 giai đoạn [3]
Giai đoạn 1: Giai đoạn xóa mở cổ tử cung
Giai đoạn xoá mở cổ tử cung là giai đoạn dài nhất trong cuộc chuyển dạ, bắt đầu từ khi chuyển dạ cho đến khi cổ tử cung mở hoàn toàn Thời gian trung bình của giai đoạn này khoảng 15 giờ.
Giai đoạn 1a:Từ khi cổ tử cung bắt đầu xoá đến khi cổ tử cung mở 3 cm gọi là pha tiềm tàng, thời gian 8 giờ
Giai đoạn 1b:Từ lúc cổ tử cung mở 3 cm đến 10 cm (mở hết) gọi là pha tích cực, thời gian 7 giờ
Giai đoạn 2 của quá trình sinh nở, được gọi là giai đoạn sổ thai, bắt đầu khi cổ tử cung mở hoàn toàn và kết thúc khi thai nhi được sinh ra Thời gian trung bình cho giai đoạn này là khoảng 30 phút, nhưng có thể kéo dài tối đa lên đến 1 giờ Giai đoạn sổ thai diễn ra nhờ vào hai yếu tố chính: sức mạnh của cơn co tử cung và sự co bóp của các cơ thành bụng.
Giai đoạn 3 của quá trình sinh là giai đoạn sổ rau, bắt đầu từ khi thai nhi ra ngoài cho đến khi nhau thai bong ra và được sổ ra ngoài cùng với màng nhau Thời gian của giai đoạn này thường kéo dài từ 15 đến 30 phút.
Đỡ đẻ thường ngôi chỏm là một thủ thuật quan trọng nhằm hỗ trợ quá trình sinh nở an toàn qua đường âm đạo, hạn chế can thiệp y tế, trừ khi cần thiết phải cắt tầng sinh môn.
Quá trình chuyển dạ là chuỗi các động tác thụ động của thai nhi, đặc biệt là phần ngôi thai trình diện, diễn ra khi thai nhi di chuyển xuống để sổ qua đường sinh dục.
- Trong một cuộc đẻ, thai nhi dù là ngôi gì cũng diễn biến qua 4 thì chính:
- Lọt: Là đường kính lớn nhất của ngôi trùng vào mặt phẳng eo trên (hay phần thấp nhất của đầu nganh vị trí - 0 - hai gai tọa)
Hình 1.1: Đường kính của ngôi trùng vào mặt phẳng eo trên (thì “lọt”)
Hình 1 2: Ngôi di chuyển tử mặt phẳng eo trên đến mặt phẳng eo dưới
- Xuống: Ngôi di chuyển trong ống đẻ từ mặt phẳng eo trên đến mặt phẳng eo dưới
- Quay: Điểm mốc của ngôi hoặc chẩm (thóp sau) quay về phía xương mu hayxương cùng
- Sổ: Phần thai sổ ra ngoài qua âm hộ Đẻ đầu:
Trước khi chuyển dạ, đầu của thai nhi nên ở vị trí cao và không cúi quá mức, với đường kính chẩm trán là 11cm, để đảm bảo trình diện trước eo trên Cơn co tử cung giúp đầu cúi tốt hơn, làm giảm đường kính hạ chẩm - thóp trước xuống còn 9,5cm, tương ứng với đường kính chéo trái của mặt phẳng eo trên, có thể được xác định qua khám âm đạo khi sờ thấy rãnh dọc của đầu.
Lọt thực sự là quá trình diễn tiến từ từ khi đường kính lớn nhất của ngôi thai đi qua mặt phẳng eo trên Một số dấu hiệu lâm sàng khi đầu thai nhi đã lọt bao gồm: khi khám bụng, chỉ sờ thấy 2/5 đầu thai nhi, và khi khám âm đạo, phần thấp nhất của chỏm thai nằm ngang mặt phẳng gai hông của sản phụ.
Kiểu lọt: Lọt đối xứng (2 bướu đỉnh cùng xuống song song); lọt không đối xứng một bướu xuống trước, một bưới xuống sau
Trong quá trình sinh, thì xuống là giai đoạn khi ngôi thai di chuyển từ mặt phẳng eo trên xuống mặt phẳng eo dưới, dẫn đến sự căng phồng của tầng sinh môn khi đầu thai nhi hạ thấp Tiếp theo là thì quay, khi đầu thai nhi tiếp xúc với lớp cân cơ đáy chậu, đầu bắt đầu quay để đường kính hạ chẩm - thóp trước 9,5cm song song với đường kính trước sau của eo dưới Đối với ngôi chỏm kiểu thế trước, đầu thai nhi sẽ quay 45 độ ra trước, trong khi ngôi chỏm kiểu thế sau sẽ quay 45 độ ra phía sau hoặc có thể quay theo hướng khác.
Trong quá trình sinh, đầu thai nhi sẽ cúi xuống do sức đẩy từ cơn co tử cung, cơn co thành bụng và sức cản của đáy chậu, giúp chuẩn bị cho việc sổ Khi hạ chẩm, đầu thai nhi cố định ở bờ dưới khớp mu Dưới tác động của sức rặn và co tử cung, đầu thai nhi sẽ ngửa dần, âm hộ nở ra để lần lượt cho trán, mặt và cằm chui ra Sau khi sổ xong, đầu thai nhi sẽ quay 45 độ để trở về tư thế cũ.
Trong quá trình chuyển dạ, cơ chế đẻ vai tương tự như đẻ đầu Sau khi đầu thai nhi được sổ, nó quay về vị trí ban đầu, trong khi đường kính lưỡng mỏm vai giảm từ 12cm xuống còn 9,5cm và lọt theo đường kính chéo Nếu ngôi thai lọt theo đường kính chéo trái, vai sẽ lọt theo đường kính chéo phải và ngược lại Sau khi vai lọt, vai trước sẽ sổ đến bờ dưới cơ Delta, sau đó vai sau sẽ sổ tiếp Đối với cơ chế đẻ mông, đường kính lớn nhất của mông là đường kính lưỡng ụ đùi, có kích thước 9,0cm, trong khi đường kính cùng - chày sẽ thu nhỏ còn 9,0cm.
Do đó đẻ mông không khó [5]
1.4 Các tai biến hay gặp trong chuyển dạ và sau đẻ
- Chảy máu ngay sau khi sổ rau là triệu chứng phổ biến nhất
- Tử cung giãn to, mềm nhão, co hồi kém hoặc không co hồi, không có khối an toàn
- Có thể dẫn đến choáng nếu không xử trí kịp thời
- Có thể dẫn đến choáng nếu không xử trí kịp thời
- Phải xử trí kịp thời để tránh tình trạng chảy máu kéo dàidẫn tới rối loạn đông máu
Để cầm máu hiệu quả, có thể áp dụng các biện pháp cơ học như xoa bóp tử cung, chẹn động mạch chủ bụng, chẹn tử cung qua thành bụng, và ép ngoài tử cung bằng hai tay hoặc ép cả trong và ngoài tử cung.
Kiểm soát tử cung bằng cách loại bỏ hoàn toàn rau sót và máu cục, sau đó tiêm oxytocin 5 - 10 đơn vị (UI) vào bắp, có thể tiêm nhắc lại 2 lần Nếu tử cung không co lại, cần tiêm ergometrin 0,2mg (1 ống) vào bắp hoặc sử dụng misoprostol 200 mcg (1 - 4 viên) ngậm dưới lưỡi.
Nếu các biện pháp xử trí không mang lại hiệu quả, cần xem xét phẫu thuật cắt tử cung bán phần nếu đã đủ con Trong trường hợp có điều kiện và kinh nghiệm, có thể áp dụng mũi khâu B-Lynch hoặc thắt động mạch hạ vị, động mạch tử cung trước khi tiến hành cắt tử cung.
- Kết hợp vừa phẫu thuật vừa hồi sức, truyền máu
- Cho kháng sinh toàn thân
1.4.1.2 Chấn thương đường sinh dục(rách âm hộ, âm đạo, rách tầng sinh môn, rách cổ tử cung, vỡ tử cung và máu tụ đường sinh dục)
- Tử cung co hồi tốt nhưng máuvẫn chảy ra ngoài âm hộ, máu đỏ tươi chảy rỉ rả haythành dòng liên tục
- Khám thấy vết rách và máu tụ đường sinh dục
- Xử trí theo nguyên tắc tiến hành song song cầm máu và hồi sức
- Khâu lại tầng sinh môn nếu rách độ 1, 2
- Nếu rách tầng sinh môn độ 3, rách âm hộ, âm đạo, cổ tử cung, vẫn tiếp tục chảy máu, hoặc máu tụ máu
- Cầm máu, hồi sức chống choáng
Khâu phục hồi các vết rách bằng chỉ tự tiêu mũi rời được thực hiện tại các vị trí như cổ tử cung, túi cùng, âm hộ và âm đạo Đối với những chỗ rách tầng sinh môn, quy trình khâu sẽ được tiến hành theo nhiều lớp để đảm bảo hiệu quả và an toàn cho sức khỏe.
- Tùy theo vị trí, kích thước và sự tiến triển của khối máu tụ để có thái độ xử trí thích hợp
1.4.1.3 Bất thường về bong rau và sổ rau
- Chảy máu thường xuất hiện sau khi sổ rau
- Tử cung có thể co hồi kém
- Ra máu rỉ rả, lượng máu ra có thể ít hoặc nhiều, máu đỏ tươi lẫn máu cục
- Có thể phát hiện sớm sót rau bằng cách kiểm tra rau và màng rau
- Nếu phát hiện muộn, không kịp thời, mất máu nhiều có dấu hiệu choáng
- Truyền dịch tĩnh mạch ngay
- Cho thuốc giảm đau (morphin10 mg x 1ống tiêm bắp) và tiến hành kiểm soát tử cung
- Tiêm bắp 5 - 10 UI oxytocin hoặc/và ergometrin 0,2 mg
- Dùng kháng sinh toàn thân
- Theo dõi mạch, huyết áp, chảy máu và co hồi tử cung
- Hồi sức truyền máu nếu thiếu máu cấp
- Tiếp tục theo dõi mạch, huyết áp, chảy máu và co hồi tử cung
- Nếu còn ra máu cho thêm thuốc oxytocin tiêm bắp hoặc truyền tĩnh mạch
- Kiểm soát tử cung lại nếu cần
- Rau không bong trong vòng 30 phút sau khi sổ thai hoặc dùng biện pháp xử trí tích cực giai đoạn 3 của chuyển dạ không kết quả
- Rau bám chặt và không chảy máu
MÔ TẢ VẪN ĐỀ CẦN GIẢI QUYẾT
MÔ TẢ THỰC TRẠNG
Bệnh viện Phụ - Sản Trung ương có quy mô 1000 giường bệnh và 08 phòng chức năng, phục vụ cho 14 khoa lâm sàng, 09 khoa cận lâm sàng và 07 trung tâm Đây không chỉ là cơ sở đầu ngành về phụ sản và sơ sinh, mà còn là trung tâm đào tạo đại học, sau đại học và nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực này Với đội ngũ giáo sư, bác sĩ được đào tạo trong nước và quốc tế, bệnh viện cam kết cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe chất lượng cao Hệ thống trang thiết bị y tế hiện đại, bao gồm các máy xét nghiệm tiên tiến như Autodelfia, Tendem Mass và Sequencing, giúp chẩn đoán và điều trị chính xác các bệnh lý liên quan đến sản phụ khoa và sơ sinh.
Dưới thời Pháp thuộc, khu vực bệnh viện hiện nay từng là một nhà tu và sau đó trở thành nhà thương Võ Tánh Sau khi hòa bình lập lại, nhà thương được sửa chữa để phục vụ khám chữa bệnh cho cán bộ, công nhân viên chức Vào ngày 19/7/1955, bác sĩ Hoàng Tích Trí, Bộ Trưởng Bộ Y tế, đã ký Nghị định 615-ZYO/NĐ/3A, chính thức thành lập bệnh viện “C”, đánh dấu bước khởi đầu cho bệnh viện Phụ - Sản Trung ương hiện nay Ngày 08/11/1960, bệnh viện tiếp tục phát triển và mở rộng.
Bộ Y tế đã ban hành QĐ 708/BYT để tổ chức lại bệnh viện “C” theo hướng chuyên khoa phụ sản, nhằm đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh ngày càng tăng của người dân Vào ngày 14/5/1966, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ký Quyết định số 88/CP, đổi tên bệnh viện “C” thành Viện Bảo vệ Bà mẹ và Trẻ sơ sinh, đánh dấu sự ra đời của một viện chuyên ngành đầu tiên tại Việt Nam nghiên cứu về sức khỏe phụ nữ và trẻ sơ sinh Mục tiêu của viện là bảo vệ sức khỏe cho phụ nữ, bà mẹ và trẻ sơ sinh, góp phần vào sự phát triển của xã hội Đến năm 2003, trước nhu cầu chăm sóc sức khỏe sinh sản ngày càng cao, Bộ trưởng Bộ Y tế đã ký Quyết định 2212/QĐ-BYT, đổi tên viện thành Bệnh viện Phụ - Sản Trung ương, tiếp tục thực hiện các chức năng trước đây với yêu cầu cao hơn để đáp ứng tình hình mới.
Bệnh viện Phụ - Sản Trung ương đã có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, được nhà nước ghi nhận qua nhiều phần thưởng cao quý, bao gồm Huân chương Lao động hạng Nhất vào các năm 2002 và 1985, Huân chương Lao động hạng Hai năm 1982, Huân chương Lao động hạng Ba năm 1976, và đặc biệt là Huân chương Độc lập hạng Ba năm 2008, cùng với danh hiệu Anh hùng Lao động năm 2010.
Bệnh viện Phụ - Sản Trung ương đã nhận nhiều cờ thi đua và bằng khen từ Chính phủ, với nhiều cá nhân xuất sắc được trao tặng danh hiệu cao quý Đặc biệt, năm 2010, Giám đốc bệnh viện vinh dự nhận danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới Đảng bộ bệnh viện liên tục được công nhận là Đảng bộ trong sạch, vững mạnh; Công đoàn bệnh viện đạt danh hiệu Công đoàn vững mạnh xuất sắc; và Đoàn thanh niên cũng đạt danh hiệu Cơ sở Đoàn vững mạnh, xuất sắc.
Khoa đẻ là nơi quy tụ đội ngũ nữ hộ sinh có trình độ chuyên môn cao và kỹ năng chuyên nghiệp, nhằm cung cấp dịch vụ chăm sóc thiết yếu cho mẹ và trẻ sơ sinh trong và ngay sau khi sinh Mục tiêu chính của khoa là giảm thiểu nguy cơ tử vong cho cả mẹ và con.
Ban lãnh đạo khoa xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm, không ngừng nỗ lực vượt qua khó khăn về đội ngũ cán bộ, viên chức và cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật nhằm đa dạng hóa các chuyên môn kỹ thuật.
Ban lãnh đạo Khoa Đẻ và cán bộ viên chức đã đoàn kết và sáng tạo trong việc hoàn thành xuất sắc các chỉ tiêu chuyên môn Khoa chú trọng công tác khám bệnh và chữa bệnh, đồng thời theo dõi và chăm sóc sản phụ, trẻ sơ sinh Đội ngũ y tế từng bước thực hiện và áp dụng các kỹ thuật mới trong điều trị, giữ vững uy tín với nhân dân Khoa cũng thường xuyên đổi mới phương pháp và đào tạo nghiệp vụ chuyên môn, nhằm hoàn thiện kỹ năng cho cán bộ chuyên môn sâu.
Kết quả đó thể hiện sự phấn đấu nỗ lực của tập thể CBVC trong khoa
2 Tổng số mổ đẻ 9.956 10.046 11.260 ca
3 Tổng số đẻ Forceps 583 409 658 ca
4 Tổng số đẻ Giác kéo 17 24 2 ca
6 Số đẻ chỉ huy 5.776 8.379 8.081 ca
8 Các kỹ thuật mới được áp dụng
- Năm 2008 đến nay: Xử trí tích cực giai đoạn III chuyển dạ đẻ
- Năm 2010 đến nay: Giảm đau trong đẻ
- Năm 2011 đến nay: Xử trí cắt rốn muộn
Từ tháng 9 năm 2012 đến nay, phương pháp gây chuyển dạ đẻ bằng bóng đặt ống cổ tử cung đã được áp dụng cho những trường hợp có chỉ định cần thiết, bao gồm cả việc đình chỉ thai nghén.
- Năm 2012 đến nay: Đặt bóng buồng tử cung trong một số trường hợp chảy máu sau đẻ khi điều trị bằng các phương pháp khác không có kết quả
-Năm 2014 đến nay: Thực hành chăm sóc thiết yếu cho bà mẹ - trẻ sơ sinh trong và ngay sau đẻ ( EENC)
- Năm 2014 đến nay: Đặt bóng âm đạo, cổ tử cung cho các trường hợp chảy máu sau đẻ
- Thực hiện tốt công tác vô khuẩn, duy trì chế độ cho người nhà sản phụ/ người bệnh vào thăm theo giờ qui định
Hoàn thành xuất sắc và vượt chỉ tiêu đã đề ra, chúng tôi đã thực hiện hiệu quả việc hạn chế tối đa sai sót, sai phạm và tai biến trong chuyên môn.
+ Không để sản phụ cũng như thân nhân của kêu ca phàn nàn về tinh thần, thái độ phục vụ
Chúng tôi tiếp tục cung cấp tư vấn và hướng dẫn cho tất cả sản phụ trong khoa về cách chăm sóc trẻ sơ sinh ngay sau khi sinh, cũng như phương pháp nuôi con bằng sữa mẹ và các vấn đề liên quan đến sức khỏe cộng đồng và kế hoạch hóa gia đình.
2.1.1 Thực trạng chăm sóc thiết yếu bà mẹ và trẻ sơ sinh trong và sau đẻ tại khoa đẻ bệnh viện phụ sản trung ương
2.1.1.1.Lau khô và ủ ấm cho trẻ tiếp xúc trực tiếp da kề da (trẻ được đặt lên bụng mẹ ngay sau khi sinh và kéo dài ít nhất 90 phút sau sinh)
Can thiệp tiếp xúc da kề da
Tỷ lệ thực hiện can thiệp tiếp xúc da kề da đạt 97,5%, nhưng hiệu quả của can thiệp này phụ thuộc vào kinh nghiệm và kỹ năng của người đỡ đẻ Trong một số trường hợp, như trẻ cần hồi sức ngay do nước ối xanh bẩn, dây rốn quấn cổ hoặc thắt nút, việc thực hiện tiếp xúc da kề da không khả thi Tuy nhiên, nếu tiến hành hút sạch đường hô hấp và bóp bóng, trẻ có thể khóc mà không cần thêm hỗ trợ.
Hình 2.1: Hình ảnh sản phụ sau sinh
Hình 2.2: Hình ảnh sản phụ sau sinh
Hình 2.3: Hình ảnh em bé da kề da
Hình 2.4: Khi được chuyển từ phòng đẻ ra phòng sau đẻ, em bé vẫn không rời mẹ
Hình 2.5: Hộ sinh dặn dò và hỗ trợ cho em bé bú sớm
- Thực hiện đúng thời điểm và thực hiện 100%
2.1.3 Kẹp dây rốn muộn và cắt dây rốn một thì
Kẹp cắt dây rốn muộn là việc chờ dây rốn ngừng đập hoặc thực hiện sau 2 phút, với 94% trường hợp thực hiện kẹp muộn Hơn một nửa số trường hợp kẹp trong 1 đến 2 phút, trong khi 6% kẹp trong vòng 1 phút và 20% sau 2 phút Lý do cắt rốn sớm thường liên quan đến việc cần hồi sức cho trẻ sơ sinh, đặc biệt khi không thể thực hiện tiếp xúc da kề da Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo chỉ nên kẹp cắt rốn ngay khi cần thiết cho hồi sức Cần nghiên cứu thêm về sự cần thiết hồi sức, vì hơn 90% trẻ sơ sinh không cần hỗ trợ nào, có thể tự thở và khóc mà không cần hút đờm hay kích thích, chỉ cần giữ ấm, tốt nhất là qua tiếp xúc da kề da với mẹ.
2.1.4 Kéo dây rốn có kiểm soát
- Có thực hiện nhưng chưa đúng kỹ thuật, chưa xuất hiện cơn co tử cung đã kéo dây rốn, kéo không đúng cơ chế
- Không tuân thủ quy trình kỹ thuật
- Chưa tập huấn/ đã tập huấn nhưng vẫn theo thói quen cũ
- Chưa có kỹ năng của người đỡ đẻ
- Tuân thủ quy trình kỹ thuật
- Đào tạo lại, đào tại tại chỗ, cầm tay chỉ việc
2.1.5 Xoa đáy tử cung 15ph/lần kéo dài 2h
- Có thực hiện 100%, nhưng chưa đủ thời gian
- HS và sản phụ hợp tác chưa tốt, HS phải chăm sóc, theo dõi sản phụ khác
- Nhiều sản phụ sau sinh, mệt ngủ thiếp đi nên cũng quên không xoa đáy tử cung
- Tư vấn, hỗ trợ, động viên sản phụ hợp tác với nhân viên y tế thực hiện đúng nội dung HS tư vấn và yêu cầu
- Có thể nhờ người nhà sản phụ phối hợp xoa đáy tử cung cho sản phụ.
BÀN LUẬN
Ưu điểm
- Ổn định thân nhiệt, nhịp tim, nhịp thở và đường huyết
Duy trì nhiệt độ cơ thể cho trẻ sơ sinh là rất quan trọng, đặc biệt khi trẻ chuyển từ môi trường ấm áp trong tử cung ra ngoài lạnh lẽo Làn da ẩm ướt khiến trẻ dễ bị nhiễm lạnh, nhưng cơ thể mẹ có khả năng điều chỉnh nhiệt độ hiệu quả Ngực mẹ ấm hơn và có thể tự điều chỉnh để làm ấm hoặc làm mát trẻ chỉ sau vài phút tiếp xúc ‘da kề da’ Đối với các bà mẹ sinh đôi, ngực mẹ cũng có thể phản ứng độc lập cho từng bé Nghiên cứu cho thấy, trẻ được bố bế ‘da kề da’ có thân nhiệt và nồng độ đường máu cao hơn so với trẻ trong lồng ấp Hình thức tiếp xúc này còn giúp trẻ học cách tự điều chỉnh và duy trì ổn định các chỉ số sinh học như nhịp tim, nhịp thở, huyết áp và đường máu.
- Giảm khóc và căng thẳng
Tiếp xúc da kề da giữa mẹ và con trong 20 phút có thể giảm 67-72% nồng độ cortisol, hormone gây stress ở trẻ Sự gần gũi này không chỉ giúp bé giảm đau mà còn thúc đẩy quá trình phục hồi sau sinh Kết quả là, trẻ được chăm sóc theo phương pháp này thường ít quấy khóc và căng thẳng hơn.
- Bảo vệ bé khỏi tác hại của việc tách khỏi mẹ
Khi bị tách khỏi mẹ ngay sau khi sinh, các loài thú đều có phản ứng tương tự: đầu tiên là ‘phản đối’ với tiếng gào khóc và sự ngọ nguậy mạnh mẽ, nhằm thu hút sự chú ý của mẹ Đây là phản ứng bản năng của thú con khi bị đẩy ra khỏi ‘môi trường sống tự nhiên’ nơi chúng cảm thấy an toàn Nếu tình trạng cách ly kéo dài, phản ứng tiếp theo sẽ là ‘tuyệt vọng’, khi thú con ngừng khóc và nằm yên, thể hiện sự đầu hàng để tránh thu hút sự chú ý của kẻ săn mồi Lúc này, các hệ cơ quan trong cơ thể hoạt động chậm lại, dẫn đến hạ thân nhiệt, giảm nhịp tim và tốc độ chuyển hóa, nhằm tăng khả năng sống sót lâu dài.
Trẻ sơ sinh có bản năng phản đối khi bị tách rời khỏi mẹ, với nghiên cứu cho thấy trẻ cách ly khóc nhiều gấp 10 lần và thời gian khóc dài hơn 40 lần so với trẻ được tiếp xúc da kề da Những cơn khóc này có thể gây hại cho chức năng phổi, tăng áp lực nội sọ, trì hoãn việc đóng lỗ thông liên nhĩ và tăng hoóc môn stress Nếu trẻ tiếp tục bị cách ly lâu dài, chúng sẽ rơi vào trạng thái thất vọng, dẫn đến tăng hoóc môn stress, giảm thân nhiệt, nhịp tim và đường huyết Những biến chứng này thường gặp ở trẻ sơ sinh cách ly, ngay cả khi được chăm sóc tại khoa hồi sức cấp cứu Hơn nữa, việc tách rời mẹ và con kéo dài có thể ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển xã hội và cảm xúc của trẻ trong tương lai.
- Tạo điều kiện cho sự phát triển tối ưu của não
Khi mới chào đời, não của trẻ chỉ phát triển 25% so với người lớn, và tiếp xúc ‘da kề da’ là một trải nghiệm quan trọng cho sự phát triển của trẻ Hình thức tiếp xúc này kích thích các cơ quan cảm giác, giúp hình thành các đường dẫn truyền thần kinh cần thiết cho sự trưởng thành của não Ngoài ra, tiếp xúc ‘da kề da’ còn thúc đẩy sự phát triển của hạch hạnh nhân, bộ phận quan trọng trong não có liên quan đến cảm xúc, trí nhớ và hệ thần kinh giao cảm.
Trong thời gian tiếp xúc gần gũi với mẹ, trẻ dễ dàng chìm vào giấc ngủ sâu kéo dài từ 60 phút trở lên, điều này rất quan trọng vì giai đoạn ngủ sâu thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của não bộ.
- Kích thích tiêu hóa và giúp bé tăng cân
Chỉ sau 1 giờ tiếp xúc ‘da kề da’, hệ tiêu hóa của bé được phục hồi về trạng thái cân bằng tối ưu, nhờ vào việc kích hoạt dây thần kinh phế vị Điều này dẫn đến sự gia tăng kích thước các vi mao trong lòng ruột, cải thiện diện tích bề mặt ruột và khả năng hấp thụ chất dinh dưỡng Chăm sóc ‘da kề da’ cũng giúp giảm hàm lượng cortisol và somatostatin, tạo điều kiện cho bé hấp thu và tiêu hóa thức ăn tốt hơn, đồng thời giảm nguy cơ rối loạn tiêu hóa Hơn nữa, việc này giúp trẻ tăng cân nhanh hơn vì không cần sử dụng mỡ nâu để duy trì thân nhiệt.
- Tăng cường hệ miễn dịch
Tiếp xúc ‘da kề da’ giữa mẹ và bé giúp trẻ thu nhận các vi khuẩn quen thuộc từ làn da của mẹ, điều này hoàn toàn an toàn vì bé sơ sinh đã được trang bị kháng thể chống lại hầu hết các vi khuẩn này từ khi còn trong bụng mẹ Hơn nữa, cơ thể mẹ sẽ sản xuất thêm kháng thể để chống lại các vi khuẩn từ môi trường xung quanh, và những kháng thể này sẽ được truyền sang bé qua sữa mẹ, góp phần bảo vệ trẻ khỏi các bệnh nhiễm trùng.
Việc 'chiếm đóng' của các vi khuẩn quen thuộc từ mẹ trên cơ thể bé sơ sinh giúp hạn chế sự xâm nhập của các vi khuẩn và virus lạ trong môi trường sinh nở Điều này càng trở nên quan trọng đối với trẻ sinh mổ, khi mà các bé thường thiếu tiếp xúc với vi khuẩn có lợi từ đường sinh dục của mẹ, một yếu tố quan trọng cho sự phát triển của hệ miễn dịch.
- Tăng tỷ lệ mẹ cho con bú và thời gian cho con bú
Tiếp xúc da kề da giữa mẹ và bé giúp kích thích hành vi bú mẹ tự nhiên của trẻ, làm cho bé ngậm bắt vú hiệu quả hơn Nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ trẻ bú mẹ trong giờ đầu sau sinh tăng gấp đôi khi được tiếp xúc da kề da, thay vì bị quấn chặt trong tã.
Các bà mẹ thực hành chăm sóc da kề da ngay từ đầu thường tiếp tục cho con bú hoàn toàn nhiều hơn khi về nhà Sự gia tăng hoóc môn oxytocin và prolactin trong những giờ đầu sau sinh giúp tăng cường sản xuất sữa lâu dài Những mẹ gặp khó khăn trong việc cho con bú có thể thấy sự cải thiện nhanh chóng nhờ thực hành tiếp xúc da kề ít nhất 60 phút mỗi lần, từ 1 đến 2 lần mỗi ngày.
Một nghiên cứu tại Ba Lan với 1250 trẻ sơ sinh trong 3 năm cho thấy rằng tiếp xúc da kề da giữa mẹ và bé làm tăng thời gian bú mẹ hoàn toàn thêm 0,39 tháng và thời gian bú mẹ nói chung thêm 1,43 tháng Những trẻ được giữ bên mẹ ít nhất 20 phút sẽ bú mẹ hoàn toàn lâu hơn 1,35 tháng và cai sữa muộn hơn 2,1 tháng so với những trẻ không được tiếp xúc da kề da ngay sau khi sinh.
Khi nằm trên ngực trần của mẹ, bé gần gũi với nguồn thực phẩm quý giá là sữa mẹ và có thể nhìn thấy, cảm nhận núm vú, khuyến khích bé bắt đầu bú Hành động này kích thích mẹ giải phóng oxytocin, hoóc môn tình yêu giúp mẹ thư giãn, giảm lo âu và tăng cường gắn kết với con Nghiên cứu cho thấy, mẹ có tiếp xúc da kề da với bé trong 15 phút sẽ tự tin hơn trong việc chăm sóc con so với những mẹ chỉ được thấy con trong thời gian ngắn Sau ba tháng, các mẹ này hôn con nhiều hơn và dành thời gian ngắm khuôn mặt bé nhiều hơn Đến một tuổi, họ thường xuyên bế ẵm, vuốt ve và cho con bú lâu hơn Một nghiên cứu cũng chỉ ra rằng thời gian cho con bú có thể tăng gấp đôi nhờ 15 phút tiếp xúc da kề da sớm.
Sự tiếp xúc "da kề da" giữa mẹ và con, cùng với việc bé bú nhiều, sẽ kích thích sự tiết oxytocin, mang lại nhiều lợi ích cho mẹ Hormone này giúp rút ngắn thời gian phục hồi, giảm huyết áp, tăng khả năng chịu đau, và nâng cao cảm giác hạnh phúc, đồng thời giảm nguy cơ trầm cảm Ngoài ra, oxytocin còn thúc đẩy sản xuất sữa, giúp tử cung co thắt hiệu quả, giảm nguy cơ xuất huyết sau sinh, và hỗ trợ mẹ nhanh chóng lấy lại vóc dáng thon gọn như trước khi mang bầu.
Nhược điểm
- Nhận thức của người dân đặc biệt là sản phụ còn hạn chế
- Sản phụ có bệnh lý không áp dụng được vì mẹ không tự chăm sóc được con
Nguyên nhân của việc chưa làm được
- Như những nội dung trên công tác tư vấn cho bà mẹ chưa hiệu quả
- Sản phụ sau sinh thường mệt chỉ muốn nhìn ôm con một lúc, muốn ngủ
Sau khi cắt rốn, trẻ được đặt lên bàn để mặc áo, mũ và nằm lại trên bàn sưởi, khiến mẹ không có cơ hội ôm con và cho con bú.
- HS nhiều việc không có thời gian hỗ trợ mẹ cho trẻ bú sớm mà thường hướng dẫn xong bỏ mặc.
Đề xuất và giải pháp
- Tư vấn cho bà mẹ biết tác dụng của việc cho trẻ bú mẹ sớm
- Hỗ trợ, giúp đỡ bà mẹ cho trẻ bú Cần thiết có thể nhờ người nhà hỗ trợ cho trẻ bú mẹ
- Tăng cường, giám sát kiểm tra thực hiện quy trình
- Tăng cường, bố trí nhân lực hỗ trợ cho trẻ bú
- Tập huấn và đào tạo lại cho Hộ sinh mới ra trường, hộ sinh mới được chuyển đến công tác tại khao Đẻ
Các can thiệp như kẹp dây rốn muộn, tiếp xúc da kề da, xử trí tích cực giai đoạn ba cuộc chuyển dạ và cho con bú sớm có thể được áp dụng cho tất cả các ca đẻ thai từ 32 tuần trở lên trong các cuộc chuyển dạ đẻ bình thường.
Cần mở rộng và tổ chức lại các buổi tập huấn cho học sinh tham gia cung cấp dịch vụ, nhằm cập nhật quy trình theo hướng dẫn quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản mới nhất Đặc biệt, cần chú ý đến những bước còn yếu kém hoặc chưa được coi trọng, như đã được phát hiện trong chuyên đề này.
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hỗ trợ việc thực hiện các QTKT
Giáo dục chính trị và tư tưởng cho cán bộ y tế là rất quan trọng, giúp họ yên tâm, tin tưởng và yêu nghề Điều này khuyến khích họ coi sản phụ như người thân, như khách hàng, từ đó luôn quan tâm, giúp đỡ và hỗ trợ sản phụ một cách tốt nhất.
Tổng kết và sơ kết báo cáo các tai biến sản khoa hàng tháng là một bước quan trọng trong việc đánh giá tình hình sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ sinh Qua đó, cần xây dựng kế hoạch và biện pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng công tác chăm sóc thiết yếu cho bà mẹ và trẻ sơ sinh, đảm bảo an toàn và sức khỏe cho cả hai.
- Hàng năm tổ chức cuộc thi tay nghề của Điều dưỡng, hộ sinh, kỹ thuật viên cả lý thuyết và thực hành để nâng cao tay nghề
- Bổ sung kiến thức trong các buổi giao ban chuyên môn
Bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em là một vấn đề quan trọng được các quốc gia trên thế giới chú trọng Tại Việt Nam, chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh trong và sau khi sinh luôn là ưu tiên hàng đầu của Đảng, Nhà nước và ngành Y tế Tuy nhiên, kết quả đạt được vẫn còn hạn chế Từ cuối những năm 80 và đầu những năm
Vào năm 1990, Bộ Y tế đã triển khai chương trình chăm sóc sản khoa thiết yếu nhằm đảm bảo mọi phụ nữ mang thai được tiếp cận dịch vụ chăm sóc trước sinh, trong và sau sinh chất lượng cao Chương trình này góp phần giảm thiểu tai biến sản khoa, đồng thời giảm tỷ lệ tử vong mẹ và trẻ sơ sinh Qua báo cáo chuyên đề, tôi đã rút ra một số kết luận quan trọng.
1) Việc thực hiện chăm sóc thiết yếu bà mẹ và trẻ sơ sinh trong và ngay sau đẻ theo HDQG về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, của WHO, của Bộ Y tế tại Bệnh viện đã được triển khai thực hiện
2) ĐD/HS đã được cập nhật thông tin, tập huấn đầy đủ và có những quy trình đã được thực thiện tương đối đầy đủ và đúng quy trình
Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực đó vẫn còn một số tồn tại sau:
1) Nhận thức của người dân đặc biệt là sản phụ chưa cao, chưa được tiếp cận với các loại hình thông tin đại chúng về các dịch vụ CSSKSS một cách đầy đủ nên nhiều khi không theo sự tư vấn, hướng dẫn của CBYT
2) Do hoàn cảnh cũng như tình hình xã hội hiện nay ngành y luôn phải đối mặt với những khó khăn và thách thức nhưng chưa được xã hội thật sự tôn trọng nên cũng có nhiều CBYT chưa chuyên tâm, chưa tâm huyết với nghề nên công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân nói chung, bà mẹ và trẻ em nói riêng chưa cao, chỉ làm cho xong Việc tập huấn, cập nhập, bổ xung kiến thức chuyên ngành, áp dụng vào thực tế chưa đạt hiệu quả cụ thể:
Lau khô và ủ ấm cho trẻ khi tiếp xúc da kề da là rất quan trọng, đặc biệt là khi trẻ được đặt lên bụng mẹ ngay sau khi sinh Thời gian thực hiện nên kéo dài ít nhất 90 phút, tuy nhiên, hiện tại việc này vẫn chưa được thực hiện đầy đủ, với tỷ lệ đạt chỉ 97,5%.
* Tiêm bắp 10UI oxytoxin thực hiện được 100%, đúng thời điểm
* Kẹp dây rốn muộn và cắt dây rốn một thì: chưa đúng thời điểm và thời gian Đạt tỷ lệ 94,0%
* Kéo dây rốn có kiểm soát: thực hiện nhưng chưa đúng kỹ thuật, chưa xuất hiện cơn co tử cung đã kéo dây rốn, kéo không đúng cơ chế
* Xoa đáy tử cung 15ph/lần kéo dài 2h: có thực hiện được 100%, nhưng chưa đủ thời gian
* Hướng dẫn cho trẻ bú sớm: thực hiện được 100%
TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng việt
1 Bệnh viện Phụ Sản Hải Dương (2012), "Báo cáo tổng kết công tác năm 2012, phương hướng nhiệm vụ năm 2013"
2 Bộ Y tế (2001), Quyết định của Bộ trưởng Bộ Y tế vê việc ban hành qui định nhiệm vụ kỹ thuật trong lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ sinh sản tại các cơ sở y tế,
3 Bộ Y tế (2008), Điều dưỡng Sản phụ khoa, Nhà xuất bản giáo dục
4 Bộ Y tế (2009), Hướng dẫn Quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản
5 Bộ Y tế và Liên hợp quốc tại Việt Nam (2011), "Đánh giá người đỡ đẻ có kỹ năng ở Việt Nam"
6 Bộ Y tế và Quỹ dân số Liên Hợp Quốc (2011), Báo cáo rà soát thực hiện can thiệp về làm mẹ an toàn, tập trung vào cấp cứu sản khoa và chăm sóc sơ sinh giai đoạn 2006 - 2010
7 Bộ Y tế (2012), Báo cáo thẩm định tử vong mẹ
8 Bộ Y tế - Số 4637/QĐ-BYT-2014: Quyết định về việc phê duyệt tài liệu hướng dẫn chuyên môn chăm sóc thiết yếu bà mẹ, trẻ sơ sinh trong và ngay sau đẻ
9 Chính phủ (2014), Nghị quyết về việc đẩy mạnh thực hiện các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc trong lĩnh vực y tế, Chính phủ, Hà Nội
10 Phạm Văn Lình và Cao Ngọc Thành (2007), Sản phụ khoa, Nhà xuất bản Y học,
11 Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc Việt Nam (2008), Báo cáo đánh giá giữa kỳ: Thực hiện mô hình can thiệp cấp cứu sản khoa và chăm sóc sơ sinh (Bài học kinh nghiệm của Hoà Bình và Hà Giang)
12 Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (2009), Tình trạng trẻ em trên thế giới năm 2009: Sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ sinh
13 Vụ khoa học và đào tạo (2005), Chăm sóc bà mẹ trong khi đẻ, Tài liệu đào tạo
14 Chuyên đề tốt nghiệp của HSĐDCKI Lê Thị Anh Ngọc năm 2018
15 Aasheim V1 et al (2011), Perineal techniques during the second stage of labour for reducing perineal trauma, JohnWiley & Sons Ltd
16 Cynthia Stanton et al (2009), "Use of active management of the third stage of labour in seven developing countries", Bull World Health Organ 2009 87, pg 207-215
17 Festin MR et al (2003), "International survey on variations in practice of the management of the third stage of labour", Bull World Health Organ 81, pg 286-
18 FIGO Safe Motherhood and Newborn Health (SMNH) Committee (2012),
19 Mayberry LJ et al (2000), Second-stage labor management: Promotion of evidence-based practice and a collaborative approach to patient care, Associationof Women's Health Obstetric and Neonatal nurses (AWHONN), Washington, DC
20 MScN Ahrar M Rasheid and Rabea'a M Ali (2010), "Assessment of Nurse– Midwives' Knowledge and Practices toward Second Stage of Labor", Iraqi Sci J.Nursing 23 (Special Issue)
21 USAID and POPPHI (2006), Active Management of the Third Stage of Labor
22 WHO and FIGO (2004), World Health Organization.Making pregnancy safer: the critical role of the skilled attendant A joint statement by WHO, ICM and FIGO, G
23 WHO (2012), WHO recommendations for the prevention and treatment of postpartum haemorrhage, WHO Press, Italy.