PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Con người là trung tâm của xã hội, và dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền được bảo vệ và phát triển về thể lực và trí tuệ là vô cùng quan trọng Sức khỏe được coi là tài sản quý giá, là nền tảng để con người hướng tới những mục tiêu cao cả Quyền bất khả xâm phạm về tính mạng và sức khỏe đã được ghi nhận trong bản tuyên ngôn về nhân quyền và Hiến Pháp 1992 của Việt Nam, khẳng định rằng công dân có quyền được bảo vệ về thân thể và danh dự Đấu tranh chống tội phạm và duy trì trật tự xã hội là nhiệm vụ quan trọng của nhà nước, thực hiện qua giáo dục, tổ chức kinh tế xã hội và pháp luật, trong đó Bộ luật hình sự là công cụ hiệu quả nhất để bảo vệ lợi ích của nhà nước và xã hội Tuy nhiên, việc xử lý hình sự không phải là biện pháp duy nhất; trong nhiều trường hợp, giáo dục và cải tạo người phạm tội có thể mang lại hiệu quả tốt hơn Bộ luật hình sự Việt Nam đã cụ thể hóa các quy định bảo vệ quyền con người, trừng phạt các hành vi xâm phạm tính mạng và sức khỏe, với chương XII quy định 18 điều liên quan, trong đó điều 104 quy định rõ về hành vi xâm phạm sức khỏe con người, cần được pháp luật nghiêm trị.
Trong những năm qua, tình hình phạm tội cố ý gây thương tích và tổn hại sức khỏe cho người khác tại Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh diễn ra phức tạp và phổ biến Nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề này, tôi, một sinh viên khoa Luật tại Trường Đại Học Vinh, đã chọn đề tài “Tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại đến sức khỏe cho người khác và thực tiễn xét xử tại tòa án quân sự - khu vực 1 - Quân Khu 4” trong đợt thực tập cuối khóa tại Tòa án Quân sự Khu vực I Quân Khu 4 Đây là lần đầu tiên tôi nghiên cứu vấn đề này, và với trình độ nghiên cứu còn hạn chế, tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp từ thầy cô và bạn bè để hoàn thiện chuyên đề của mình.
Mục đích nghiên cứu đề tài
Bài nghiên cứu này nhằm mục đích đóng góp vào việc xây dựng chính sách pháp luật liên quan đến Bộ luật hình sự năm 1999, đặc biệt là điều 104 về tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe cho người khác.
Phạm vi nghiên cứu đề tài
Tình hình tội phạm tại Việt Nam đang có xu hướng gia tăng và diễn biến phức tạp Kể từ khi Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực từ ngày 01/07/2000, cùng với nghị quyết số 09/1998 – NQCP và chương trình quốc gia phòng chống tội phạm, chúng ta đang nỗ lực duy trì kỷ cương pháp luật và bảo vệ môi trường sống lành mạnh.
Bộ luật hình sự đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà nước và công dân, ngăn chặn các hành vi phạm tội Đồng thời, nó cũng có nhiệm vụ giáo dục cộng đồng về việc tuân thủ pháp luật và thúc đẩy công tác phòng chống tội phạm.
Biện pháp hình sự tại Việt Nam đối với hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của con người đang ngày càng được hoàn thiện, thể hiện sự cam kết bảo vệ quyền lợi và an toàn cho công dân.
4 Phương pháp nghiên cứu đề tài
Trong khuôn khổ đề tài tốt nghiệp, tôi đã áp dụng phương pháp phân tích tổng hợp, thống kê và so sánh dựa trên kết quả khảo sát và tài liệu nghiên cứu về tội phạm hình sự, đặc biệt là tội cố ý gây thương tích Qua quá trình trao đổi với cán bộ tại Tòa án Quân sự - Khu vực I - Quân khu 4, tôi đã tổng kết thực trạng công tác phòng ngừa tội cố ý gây thương tích Từ đó, tôi đánh giá ưu điểm, hạn chế và đề xuất các giải pháp thiết thực nhằm nâng cao chất lượng công tác phòng ngừa Dưới đây là những kiến thức mà tôi đã thu thập được trong thời gian thực tập tại tòa án.
Sự - Khu Vực I - Quân Khu 4
Bố cục của chuyên đề
Ngoài phần mục lục, danh mục từ viết tắt, bảng biểu, tài liệu tham khảo chuyên đề được chia làm 3 phần chính:
Chương 1 Nội dung cơ bản của tội cố ý gây thương tích
Chương 2 Thực trạng, nguyên nhân, điều kiện và biện pháp đấu tranh phòng ngừa tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe cho người khác
PHẦN NỘI DUNG
1.1 SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA NHÀ NƯỚC TA TRONG VIỆC ĐẤU TRANH TỘI
CỐ Ý GÂY TÍCH CHO NGƯỜI KHÁC
Ngay sau khi giành được chính quyền, Chính phủ non trẻ đã nhận thức rằng cố ý gây thương tích là một tội phạm nguy hiểm cho xã hội Do đó, bên cạnh việc chống lại kẻ thù trong và ngoài nước, Nhà nước đã ban hành sắc lệnh 17 LS ngày 10/10/1945, cho phép giữ lại các luật lệ cũ không trái với chế độ mới, trong đó có quy định về tội cố ý gây thương tích.
Sau năm 1954, hệ thống pháp luật ở miền Bắc được củng cố, với việc bãi bỏ các luật lệ cũ và quy định tội cố ý gây thương tích theo thông tư 442/TTg ngày 19/11/1945 Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng vào năm 1975, sắc lệnh 03 SL ngày 15/3/1976 đã thay thế thông tư cũ, quy định chi tiết hơn về tội phạm, đặc biệt là tội cố ý gây thương tích Ngày 27/6/1985, Quốc hội thông qua Bộ luật hình sự đầu tiên, đánh dấu bước tiến lớn trong pháp luật hình sự Việt Nam Tuy nhiên, nhiều quy định về tội phạm vẫn chưa phù hợp với thực tế tội phạm diễn ra, dẫn đến việc Quốc hội thông qua sửa đổi vào ngày 21/12/1999.
Bộ luật hình sự 1999 trong đó có tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khõe của người khác tại điều 104 – Bộ luật hình sự như sau:
“ 1 Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
KHÁI NIỆM TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân, vì vậy việc bảo vệ sức khỏe của người dân là vô cùng quan trọng Sức khỏe được xem là tài sản quý giá nhất của con người, và mọi hành vi xâm hại đến sức khỏe đều bị coi là vi phạm pháp luật và sẽ bị xử lý nghiêm khắc.
Bộ luật hình sự 1999 quy định rõ ràng về tội cố ý gây thương tích tại điều 104, yêu cầu nghiên cứu một cách khoa học và toàn diện để hiểu rõ hành vi xâm hại sức khỏe người khác Điều 104 chỉ ra rằng tội phạm này bao gồm những thương tích cụ thể, với hành vi của người phạm tội có thể được thực hiện thông qua hành động hoặc không hành động, và có thể xảy ra với lỗi cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp.
Tội cố ý gây thương tích theo quy định của Luật hình sự Đại học luật được định nghĩa là hành vi cố ý làm tổn hại sức khỏe của người khác, thể hiện qua việc gây ra thương tích hoặc tổn thương khác.
Nghiên cứu khái niệm tội phạm giúp chúng ta nhận thức rõ tính nguy hiểm của loại tội phạm này, đồng thời phân biệt nó với các tội phạm và hành vi vi phạm pháp luật khác trong xã hội Để hiểu sâu hơn, cần tìm hiểu các yếu tố cấu thành của tội phạm, được quy định cụ thể trong luật hình sự Cấu thành tội phạm bao gồm những dấu hiệu chung có tính đặc trưng, phản ánh bản chất của loại tội phạm này.
+ Khách thể của tội phạm+ Mặt khách quan của tội phạm+ Mặt chủ quan của tội phạm + Chủ thể của tội phạm
CÁC DẤU HIỆU PHÁP LÝ CỦA TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
1.3.1 Khách thể của tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe cho người khác
Khách thể của tội phạm là yếu tố quan trọng, phản ánh bản chất giai cấp và tính chất nguy hiểm của tội phạm Nghiên cứu khách thể giúp hiểu rõ hơn về các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và những mối đe dọa mà tội phạm gây ra cho chúng.
Khách thể của tội này liên quan đến việc tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của công dân, với sức khỏe của người khác là khách thể trực tiếp Chủ thể được bảo vệ bao gồm những người đang sống và tồn tại trong thế giới khách quan.
1.3.2 Mặt khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe cho người khác
Mặt khách quan của tội phạm được định nghĩa là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm, bao gồm các hành vi và hiện tượng xảy ra trong thế giới khách quan Theo từ điển luật học, nghiên cứu mặt khách quan này là cần thiết để hiểu rõ bản chất và hình thức của tội phạm trong xã hội.
Tội cố ý gây thương tích cho người khác là hành vi vi phạm pháp luật, thể hiện qua các dấu hiệu như cố ý làm tổn hại sức khỏe của nạn nhân Hành vi này không chỉ ảnh hưởng đến thể chất mà còn tác động đến tinh thần của người bị hại.
Hành vi của tội này có khả năng gây thương tích hoặc tổn hại đến sức khỏe của con người, có thể được thực hiện bằng công cụ hoặc không Những hành vi này có thể là hành động hoặc không hành động, nhưng phải gây ra ảnh hưởng cho người khác Nếu hành vi gây hại cho chính mình, thì không được coi là tội này và có thể bị xem xét trong trường hợp trốn tránh nghĩa vụ quân sự.
Hậu quả của tội phạm cố ý gây thương tích yêu cầu thương tích hoặc tổn thương khác với tỷ lệ thương tật từ 11% trở lên hoặc dưới 11% nhưng thuộc các trường hợp quy định tại điểm a, b, c, d, đ, e, g, h, i, k - Khoản 1 – Điều 104 Nếu tỷ lệ thương tật dưới 11% và không nằm trong các trường hợp trên, thì sẽ không cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe cho người khác.
Quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả thương tích hoặc tổn thương khác là yếu tố bắt buộc trong các vụ kiện trách nhiệm dân sự Để xác định có hành vi gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe, cần chứng minh rằng hậu quả tổn thương khác là kết quả trực tiếp từ hành vi đó.
1.3.3 Mặt chủ quan của tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe cho người khác
Mặt chủ quan của tội cố ý gây thương tích cho người khác thể hiện qua các yếu tố tâm lý bên trong của tội phạm, bao gồm lỗi, mục đích và động cơ phạm tội Những yếu tố này đóng vai trò quan trọng trong việc xác định ý thức và quyết tâm thực hiện hành vi phạm tội.
Hành vi cố ý gây thương tích cho người khác được xác định bởi lỗi cố ý, là yếu tố bắt buộc của tội này Lỗi cố ý thể hiện qua việc người phạm tội nhận thức rõ ràng hành vi gây thương tích có tính nguy hiểm cho xã hội, dự đoán được hậu quả và mong muốn hoặc chấp nhận để hậu quả xảy ra Có hai loại lỗi cố ý: lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp, trong đó hành vi cố ý trực tiếp có tính nguy hiểm cao hơn do thái độ tâm lý của người thực hiện.
Mục đích của tội phạm không phải là yếu tố bắt buộc trong cấu thành tội này, mà chỉ có vai trò trong việc lượng hình Nếu có mục đích chống lại chính quyền nhân dân, thì hành vi đó sẽ cấu thành tội khủng bố thay vì tội này Trong trường hợp cố ý gây thương tích, nếu không có ý định rõ ràng về mức độ thương tích, người phạm tội sẽ chịu trách nhiệm hình sự dựa trên mức độ thương tích thực tế xảy ra.
Động cơ phạm tội là yếu tố nội tại thúc đẩy hành vi vi phạm pháp luật, nhưng trong cấu thành tội phạm, động cơ không phải là yếu tố bắt buộc.
1.3.4 Chủ thể của tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe cho người khác
Chủ thể của tội cố ý gây thương tích là một cá nhân cụ thể, người đã gây ra thương tích hoặc tổn hại đến sức khỏe của người khác Người này cần phải có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo quy định của pháp luật.
Năng lực trách nhiệm hình sự là yếu tố cần thiết để xác định liệu một cá nhân có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không Bộ luật Hình sự năm 1999 đã quy định rõ về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và các trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự.
Người thực hiện hành vi gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe cho người khác, nếu đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự, sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự cho hành vi trái pháp luật của mình Điều 104 trong Bộ luật Hình sự quy định bốn khung hình phạt khác nhau, và trong bài viết này, chúng ta sẽ tập trung làm rõ những điểm cần thiết liên quan đến vấn đề này.
- Khi áp dụng 4 khung sau:
1 Khung hình phạt thứ nhất: (K1 – điều 104) tại khung hình phạt này có mức hình phạt cải tạo không giam giữ 3 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm Khung này áp dụng cho trường hợp phạm tội không có tình tiết định khung tăng nặng quy định tại khoản 2, 3 và 4 điều 104.
Khi áp dụng Khoản 1 Điều 104 trong xét xử thì phải lưu ý những điểm sau:
NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH CỦA
So với BLHS năm 1985, Điều 104 BLHS năm 1999 đã được điều chỉnh để xác định trách nhiệm hình sự (TNHS) dựa trên tỷ lệ thương tật Tuy nhiên, nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, luật pháp quy định một số trường hợp mà hành vi cố ý gây thương tích có tỷ lệ thương tật dưới 11% vẫn bị truy cứu TNHS Những trường hợp này cũng được coi là dấu hiệu định khung hình phạt, tương tự như các quy định về tội giết người tại các khoản 2 và 3 của Điều 104 BLHS.
Theo Bộ luật Hình sự 1999, tại khoản 4 điều 104, những trường hợp gây ra cái chết cho nhiều người hoặc các tình huống đặc biệt nghiêm trọng sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự với khung hình phạt từ 5 đến 15 năm tù giam hoặc tù chung thân Đây là quy định mới, nghiêm khắc hơn so với điều 104 của Bộ luật Hình sự 1985.
BLHS, đặc biệt là điều 104, đã mở rộng bảo vệ con người, nhấn mạnh vai trò quan trọng của con người trong sự phát triển.
THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN, ĐIỀU KIỆN VÀ BIỆN PHÁP ĐẤU TRANH PHÒNG NGỪA TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC TỔN HẠI SỨC KHỎE CHO NGƯỜI KHÁC ( ĐIỀU 104 )
THỰC TRẠNG TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm tại Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh diễn biến nghiêm trọng, với số vụ phạm tội không giảm so với năm trước, trung bình mỗi năm xảy ra 8 vụ Mặc dù nền kinh tế đã ổn định và đời sống nhân dân được cải thiện, sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã tạo ra nhiều thách thức cho lực lượng lao động, dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp gia tăng và nhiều tệ nạn xã hội Các tội phạm như hiếp dâm, buôn bán phụ nữ, mại dâm, ma túy và buôn lậu ngày càng gia tăng và mang tính chất nguy hiểm hơn Đặc biệt, tại Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh đã xuất hiện nhiều băng nhóm tội phạm có sự câu kết chặt chẽ, không chỉ ở nông thôn mà còn tại các đô thị và trong các cơ quan, gây lo ngại lớn cho chính quyền và nhân dân.
Theo thống kê của Tòa án Quân Sự - Khu Vực I - Quân Khu 4
Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh là những khu vực rộng lớn với dân số đông, dẫn đến khó khăn trong việc quản lý và giám sát tình hình tội phạm hình sự, đặc biệt là tội cố ý gây thương tích Trong những năm gần đây, sự phát triển của nền kinh tế thị trường đã khiến nhiều người lao động bị cuốn vào việc kiếm tiền, dẫn đến việc một số cá nhân đánh mất giá trị nhân bản và đạo đức, chỉ vì những mâu thuẫn nhỏ Hậu quả là những hành vi bạo lực xảy ra, gây thương tích nặng nề, chủ yếu tại các thôn xóm có trình độ dân trí còn hạn chế.
- Đặc điểm của đối tượng phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại tới sức khỏe của người khác:
Đối tượng phạm tội chủ yếu là nam giới, chiếm tỷ lệ cao hơn nữ giới, do nam giới dễ bị ảnh hưởng bởi môi trường và có tính cách nóng nảy, dẫn đến tâm lý tiêu cực và dễ mắc phải thói hư tật xấu Hơn nữa, nam giới thường có mức độ nguy hiểm cao hơn trong các hành vi phạm tội Từ năm 2008 đến 2010, tỷ lệ nữ giới phạm tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại đến sức khỏe người khác vẫn chiếm tỷ lệ rất nhỏ.
+ Về độ tuổi: Dựa theo số liệu thống kê qua các năm từ năm 2008 tới
Vào năm 2010, đối tượng phạm tội chủ yếu nằm trong độ tuổi từ 18 đến 45, với 80% tổng số bị cáo trong năm 2009 thuộc nhóm tuổi này Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là do đây là giai đoạn phát triển tính cách mạnh mẽ, dễ bị tác động bởi các yếu tố khách quan Hơn nữa, sự thiếu hiểu biết về pháp luật cùng với tính khí nóng nảy của đa số nam giới trong độ tuổi này đã dẫn đến những hành vi phạm tội liều lĩnh Trong khi đó, tỷ lệ người chưa thành niên phạm tội lại rất thấp.
Nhân thân của người phạm tội cố ý gây thương tích tại Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh rất đa dạng, bao gồm nhiều thành phần khác nhau Trong số đó, có những đối tượng từng có tiền án, tiền sự, và một số người sau khi cải tạo lại tiếp tục tái phạm Đặc biệt, những đối tượng này thường có trình độ văn hóa và địa vị xã hội thấp.
+ Phương pháp thủ đoạn của tội phạm :
Tội cố ý gây thương tích, giống như nhiều loại tội phạm khác, có những đặc điểm riêng về phương pháp và thủ đoạn thực hiện Qua quá trình nghiên cứu tại các địa bàn Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh, chúng tôi nhận thấy rằng đối tượng phạm tội thường có tính cách hung hăng, sẵn sàng sử dụng các dụng cụ nguy hiểm mà không quan tâm đến tính mạng của bản thân và vi phạm pháp luật.
Trong những năm qua, Tòa án Quân Sự - Khu Vực I - Quân Khu 4 đã có những tiến bộ đáng kể trong việc xét xử các vụ án phạm tội cố ý gây thương tích Dựa trên số liệu thống kê từ năm 2008 đến 2010, tỷ lệ xét xử các vụ án này luôn đạt 100% Sự gia tăng này là kết quả của việc tập trung chỉ đạo và giải quyết nhanh chóng các vụ án, cùng với nỗ lực của hội đồng xét xử và các cơ quan liên quan.
Trả lại viện kiểm sát 0 0 0
Tòa án đã xét xử 2 2 3
Số vụ án còn lại 0 0 0
Tỷ lệ % số vụ án đã xét xử 100% 100% 100%
Theo thống kê từ Tòa án Quân Sự - Khu Vực I - Quân Khu 4, việc xét xử các vụ án phạm tội cố ý gây thương tích tại Thanh Hóa và Nghệ An đã cho thấy sự gia tăng đáng kể trong số lượng vụ việc Các số liệu này phản ánh tình hình an ninh trật tự tại khu vực, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác phòng ngừa và xử lý tội phạm trong cộng đồng.
An, Hà Tỉnh từ năm 2008 đến năm 2010
Trong những năm qua, các vụ án phạm tội cố ý gây thương tích tuy không nhiều nhưng đều được xét xử đúng luật, với tỷ lệ kháng cáo rất thấp; từ 2008 đến 2010, Tòa án Quân Sự - Khu Vực 1 - Quân Khu 4 không ghi nhận vụ án nào bị kháng cáo Mặc dù chiếm một phần không nhỏ trong tổng số tội phạm, vấn đề này cần được xem xét nghiêm túc từ góc độ xã hội và pháp luật để tìm ra giải pháp hiệu quả nhằm giảm tỷ lệ tội phạm Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, khi quyền lợi và lợi ích cơ bản của con người được đặt lên hàng đầu, việc giải quyết vấn đề này trở nên cấp thiết, đòi hỏi sự chú ý từ các cơ quan chức năng, bởi vì đây là lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội, đã đến tuổi trưởng thành.
Tính nghiêm trọng của loại tội phạm này được thể hiện qua sự gia tăng số lượng bị cáo và nạn nhân trong cùng một vụ án, cho thấy tính tổ chức và sự phối hợp giữa các bị cáo, không phải là hành vi bột phát Công tác xét xử tại Tòa án Quân Sự - Khu Vực 1 - Quân Khu 4 đã chỉ ra rằng trong 11 vụ án, có đến 18 bị cáo tham gia, minh chứng cho sự gia tăng nghiêm trọng và phức tạp của các vụ án và bị cáo.
Tội phạm ẩn là một vấn đề nghiêm trọng, bao gồm nhiều vụ việc chưa được phát hiện, điều tra và xử lý kịp thời Những kẻ phạm tội thường có kế hoạch và tổ chức chặt chẽ, dẫn đến việc các hành vi cố ý gây thương tích không bị các cơ quan chức năng phát hiện Nguyên nhân của tình trạng này xuất phát từ cả yếu tố chủ quan và khách quan, khiến việc xử lý trở nên khó khăn hơn.
Trước khi thực hiện tội phạm, các đối tượng đã chuẩn bị xe máy phân khối lớn để tẩu thoát, đồng thời người dân thường không dám tố giác vì lo sợ bị trả thù.
Tội phạm ẩn đang trở thành một vấn đề nghiêm trọng và khó giải quyết cho các cơ quan chức năng Nếu không có biện pháp trừng trị thích hợp, tội phạm sẽ gia tăng, gây lo lắng trong cộng đồng và làm giảm lòng tin của người dân vào chính quyền và hệ thống pháp luật hiện hành.
Tội cố ý gây thương tích đang trở thành vấn đề nghiêm trọng với sự tham gia đa dạng từ nhiều thành phần xã hội như nông dân, công nhân, sinh viên và cán bộ công chức Đặc biệt, tội phạm chủ yếu là nam giới và có xu hướng gia tăng, thể hiện tính chất nghiêm trọng và mức độ nguy hiểm cao.
Vào ngày 30/3/2008, Nguyễn Thị Giang ở Triệu Hóa, Thanh Hóa đã tạt axit vào mặt Phạm Thị Hường, nghi ngờ chị Hường có quan hệ bất chính với chồng mình, Lê Đình Dinh Hành động này xảy ra ngay tại cổng cơ quan khi chị Hường trở về từ nơi làm việc, dẫn đến việc chị Hường bị hỏng một mắt và bỏng nặng trên mặt Kết quả giám định cho thấy tỷ lệ thương tật của chị Hường là 38%.
CÁC BIỆN PHÁP ĐẤU TRANH VÀ PHÒNG NGỪA TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH CHO NGƯỜI KHÁC
Ý GÂY THƯƠNG TÍCH CHO NGƯỜI KHÁC
Để giảm thiểu hoặc ngăn chặn tình trạng phạm tội cố ý gây thương tích, cần thiết phải triển khai các biện pháp cụ thể nhằm loại bỏ nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm này Mỗi loại tội phạm yêu cầu những biện pháp phòng ngừa riêng biệt, với sự phối hợp từ các cơ quan và tổ chức nhất định trong công tác phòng ngừa.
Phòng ngừa tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại đến sức khỏe của người khác là nhiệm vụ quan trọng của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và cá nhân Đấu tranh chống tội phạm đòi hỏi các cơ quan tố tụng phải kịp thời khởi tố vụ án và tiến hành điều tra để xử lý kẻ phạm tội Trong quá trình này, cần áp dụng các biện pháp đấu tranh và phương pháp khoa học kỹ thuật để nhanh chóng xác định tội phạm Phòng ngừa tội phạm không chỉ là trách nhiệm trước mắt mà còn là nhiệm vụ lâu dài, bao gồm việc đề ra các biện pháp cụ thể nhằm khắc phục và loại trừ nguyên nhân gây ra tội phạm Dưới đây là những biện pháp cơ bản để thực hiện phòng ngừa hiệu quả.
Biện pháp về văn hóa giáo dục nang cao ý thức pháp luật trong nhân dân.24 2 Biện pháp kinh tế
Biện pháp này đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy người dân sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, từ đó giúp ngăn chặn ý định phạm tội.
Để nâng cao ý thức pháp luật và hình thành nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa, cần tôn trọng danh dự, nhân phẩm, tính mạng và sức khỏe của nhân dân, đồng thời đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, loại trừ tư tưởng chống đối xã hội, tàn dư phong kiến và các hành vi gian dối, cướp giật, lừa đảo Mỗi cơ quan Nhà nước và tổ chức xã hội cần nâng cao trách nhiệm trong việc giáo dục và tuyên truyền pháp luật, cũng như lối sống lành mạnh Cần xử lý nghiêm minh các tội phạm để tạo niềm tin cho nhân dân và răn đe những kẻ có ý định phạm tội, đặc biệt là những người trong các cơ quan bảo vệ pháp luật như Viện kiểm sát, Tòa án và Công an, phải chịu trách nhiệm nếu bao che cho tội phạm.
Để nâng cao hiệu quả tuyên truyền pháp luật tại địa phương, cần kết hợp giáo dục qua phương tiện thông tin đại chúng với các hình thức như tổ chức nói chuyện pháp luật, hoạt động của các CLB văn hóa văn nghệ, và tổ chức phiên tòa xét xử lưu động Những hoạt động này không chỉ giúp người dân hiểu rõ hơn về pháp luật mà còn mang lại kết quả giáo dục sâu sắc.
2 Biện pháp kinh tế. Đẩy mạnh các hoạt động quản lý kinh doanh nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân Cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm sẽ không đạt được kết quả cao nếu không giải quyết tốt vấn đề dời sống nhân dân, rút ngắn khoảng các giàu nghèo Đây là biện pháp có thể triệt tiêu được nguyên nhân và điều kiện dẫn đến phạm tội.
Để thúc đẩy phát triển kinh tế, các địa phương cần tăng cường mở rộng sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra việc làm tại chỗ Cần chú trọng ưu tiên sắp xếp công việc cho những người có tiền án, những gia đình gặp khó khăn, và những đối tượng chịu ảnh hưởng từ tệ nạn xã hội.
Thực hiện tốt chính sách xóa đói giảm nghèo vận động nhân dân tương trợ giúp đỡ lẫn nhau khắc phục những kho khăn trong cuộc sống.
Các biện pháp pháp luật
Cần hoàn thiện hệ thống pháp luật và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xác định rõ trách nhiệm của Nhà nước, tổ chức xã hội và công dân trong việc phòng ngừa tội phạm Đặc biệt, trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền, việc thực hiện pháp luật một cách nghiêm minh là rất quan trọng để đảm bảo các chính sách của Đảng và Nhà nước được thực hiện triệt để trên mọi lĩnh vực.
Cần hoàn thiện hệ thống pháp luật để kịp thời điều chỉnh các hành vi phạm tội mới và các thủ đoạn tinh vi Đồng thời, Viện kiểm sát cần tích cực thực hiện chức năng giám sát việc thi hành pháp luật tại các cơ quan như Viện kiểm sát, Công an và Tòa án.
Nâng cao trách nhiệm củ cơ quan bảo vệ pháp luật
Đấu tranh phòng chống tội phạm là trách nhiệm chung của tất cả các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và mỗi công dân Cơ quan bảo vệ pháp luật, bao gồm công an, Tòa án, Kiểm sát, Tư pháp và Thanh tra, có nhiệm vụ trực tiếp trong việc thi hành chức năng của mình Theo Điều 4 khoản 1 BLHS, các cơ quan này không chỉ thực hiện nhiệm vụ mà còn hướng dẫn, hỗ trợ các tổ chức xã hội và công dân trong việc phòng ngừa tội phạm, giám sát và giáo dục người phạm tội trong cộng đồng.
Khi tội phạm xảy ra, các cơ quan chức năng cần nhanh chóng phát hiện, điều tra và bắt giữ kẻ phạm tội, đồng thời giải quyết hậu quả mà chúng gây ra Việc kịp thời xử lý các mâu thuẫn xã hội cũng rất quan trọng Khi kẻ phạm tội được đưa ra xét xử, tòa án phải thực hiện công bằng, đúng người đúng tội, vừa có tình vừa có lý Chỉ khi đó, hiệu quả hoạt động của các cơ quan này mới được nâng cao.
Kết hợp chặt chẽ công tác đấu tranh giữu cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và chính quyền địa phương
Theo khoản 2 điều 4 Bộ Luật Hình Sự, các cơ quan Nhà nước và tổ chức có trách nhiệm giáo dục người dân nâng cao ý thức bảo vệ và tuân thủ pháp luật, đồng thời loại trừ nguyên nhân và điều kiện dẫn đến tội phạm Việc xây dựng mô hình giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội là cần thiết để tạo ra sức mạnh tổng hợp trong phòng ngừa tội cố ý gây thương tích Chính quyền địa phương đóng vai trò quan trọng trong việc nắm bắt tình hình, hòa giải mâu thuẫn và xử lý kịp thời các vụ việc, từ đó xây dựng lối sống lành mạnh và tạo công ăn việc làm cho người dân Để ngăn chặn tội phạm hiệu quả, các cấp ủy và chính quyền địa phương cần lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện các cuộc vận động tại địa phương.
- Cuộc vận động xây dựng đơn vị khối phố lang xã văn hóa
- Cuộc vận động giáo dục cảm hóa người lầm lỗi Chăm lo xây dựng tổ hòa giải, tổ an ninh dân phố.
Các tổ chức như Hội cựu chiến binh, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên và Hội nông dân đã đóng góp quan trọng vào thành công của các cuộc vận động Chúng ta sẽ đề cập đến một số ví dụ tiêu biểu từ các tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An để minh chứng cho điều này.
Phường Hà Huy Tập, thuộc thành phố Vinh, Hà Tĩnh, là khu vực có nhiều đối tượng từng có tiền án tiền sự, tạo điều kiện cho hoạt động tội phạm Tuy nhiên, chính quyền địa phương đã triển khai hiệu quả công tác an ninh với các tổ tuần tra liên tục cả ngày lẫn đêm Nhờ những nỗ lực này, tình hình tội phạm tại phường Hà Huy Tập trong năm qua đã giảm đáng kể, được UBND thành phố Vinh ghi nhận và tuyên dương trong công tác phòng chống tội phạm.
Phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân trong đấu tranh phòng chống tội phạm
Để đạt hiệu quả cao trong việc phòng chống tội phạm, cần khuyến khích quần chúng nhân dân tham gia tích cực, vì họ là những người nắm rõ mâu thuẫn và hành vi phạm tội trong cộng đồng Việc bảo vệ và trừng trị những kẻ trả thù sẽ giúp họ tin tưởng vào hệ thống pháp luật Đồng thời, cần khen thưởng kịp thời những cá nhân có công trong công tác này và giáo dục cộng đồng về vai trò, trách nhiệm của họ trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Công tác xét xử của Tòa án
Biện pháp này rất quan trọng vì nó không chỉ trừng phạt nghiêm khắc những kẻ phạm tội mà còn răn đe những người có ý định vi phạm, đồng thời giáo dục cộng đồng về việc tôn trọng sức khỏe của người khác.
Mặc dù Tòa án quân sự - khu vực 1 - quân khu 4 đã đạt được nhiều thành tích, nhưng vẫn còn tồn tại nhiều thiếu sót trong công tác xét xử Do đó, cần nghiên cứu và rút kinh nghiệm kịp thời về chuyên môn nghiệp vụ, đồng thời kiên quyết ngăn chặn sai sót và sai lầm tái diễn Việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo và chế độ trách nhiệm là cần thiết, để đảm bảo rằng khi cán bộ công chức vi phạm, sẽ được xử lý công khai và hợp tình hợp lý, nhằm nâng cao trách nhiệm trong hoạt động nghề nghiệp.
Để nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ công chức, cần sắp xếp cho họ tham gia nghiên cứu học tập qua nhiều hình thức khác nhau Đồng thời, cần có chính sách khuyến khích vật chất hợp lý cho những cá nhân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Cần tăng cường công tác xét xử lưu động tại các địa bàn, vì phương pháp này đã chứng minh hiệu quả cao trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm Xét xử lưu động không chỉ nâng cao trách nhiệm của thẩm phán mà còn làm cho công tác tuyên truyền pháp luật trở nên thực tế hơn trong cộng đồng Điều này giúp phát động quần chúng nhân dân tham gia tích cực vào việc phòng chống tội cố ý gây thương tích cho người khác.
Bảy biện pháp phòng ngừa tội cố ý gây thương tích và tổn hại sức khỏe cho người khác cần được thực hiện một cách hài hòa Đồng thời, trong quá trình áp dụng các biện pháp này, việc tuân thủ các nguyên tắc đã đề ra là vô cùng quan trọng.
- Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
- Nguyên tắc dân chủ xã hội chủ nghĩa
- Ngyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa
- Nguyên tắc khoa học và tiến bộ
- Nguyên tắc cụ thể các hoạt động phòng ngừa
PHẦN KẾT LUẬN
Tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe cho người khác là một loại tội phạm nguy hiểm, gây hoang mang và mất an ninh trật tự xã hội Trong những năm qua, loại tội phạm này có xu hướng gia tăng do nhiều tác động khách quan Sự nỗ lực của các cấp, ngành và tổ chức đoàn thể ở cơ sở vẫn chưa đồng bộ, trong khi các cơ quan chức năng như Viện kiểm sát, Tòa án, và Công an chưa áp dụng biện pháp mạnh mẽ Điều này dẫn đến tình trạng tội phạm cố ý gây thương tích và tổn hại sức khỏe chưa được ngăn chặn hiệu quả.
Để ngăn chặn tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe cho người khác, cần hiểu rõ bản chất và dấu hiệu pháp lý của tội này Việc xác định nguyên nhân, điều kiện phạm tội là rất quan trọng, từ đó đưa ra các biện pháp hiệu quả nhằm bảo vệ tính mạng và sức khỏe của mọi người.
Trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ của đất nước, các chính sách kinh tế xã hội như xóa đói giảm nghèo và tạo việc làm cho người lao động đang được chú trọng Các phong trào văn hóa và giáo dục nhằm cảm hóa thanh niên chậm tiến, cũng như chống lại tệ nạn xã hội như mại dâm và ma túy, đang được triển khai Đặc biệt, cuộc cải cách hành chính trong các ngành bảo vệ pháp luật như Tòa án, Viện kiểm sát và Công an sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp cho hệ thống chính trị Điều này sẽ giúp ngăn chặn tội phạm và xây dựng một xã hội vui tươi, lành mạnh, nâng cao đời sống văn minh và hạnh phúc cho nhân dân.
Kính thưa các thầy cô, trong thời gian thực tập tại Tòa án quân sự khu vực 1 Quân khu 4, em đã nỗ lực học tập và nghiên cứu Sự hỗ trợ tận tình từ các đồng chí lãnh đạo, thầy cô và bạn bè đã giúp em hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao Em xin chân thành cảm ơn tất cả mọi người.
Cô giáo Đặng Thị Phương Linh đã tận tâm hướng dẫn chi tiết về nội dung và hình thức báo cáo thực tập, cũng như phương pháp nghiên cứu đề tài, thể hiện sự đầu tư thời gian và công sức vào việc hỗ trợ sinh viên.
Chú Đặng Văn Phượng, Chánh án Tòa án Quân sự Khu vực I thuộc Quân khu 4, cùng với các cô chú và anh chị trong tòa án, đã hỗ trợ em rất nhiều trong việc sưu tầm tài liệu để hoàn thiện báo cáo thực tập của mình.
Nội dung bài báo cáo thực tập của em được hình thành từ gần 4 năm học hỏi dưới sự dìu dắt của các thầy cô và kinh nghiệm thực tiễn trong thời gian thực tập Tuy nhiên, em nhận thức rằng vẫn còn nhiều điều nông cạn và thiếu sót Em rất mong nhận được sự giúp đỡ và chỉ bảo từ các thầy cô để hoàn thiện bài báo cáo của mình.
Em chân thành biết ơn các thầy cô!
Sinh viên: Thái Thị Thu Thủy
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Luật hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2002
3 Thông tư 442 /TTg ngày 19/11/1995 của thủ tướng chính phủ
4 Văn bản tổng kết kinh nghiệm xét xử của TANDTC hướng dẫn cụ thể sắc lệnh 40
7 Bộ luật hình sự năm 1999
8 Giáo trình luật hình sự, NXB Đại học luật Hà Nội
9 Sổ theo dỏi kết quả xét xử của tòa án quan sự khu vực 1 quân khu 4 từ năm 2008 đến năm 2010
10 Hồ sơ hình sự từ năm 2008 đến năm 2010 của tòa án quân sự khu vực 1 quân khu 4
11 Các nghị quyết, chỉ thị, nghi quyết của chính phủ, thủ tướng chính phủ
12 Tạp chí tòa án nhân dân số 82
1 Lý do chọn đề tài 1
2 Mục đích nghiên cứu đề tài 2
3 Phạm vi nghiên cứu đề tài 2
Phương pháp nghiên cứu đề tài 3
5 Bố cục của chuyên đề 3
Chương 1 NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
1.1 SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA NHÀ NƯỚC TA TRONG VIỆC ĐẤU TRANH TỘI CỐ Ý GÂY TÍCH
1.2 KHÁI NIỆM TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH 6
1.3 CÁC DẤU HIỆU PHÁP LÝ CỦA TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH 7
1.3.1 Khách thể của tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe cho người khác 7
1.3.2 Mặt khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe cho người khác 7
1.3.3 Mặt chủ quan của tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe cho người khác 8
1.3.4 Chủ thể của tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe cho người khác 8
1.4 NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH CỦA
BLHS NĂM 1999 SO VỚI BLHS NĂM 1985 12
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN, ĐIỀU KIỆN VÀ BIỆN PHÁP ĐẤU TRANH PHÒNG NGỪA TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC TỔN HẠI SỨC KHỎE CHO NGƯỜI KHÁC ( ĐIỀU 104 ) 13
2.1 THỰC TRẠNG TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH 13