1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Chuyên đề tốt nghiệp chuyên khoa cấp i thực trạng biến chứng tụt huyết áp ở người bệnh lọc máu chu kỳ tại trung tâm thận lọc máu bệnh viện đa khoa tỉnh thanh hóa

38 16 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Thực Trạng Biến Chứng Tụt Huyết Áp Ở Người Bệnh Lọc Máu Chu Kỳ Tại Trung Tâm Thận Lọc Máu Bệnh Viện Đa Khoa Tỉnh Thanh Hóa
Tác giả Lê Đình Ái
Người hướng dẫn TS. Đỗ Minh Sinh
Trường học Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định
Chuyên ngành Điều dưỡng Nội người lớn
Thể loại báo cáo chuyên đề tốt nghiệp
Năm xuất bản 2018
Thành phố Nam Định
Định dạng
Số trang 38
Dung lượng 553,94 KB

Cấu trúc

  • 1. Đặt vấn đề (7)
  • 2. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn (9)
    • 2.1. Cơ sở lý luận (9)
    • 2.2. Cơ sở thực tiễn (17)
  • 3. Thực trạng (20)
    • 3.1. Thực trạng biến chứng tụt huyết áp ở người lọc máu chu kỳ tại trung tâm thận lọc máu bệnh viện đa khoa thanh hóa tháng 7 năm 2018 (20)
    • 3.2. Một số ưu điểm và tồn tại về hoạt động dự phòng biến chứng tụt huyết áp cho người bệnh lọc máu chu kỳ tại trung tâm (27)
  • 4. Đề xuất một số giải pháp (29)
    • 4.1. Đối với bệnh viện và nhân viên y tế (29)
    • 4.2. Đối với người bệnh (30)
  • 5. Kết luận (0)
    • 5.1. Thực trạng tụt huyết áp (31)
    • 5.2. Một số giải pháp hạn chế biến chứng tụt huyết áp ........................................... 25 TÀI LIỆU THAM KHẢO (31)

Nội dung

Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn

Cơ sở lý luận

2.1.1 Đại cương về lọc máu chu kỳ bằng kỹ thuật thận nhân tạo

2.1.1.1 Giới thiệu tổng quan về lọc máu chu kỳ [1]

Người bệnh suy thận giai đoạn cuối cần điều trị thay thế, bao gồm thận nhân tạo, lọc màng bụng và ghép thận, trong đó thận nhân tạo là phương pháp phổ biến nhất Thận nhân tạo thiết lập vòng tuần hoàn ngoài cơ thể, cho phép máu được lọc sạch.

Thời gian lọc kéo dài từ 4 đến 8 giờ với lưu lượng 200 - 400 ml/phút Do quy trình kỹ thuật phức tạp và thời gian theo dõi lâu dài, việc chuẩn hóa các bước và xây dựng quy trình chặt chẽ là rất cần thiết để giảm thiểu nguy cơ biến chứng có thể xảy ra trong quá trình lọc.

Hình 1.1 Sơ đồ vòng tuần hoàn máu và dịch trong điều trị lọc máu

1.1.1.2 Chỉ định và chống chỉ định [1]

Bệnh nhân suy thận giai đoạn cuối cần điều trị thay thế khi mức lọc cầu thận (MLCT) giảm xuống dưới 15 ml/phút/1.73 m² Đối với những người mắc bệnh tiểu đường, việc chỉ định điều trị có thể được thực hiện sớm hơn.

Kỹ thuật thận nhân tạo được sử dụng để lọc máu trong nhiều trường hợp khác nhau, bao gồm cả lọc máu cấp cứu và ngộ độc Quy trình lọc máu thường diễn ra với tần suất tối thiểu 3 lần mỗi tuần, mỗi lần kéo dài ít nhất 4 giờ, tổng thời gian lọc máu trong tuần đạt ≥ 12 giờ.

Tim mạch: trụy tim mạch, rối loạn nhịp tim, nhồi máu cơ tim và bệnh mạch vành, suy tim toàn bộ

Rối loạn đông máu và chảy máu: chỉ là chống chỉ định tương đối, có thể cùng phối hợp lọc máu và thay máu

Toàn trạng: người bệnh đang sốt cao, suy kiệt do ung thư

2.1.1.3 Trình tự tiến hành a Chuẩn bị, khởi động máy

Mở hệ thống nước và theo dõi hoạt động tổng thể của nó, loại bỏ nước ứ đọng, đồng thời kiểm tra lưu lượng và độ dẫn điện của hệ thống.

Kiểm tra máy thận bao gồm việc xác định lưu lượng đạt 500 ml/phút, đảm bảo không còn chất sát trùng, kiểm tra độ dẫn điện của dịch lọc và kiểm tra các báo động an toàn của máy.

Kiểm tra hệ thống oxy, điện và các thiết bị khác b Bác sĩ kiểm tra tình trạng người bệnh trước khi lọc máu

Tình trạng lâm sàng, cận lâm sàng của người bệnh trong 24 giờ trước đó: điện tim, phim Xquang tim phổi, tình trạng tim mạch hiện tại

Gần đây, các thuốc và phương pháp điều trị đã có những chỉ định và thay đổi liều lượng đáng chú ý Bên cạnh đó, các chỉ số sinh hóa thông thường và xét nghiệm gần nhất bao gồm điện giải đồ, calci, phospho, pH, CO2, acid uric, hemoglobin, hematocrit, protein máu, tình trạng đông máu, men tim, nhóm máu Rh và sự ngưng kết bất thường cũng cần được theo dõi chặt chẽ.

Các chỉ định cho buổi lọc bao gồm việc thực hiện các xét nghiệm trước và sau khi lọc, xác định thời gian lọc và lưu lượng máu Ngoài ra, cần chú ý đến siêu lọc để rút cân, sử dụng thuốc chống đông với liều lượng và cách dùng phù hợp, cùng với việc kiểm tra quả lọc.

Các chỉ định theo dõi điều trị: Trong buổi lọc, kết thúc buổi lọc c Chuẩn bị người bệnh lọc máu chu kỳ

Chuẩn bị cho điều dưỡng cần chú ý đến việc cân trọng lượng bệnh nhân, bao gồm việc trừ bì (giày dép, quần áo) Nếu có nghi ngờ, nên thực hiện cân lại nhiều lần để đảm bảo độ chính xác Đồng thời, cần đo huyết áp và mạch của bệnh nhân ở cả hai tư thế đứng và nằm Tất cả các thông số này phải được ghi chép cẩn thận vào sổ theo dõi bệnh nhân.

Người bệnh trải ga, nằm lên giường chuẩn bị lọc máu

Tay FAV của người bệnh phải được sát trùng cẩn thận, rộng rãi d Nối vòng tuần hoàn ngoài cơ thể

* Tư thế người bệnh và chuẩn bị chọc tay:

Người bệnh cần được đặt ở tư thế thoải mái, có thể nằm hoặc nửa nằm trên giường với độ cao phù hợp; thiết bị lọc thận phải được chuẩn bị sẵn sàng và không có bất kỳ báo động nào.

*Các bước chuẩn bị dụng cụ:

Mở hộp vô trùng chứa dụng cụ lọc máu để tránh nhiễm trùng và lắp quả lọc bằng cách kiểm tra tên tuổi bệnh nhân để tránh nhầm lẫn Đuổi hơi kỹ và điều chỉnh tốc độ bơm từ 90 - 120 ml/phút, đồng thời vỗ nhẹ vào quả lọc để đảm bảo không còn khí Khi còn khoảng 300ml dịch, quay vòng dịch trong quả lọc với heparin và xả rửa sạch các râu của đường dây Điều dưỡng và bệnh nhân cần đeo khẩu trang, chuẩn bị găng tay và gạc đã thấm chất sát trùng Đặt kim lên khay vô trùng, chuẩn bị các ống lấy máu bên cạnh, đi găng vô trùng, lấy săng vô trùng và nâng cao tay bệnh nhân Trải săng dưới tay bệnh nhân, để tay bệnh nhân xuống, chuẩn bị băng dính và sát trùng tay bệnh nhân bằng gạc đã thấm chất sát trùng, sau đó sử dụng ga rô.

Xác định vị trí đường đi mạch máu (FAV) bằng đầu ngón tay và thực hiện chọc FAV với kim động mạch hướng về phía miệng nối, kim tĩnh mạch hướng lên cao Cố định kim bằng băng dính vô trùng và thông kim bằng cách mở nút rồi siết chặt ngay Đóng khoá kim và tiến hành lấy bệnh phẩm, sau đó đặt chương trình lọc máu trước khi nối vòng tuần hoàn cho bệnh nhân Theo dõi thời gian lọc máu, số cân rút, liều heparin tấn công và duy trì, đồng thời kiểm tra hoạt động bơm heparin Để theo dõi FAV hiệu quả, cần bộc lộ tay để quan sát rõ.

Các chức năng của máy đã sẵn sàng, bao gồm việc kẹp đường dây “động mạch” và nối nó với kim “động mạch” của người bệnh Sau khi mở kẹp ở kim “động mạch” và kẹp ở dây “động mạch”, cần kiểm tra bơm máu đang ở vị trí 0 ml/phút trước khi cho bơm chạy Máu của người bệnh sẽ được hút qua bơm, trong khi nước muối sinh lý trong dây và quả lọc sẽ được đẩy về túi đựng nước thải Quá trình này dẫn đến việc máu dâng dần trong vòng tuần hoàn và tấn công liều heparin cho đến khi máu đến bầu xanh (bầu tĩnh mạch).

Dừng bơm máu và kẹp đường dây tĩnh mạch để kiểm tra khí trong vòng tuần hoàn Kết nối đường tĩnh mạch với kim tĩnh mạch của bệnh nhân, đảm bảo sát trùng các điểm nối Tăng dần tốc độ bơm lên 100ml/phút và theo dõi áp lực động mạch tĩnh mạch trên màn hình Tăng tốc độ máu từ từ và chỉ định liều heparin duy trì Bấm nút Dialyse và kiểm tra các đèn báo an toàn của máy Cố định đường dây vào ga, tránh để dây quét trên đất và theo dõi quá trình lọc máu.

Các tiêu chí theo dõi trong buổi lọc máu:

Huyết áp, mạch của người bệnh từng giờ

Kiểm tra áp lực động mạch, tĩnh mạch, áp lực xuyên màng

Theo dõi nồng độ dịch lọc (thành phần Na + và bicarbonat)

Theo dõi đường huyết ở người bệnh tiểu đường

Toàn trạng trạng người bệnh

Tất cả các dấu hiệu phải ghi chép đầy đủ g Trả máu về cho người bệnh - kết thúc buổi lọc

Trả máu lại máu cho người bệnh là đưa toàn bộ máu ở vòng tuần hoàn vào cơ thể người bệnh và kết thúc buổi lọc

Trên màn hình thời gian là 0.00 -> kết thúc buổi lọc máu

Trả máu cho người bệnh:

+ Dừng bơm máu, kẹp kim “động mạch” và dây “động mạch”

Tháo kim "động mạch" và kết nối đường dây "động mạch" với dịch NaCl 0,9% trong chai 500ml Mở kẹp đường "động mạch" và cho bơm máu hoạt động với tốc độ thấp, để nước muối từ từ đẩy máu vào cơ thể bệnh nhân cho đến khi quả lọc sạch máu Trong quá trình này, cần vỗ nhẹ vào quả lọc và kẹp nhẹ vào đường dây để tránh tình trạng máu tồn đọng trong tuần hoàn.

+ Trả lại máu ở kim “động mạch” cho người bệnh bằng bơm tiêm có nước muối sinh lý

+ Dừng bơm máu khi vòng tuần hoàn đã sạch máu

+ Kẹp kim “tĩnh mạch” và đường dây “tĩnh mạch”

+ Đấu hai đầu dây lại và cho quả lọc vào túi

+ Rút kim FAV ra khỏi tay người bệnh, ép vào điểm chọc 15 - 20 phút h Theo dõi sau buổi lọc

Sau khi lọc các tham số cần phải theo dõi:

Huyết áp, mạch ở các tư thế đứng, nằm

Các dấu hiệu của cao hoặc tụt huyết áp

Cân người bệnh: cân lúc kết thúc phải bằng cân khô

Dấu hiệu của người bệnh do rút cân quá hoặc rút không đủ

Cơ sở thực tiễn

2.2.1 Thực trạng biến chứng tụt huyết áp của người bệnh lọc máu chu kỳ 2.2.1.1 Thực trạng biến chứng tụt huyết áp của người bệnh lọc máu chu kỳ trên thế giới

Theo nghiên cứu ở Mỹ và Nhật, số bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối điều trị lọc máu gia tăng đáng kể từ năm 2000 đến 2005, với ước tính toàn cầu đạt 1.492.000 người Dự báo đến cuối năm 2010, số bệnh nhân lọc máu ở Nhật và Mỹ sẽ lần lượt là 300.000 và 500.000, với tổng số toàn cầu là 2.100.000 Tụt huyết áp là biến chứng phổ biến nhất trong quá trình lọc máu, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả điều trị và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân, với tỷ lệ xảy ra từ 20% đến 50% trong các buổi lọc máu Các nghiên cứu cho thấy tần suất hạ huyết áp trong lọc máu dao động từ 6% đến 27%, trong đó 10% bệnh nhân gặp tình trạng này thường xuyên Nghiên cứu của Tisler và cộng sự khảo sát 958 bệnh nhân cho thấy 96 bệnh nhân thường xuyên bị hạ huyết áp, trong khi Capuano A et al chỉ ra rằng 44% bệnh nhân trên 65 tuổi và 32% bệnh nhân dưới 45 tuổi gặp tình trạng hạ huyết áp trong lọc máu.

[20] Một nghiên cứu khác cũng nhận thấy nồng độ albumin ở những bệnh nhân bị hạ huyết áp trong lọc máu cũng thấp hơn nhóm chứng [21]

2.2.1.1 Thực trạng biến chứng tụt huyết áp của người bệnh lọc máu chu kỳ tại Việt Nam

Tại Bệnh viện Đa Khoa Quảng Nam, có 103 bệnh nhân đang thực hiện lọc máu chu kỳ với tần suất 1 lần mỗi tuần, mỗi lần kéo dài 3 giờ Từ tháng 3 đến tháng 7 năm 2015, Bệnh viện Quân y 121 quân khu 9 đã điều trị cho 30 bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối bằng phương pháp lọc máu chu kỳ.

Nghiên cứu của tác giả Trần Hữu Nhựt và Trần Công Lộc tại bệnh viện Quân Y 17 đã tiến hành trên 70 bệnh nhân cần lọc máu, với kết quả cho thấy số lượng bệnh nhân tụt huyết áp trong quá trình điều trị.

Tụt huyết áp (HA) trong quá trình lọc máu là một vấn đề đáng chú ý, với tỷ lệ 24% và tổng số lần xảy ra là 84 lần (5,1%) Thời điểm xảy ra tụt HA cao nhất là vào giờ thứ 4 của buổi lọc máu, đạt 52,3% (p < 0,05) Nhóm tuổi trên 60 có tỷ lệ tụt HA 6,8%, cao hơn so với nhóm dưới 30 tuổi (2,6%) (p < 0,05) Bên cạnh đó, những bệnh nhân có mức tăng cân trên 3kg giữa hai kỳ lọc máu có tỷ lệ tụt HA là 5,9%, cao hơn nhóm tăng cân từ 1,0-2,0kg (2,5%) (p < 0,05) Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Hải cũng chỉ ra rằng tỷ lệ tụt HA trong buổi lọc máu lần đầu đạt 54,5%.

Năm 2010, Đỗ Văn Tùng đã nghiên cứu 92 bệnh nhân với 560 lần lọc máu chu kỳ và phát hiện rằng 12% số buổi lọc xảy ra tụt huyết áp, trong khi 38% bệnh nhân có ít nhất một lần tụt huyết áp trong quá trình lọc Nghiên cứu cũng chỉ ra mối liên quan giữa các biến chứng với mức siêu lọc, mức độ thiếu máu, cũng như nồng độ ure, creatinin, protein và albumin trong máu.

Nghiên cứu của Đỗ Lan Phương trên 111 bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối tại bệnh viện Bạch Mai từ tháng 3 đến tháng 10 năm 2015 cho thấy tỷ lệ tụt huyết áp (HA) là 35,1% Đặc biệt, 43,6% trường hợp tụt HA xảy ra vào giờ thứ ba của buổi lọc máu, thường đi kèm với các triệu chứng như da ẩm, lạnh, vã mồ hôi, hoa mắt, chóng mặt, chuột rút, buồn nôn, nôn, đau bụng và đi ngoài Tỷ lệ tụt HA ở nhóm bệnh nhân có chỉ số BMI < 18,5 cao hơn so với nhóm BMI ≥ 18,5 (p < 0,05) Ngoài ra, nhóm bệnh nhân có chỉ số IDWG > 5% trọng lượng khô cơ thể cũng có tỷ lệ tụt HA cao hơn nhóm IDWG ≤ 5% (p < 0,05) Tương tự, tỷ lệ tụt HA ở nhóm bệnh nhân có nồng độ Hb < 105 g/l cũng cao hơn so với nhóm có nồng độ Hb ≥ 105 g/l.

Hb ≥ 105 g/l (p < 0,05) Tỷ lệ tụt HA ở nhóm BN có nồng độ albumin máu < 40 g/l lớn hơn ở nhóm có albumin máu ≥ 40 g/l (p < 0,05) [7]

2.2.2 Một số giải pháp dự phòng biến chứng tụt huyết áp ở người bệnh lọc máu [9]

Tình trạng dự trữ nước trong cơ thể cần được đánh giá thường xuyên qua thăm khám lâm sàng Nếu không thể kết luận bằng các kỹ thuật thăm khám thông thường, cần xem xét sử dụng các phương pháp khách quan khác để đánh giá tình trạng này Để giám sát và dự phòng biến chứng tụt huyết áp, việc đo huyết áp và nhịp tim thường xuyên trong quá trình lọc máu là rất quan trọng.

Nên đánh giá tình trạng bệnh lý tim ở những BN thường gặp biến chứng tụt huyết áp

2.2.2.2 Thay đổi lối sống Để kiểm soát tình trạng tăng cân giữa các lần lọc máu và giảm nguy cơ xảy ra biến chứng tụt huyết áp, nên thực hiện chế độ ăn kiêng muối và không quá 6g/ngày trừ khi có chống chỉ định

Nên tránh ăn ngay trước và trong quá trình lọc máu đối với bệnh nhân có nguy cơ biến chứng tụt huyết áp Đối với những bệnh nhân dinh dưỡng kém, cần cân nhắc giữa nhu cầu dinh dưỡng và tác động của bữa ăn lên huyết động trong khi lọc máu Việc đánh giá ảnh hưởng của các bữa ăn nhẹ hoặc chính trước khi lọc máu là cần thiết để đảm bảo tình trạng huyết động học ổn định trong quá trình điều trị.

Giáo dục bệnh nhân về chế độ ăn uống là rất quan trọng để hạn chế tăng cân giữa các kỳ lọc, với mức tăng không được vượt quá 1 kg/ngày Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng việc nhấn mạnh hạn chế muối trong khẩu phần ăn có hiệu quả hơn so với việc hạn chế lượng dịch Đánh giá cân khô của bệnh nhân một cách cẩn thận được coi là yếu tố quan trọng trong việc phòng ngừa biến chứng tụt.

Việc xác định cân khô cho bệnh nhân lọc máu chu kỳ chủ yếu dựa vào các đánh giá lâm sàng như phù, tăng huyết áp, tụt huyết áp và chuột rút Ngoài ra, khả năng đáp ứng của người bệnh trong mỗi buổi lọc với mức siêu lọc được chỉ định cũng là yếu tố quan trọng cần xem xét.

Thực trạng

Thực trạng biến chứng tụt huyết áp ở người lọc máu chu kỳ tại trung tâm thận lọc máu bệnh viện đa khoa thanh hóa tháng 7 năm 2018

3.1.1 Giới thiệu tổng quan về Trung tâm Thận-Lọc máu Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hóa

Trung tâm Thận-Lọc máu Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hóa, được thành lập từ năm 1994 và chính thức đổi tên vào năm 2012, hiện có 04 bác sĩ và 39 điều dưỡng, luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ điều trị Số lượng bệnh nhân tại trung tâm ngày càng tăng, từ vài chục ca mỗi tháng trong những năm đầu lên tới khoảng 4000 ca cho bệnh nhân cấp cứu và suy thận mãn tính trong những năm gần đây Hằng tháng, trung tâm tiếp nhận hơn 400 bệnh nhân suy thận giai đoạn cuối cần chạy thận nhân tạo chu kỳ, với số lượng này không ngừng gia tăng Đặc biệt, trong năm 2017, trung tâm đã ghi nhận gần 60.000 lượt chạy thận nhân tạo, tăng 10% so với năm 2016.

Tại thời điểm tháng 7 năm 2018 mỗi ngày Trung tâm Thận lọc máu cho khoảng 220 ca/ngày

Chức năng và nhiệm vụ của quy trình lọc máu bao gồm: lọc máu chu kỳ cho bệnh nhân suy thận mạn và suy thận cấp, điều trị ngộ độc, siêu lọc thẩm tách bù dịch cho bệnh nhân suy thận cấp, cũng như lọc máu hấp phụ cho bệnh nhân ngộ độc cấp và suy thận mạn Ngoài ra, quy trình còn bao gồm việc đặt catheter tĩnh mạch trung tâm để thực hiện lọc máu hiệu quả.

Hình 3.1 Chuẩn bị giường bệnh trước giờ lọc máu chu kỳ

Hình 3.2 Người bệnh lọc máu chu kỳ hàng tháng

3.1.2 Thực trạng biến chứng tụt huyết áp ở người lọc máu chu kỳ tại trung tâm Thận Lọc Máu Bệnh viện Đa khoa Thanh Hóa tháng 7 năm 2018

Tụt huyết áp là biến chứng cấp thường gặp nhất trong quá trình lọc máu, có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng lọc và đe dọa tính mạng bệnh nhân Người điều dưỡng đóng vai trò quan trọng trong việc phát hiện, phòng ngừa và điều trị biến chứng này Theo dõi tình trạng huyết động của bệnh nhân trong suốt quá trình lọc là yếu tố quyết định đến thành công của điều trị.

Trong tháng 7/2018, Trung tâm Thận Lọc Máu Bệnh viện Đa Khoa tỉnh Thanh Hóa đã tiếp nhận 400 trường hợp lọc máu chu kỳ Tất cả bệnh nhân đều đến để thực hiện lọc máu định kỳ Nhằm phát hiện sớm tình trạng tụt huyết áp, điều dưỡng tại trung tâm thực hiện kiểm tra huyết áp và cân nặng trước khi tiến hành lọc máu, đồng thời ghi nhận các dấu hiệu để báo cáo bác sĩ điều trị Sau đó, bệnh nhân sẽ được thực hiện các xét nghiệm cần thiết trước giờ lọc, tất cả các công việc này đều nhằm hạn chế rủi ro trong quá trình điều trị.

Trong quá trình lọc máu chu kỳ, điều dưỡng viên cần theo dõi chặt chẽ tình trạng của người bệnh, đặc biệt là các chỉ số sinh tồn Việc đo huyết áp được thực hiện vào giờ thứ nhất, thứ hai, thứ ba và tiếp tục kiểm tra sau khi kết thúc quá trình lọc máu để đảm bảo an toàn cho bệnh nhân.

Để phát hiện tụt huyết áp, điều dưỡng cần chú ý đến các dấu hiệu như chóng mặt, đau đầu nhẹ, hoặc nôn Trong một số trường hợp, có thể quan sát thấy sự co rút cơ, nhưng không phải lúc nào cũng có dấu hiệu lâm sàng rõ rệt; triệu chứng thường chỉ xuất hiện khi huyết áp giảm xuống quá thấp Khi đo huyết áp, nếu kết quả dưới 90/60, cần ghi lại vào phiếu theo dõi (Phần phụ lục 1).

Khi người bệnh gặp tình trạng tụt huyết áp hoặc có dấu hiệu tụt huyết áp, điều dưỡng cần nhanh chóng cho bệnh nhân nằm ở tư thế Trendelenburg, đồng thời ngừng quá trình lọc và thông báo ngay cho bác sĩ điều trị để thực hiện các biện pháp điều chỉnh phù hợp.

3.1.2.2 Thực trạng tụt huyết áp

Trong tháng 7, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu với 400 bệnh nhân lọc máu chu kỳ, tất cả đều đồng ý tham gia, có khả năng giao tiếp và không mắc các biến chứng nặng.

Bảng 3.1 Phân bố đối tượng nghiên cứu theo nhóm tuổi, giới tính (n@0)

Biến số Số lượng Tỷ lệ (%)

Nhận xét: Tỷ lệ người bệnh lọc máu chu kỳ ở độ tuổi 25-64 chiếm 68,5%, người bệnh là nữ giới nhiều hơn nam giới chiếm 55,6%

Bảng 3.2 Phân bố đối tượng nghiên cứu theo trình độ học vấn, dân tộc

Nội dung Số lượng Tỷ lệ (%)

Trung học/cao đẳng, đại học 67 16,7

Tỷ lệ bệnh nhân lọc máu chu kỳ có trình độ học vấn cấp 1 chiếm 33,3%, trong khi đó, những người có trình độ trung học trở lên chỉ chiếm 16,7% Đặc biệt, 77,8% trong số đó là người dân tộc Kinh.

Bảng 3.3 Phân bố đối tượng theo nghề nghiệp, thời gian mắc bệnh (n@0)

Nội dung Số lượng Tỷ lệ (%)

Có 33,3% người bệnh là nông dân, đối tượng là hưu trí chiếm 8,4% Thời gian lọc máu từ 1-5 năm chiếm 50,6%, đối tượng lọc máu dưới 1 năm chiếm 9,8%

Bảng 3.4 Phân bố đối tượng nghiên cứu theo mức độ thiếu máu, nồng độ albumin máu (n@0)

Nội dung Số lượng Tỷ lệ (%)

Thiếu máu nặng (70g/l ≤ Hemoglobin < 80 g/l) 49 12,3 Không thiếu máu (≥110g/l) 72 18,0 Nồng độ Albumin máu ≥ 40 (g/l) 178 44,6

Có 82% người bệnh lọc máu chu kỳ bị thiếu máu, 55,5% người bệnh có nồng độ albumin< 40 g/l

Bảng 3.5 Phân bố đối tượng nghiên cứu theo BMI, IDWG tăng cân giữa hai kỳ lọc máu (N@0) Nội dung Số lượng Tỷ lệ (%)

Có 8,7% người bệnh có chỉ số BMI cao >25, Tỷ lệ người bệnh tăng cân >5% giữa 2 chu kỳ lọc máu chiếm 24,8%

Bảng 3.6 Phân loại huyết áp trước lọc (N@0)

HA trước lọc Số lượng Tỷ lệ (%)

Trước khi lọc máu không có người bệnh nào tụt huyết áp Tỷ lệ người bệnh có huyết áp bình thường chiếm 78,9%

Bảng 3.7 Phân loại huyết áp trong lọc (N@0)

HA trong lọc Số lượng Tỷ lệ (%)

Trong quá trình lọc máu có 100 người bệnh tụt huyết áp chiếm 25%, có 47,2% người bệnh có huyết áp bình thường

Bảng 3.8 Phân loại huyết áp sau lọc (N@0)

HA sau lọc Số lượng Tỷ lệ (%)

Sau lọc máu có 22 người bệnh tụt huyết áp chiếm 5,6%, có 58,3% có huyết áp bình thường

Bảng 3.9 Thời điểm tụt huyết áp (N2)

Thời điểm tụt huyết áp Số lượng Tỷ lệ (%)

Thời điểm hay xảy ra tụt huyết áp xảy ra ở tất cả các giờ, nhiều nhất là giờ thứ

4 chiếm 45,9%; thấp nhât là giờ đầu tiên chỉ có 8,2%

Bảng 3.10 Triệu chứng lâm sàng đi kèm khi tụt huyết áp (N2) Triệu chứng đi kèm Số lượng (SL) Tỷ lệ (%)

Da ẩm, lạnh, vã mồ hôi 56 45,5

Triệu chứng lâm sàng đi kèm với tụt huyết áp hay gặp da lạnh, vã mồ hôi chiếm 45,5%, tiếp đến là biểu hiện hoa mắt chóng mặt chiếm 27,3%

Bảng 3.11 Mối liên quan giữa đặc điểm (tuổi, giới tính, dân tộc, trình độ học vấn, nghề nghiệp) với biến chứng tụt huyết áp

Biến số BC tụt HA p (test  2 )

Học vấn Cấp 3 trở lên 64(38,3) 103 (61,7)

Công nhân,công chức, hưu trí 68 (32,1) 144 (67,9)

Kết quả phân tích cho thấy rằng các đặc điểm nhân khẩu học của bệnh nhân, bao gồm tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp, giới tính và dân tộc, không có mối liên hệ với biến chứng tụt huyết áp trong quá trình lọc máu chu kỳ, với giá trị p > 0,05.

Bảng 3.12 Mối liên quan giữa chỉ số BMI, IDWG, Hb, nồng độ Albumin với biến chứng tụt huyết áp

Kết quả phân tích cho thấy có mối liên hệ giữa các yếu tố như BMI, IDWG, mức độ thiếu máu và nồng độ Albumin máu với biến chứng tụt huyết áp trong quá trình lọc máu chu kỳ, với giá trị p < 0,05.

Một số ưu điểm và tồn tại về hoạt động dự phòng biến chứng tụt huyết áp cho người bệnh lọc máu chu kỳ tại trung tâm

3.2.1 Một số ưu điểm và nguyên nhân

Cán bộ trung tâm Thận Lọc Máu làm việc với tinh thần trách nhiệm cao

Tổ chức giao ban hàng ngày và hàng tháng giữa cán bộ trong khoa giúp theo dõi diễn biến sức khỏe của người bệnh, kịp thời phát hiện bất thường Đây cũng là cơ hội để cán bộ học hỏi kinh nghiệm trong điều trị và chăm sóc người bệnh Người bệnh được thăm khám liên tục trước, trong và sau quá trình lọc máu để phát hiện sớm biến chứng tụt huyết áp Mỗi bệnh nhân đều có một bệnh án riêng, với đầy đủ ghi chép về quá trình thăm khám và chăm sóc.

Người bệnh đến chu kỳ lọc máu được làm các xét nghiệm đầy đủ

Người bệnh lọc máu chu kỳ đã có thời gian lọc máu từ một năm trở lên chiếm tỷ lệ 90,2%

Có đầy đủ phương tiện cấp cứu và xử trí khi có biến chứng tụt huyết áp

Có sự quan tâm của Ban giám đốc bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hóa

Cán bộ y tế đã thực hiện đúng theo hướng dẫn điều trị chăm sóc đối với người bệnh lọc máu chu kỳ

3.2.2 Một số nhược điểm và nguyên nhân

Số lượng cán bộ y tế trong khoa còn khiêm tốn, kiêm nhiệm nhiều việc

Công tác tư vấn giáo dục sức khỏe về phòng ngừa biến chứng tụt huyết áp vẫn chưa được chú trọng đúng mức Hiện tại, chưa có phòng tư vấn chuyên biệt và đội ngũ chuyên viên giáo dục sức khỏe dành riêng cho bệnh nhân trong lĩnh vực này.

Người bệnh lọc máu chu kỳ có trình độ từ cấp 2 trở xuống chiếm 58,3% Người bệnh tự theo dõi cân nặng trước và sau lọc máu

Người bệnh không được thường xuyên giám sát về chế độ dinh dưỡng

Tại khoa, hiện chưa có nghiên cứu nào về biến chứng tụt huyết áp trong quá trình lọc máu chu kỳ Do đó, cần thiết phải đề xuất các giải pháp nhằm hạn chế biến chứng này để cải thiện hiệu quả điều trị và bảo vệ sức khỏe bệnh nhân.

Bác sĩ khám và điều trị cho bệnh nhân, trong khi đó, điều dưỡng tiếp đón và thực hiện y lệnh chăm sóc Họ cũng tư vấn về chế độ dinh dưỡng, giáo dục sức khỏe, và ghi chép sổ sách cùng bệnh án một cách cẩn thận.

Số lượng người bệnh thường xuyên đông do vậy cường độ làm việc của điều dưỡng rất căng thẳng

Thủ tục hành chính phức tạp khiến cán bộ y tế không có đủ thời gian để thực hiện đầy đủ nhiệm vụ tư vấn thay đổi lối sống nhằm hạn chế biến chứng tụt huyết áp Việc tư vấn chế độ ăn hạn chế muối dưới 6g/ngày và hạn chế ăn trước cũng như trong quá trình lọc máu là rất cần thiết Đồng thời, giáo dục người bệnh về chế độ ăn để kiểm soát cân nặng giữa các kỳ lọc là vô cùng quan trọng, với quy định không để người bệnh tăng quá 1 kg/ngày.

Cán bộ y tế chú trọng tới công tác điều trị chăm sóc hơn là công tác phòng bệnh

Người bệnh lọc máu chu kỳ chủ yếu được điều trị ngoại trú, do vậy khó khăn trong việc giám sát về dinh dưỡng tại nhà

Chưa khuyến khích xứng đáng đối với cán bộ làm đề tài

Đề xuất một số giải pháp

Đối với bệnh viện và nhân viên y tế

Tiếp tục thực hiện khám sàng lọc để phát hiện người bệnh có nguy cơ tụt huyết áp, bao gồm những trường hợp có chỉ số BMI < 18,5, mức tăng cân giữa hai chu kỳ lọc > 5%, thiếu máu, và nồng độ albumin máu < 40g/l Cần giám sát chính xác cân nặng trước và sau khi lọc máu, cũng như trọng lượng khô của người bệnh Điều dưỡng phải theo dõi tình trạng toàn thân và dấu hiệu sinh tồn, đặc biệt là huyết áp, mỗi 30 phút đối với những bệnh nhân có nguy cơ Trong suốt quá trình lọc máu, điều dưỡng cần chủ động theo dõi tình trạng lâm sàng và huyết áp, đặc biệt là vào giờ thứ ba để phát hiện sớm tụt huyết áp và xử trí kịp thời Hợp tác với bác sĩ trong việc điều trị thiếu máu và suy dinh dưỡng cho người bệnh lọc máu là rất quan trọng.

Nghiên cứu giảm bớt thủ tục hành chính để điều dưỡng có thời gian tư vấn giáo dục sức khỏe cho người bệnh

Cử điều dưỡng có kinh nghiệm cung cấp tư vấn giáo dục dinh dưỡng, đặc biệt về khẩu phần ăn nhằm hạn chế tăng cân giữa hai chu kỳ lọc máu, với chế độ ăn kiêng muối không vượt quá 6g/ngày Đồng thời, việc thành lập phòng tư vấn giáo dục sức khỏe đã được thực hiện và hoạt động hiệu quả.

Mỗi tuần, chúng tôi tổ chức thảo luận và họp hội đồng cho bệnh nhân lọc máu chu kỳ có nguy cơ tụt huyết áp, trong khi đối với những bệnh nhân có nguy cơ thấp hơn, các cuộc họp diễn ra hai tuần một lần.

Phối hợp với người nhà trong việc giám sát tuân thủ điều trị và chăm sóc tại nhà

Khoa dinh dưỡng đã phát hành tài liệu hướng dẫn chế độ ăn uống dành cho những người bệnh suy dinh dưỡng, thiếu máu và có nồng độ albumin máu thấp Tài liệu này cung cấp thông tin chi tiết về các thực phẩm cần thiết, chế độ dinh dưỡng hợp lý và những lưu ý quan trọng để cải thiện tình trạng sức khỏe của bệnh nhân.

Trung tâm cần trang bị cân đo trọng lượng loại tốt phục vụ cho người bệnh theo dõi cân nặng được chính xác.

Đối với người bệnh

Tránh các bữa ăn ngay trước và trong lọc máu ở những người bệnh có IDWG>5% Thực hiện uống thuốc điều trị thiếu máu, suy dinh dưỡng

Hợp tác với điều dưỡng trong công tác chăm sóc

Tuân thủ điều trị và chăm sóc của cán bộ y tế

Thay đổi lối sống và thói quen có ảnh hưởng lớn đến sức khỏe, đặc biệt là trong việc quản lý bệnh tật Hạn chế tiêu thụ muối và nước là rất quan trọng, cùng với việc kiểm soát cân nặng Tuân thủ chế độ ăn uống phù hợp dành cho người lọc máu chu kỳ sẽ giúp cải thiện tình trạng sức khỏe và nâng cao chất lượng cuộc sống.

Tuân thủ thời gian hẹn tái khám định kỳ, lọc máu chu kỳ

Ngày đăng: 03/09/2021, 10:21

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w