1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Tài liệu Lạm phát có ảnh hưởng tới tất cả các đối tượng từ người tiêu dùng, doanh nghiệp, đến chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế

32 37 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Lạm Phát Có Ảnh Hưởng Tới Tất Cả Các Đối Tượng Từ Người Tiêu Dùng, Doanh Nghiệp, Đến Chỉ Tiêu Tăng Trưởng Kinh Tế
Thể loại tiểu luận
Năm xuất bản 2008
Định dạng
Số trang 32
Dung lượng 497,42 KB

Cấu trúc

  • PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN 4 (3)
    • 1.1. Tổng quan về lạm phát 4 (3)
      • 1.1.1. Khái niệm về lạm phát 4 (3)
      • 1.1.2. Phân loại lạm phát 4 (3)
    • 1.2. Cách tính lạm phát 5 (5)
    • 1.3. Lạm phát cơ bản 8 (7)
      • 1.3.1. Khái niệm lạm phát cơ bản 8 (7)
      • 1.3.2. Các phương pháp tính lạm phát cơ bản 8 (7)
    • 1.4. Những ảnh hưởng của lạm phát đến nền kinh tế 9 (8)
    • 1.5. Các bài học trên thế giới về kiểm soát lạm phát 10 (9)
      • 1.5.1. Hàn Quốc 10 (9)
      • 1.5.2. Trung Quốc 10 (9)
      • 1.5.3. Các nước khác trên thế giới 10 (10)
  • PHẦN II: THỰC TRẠNG VỀ TÌNH HÌNH LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM (12)
    • 2.1. Tổng quan về tình hình phát triển kinh tế của VN thời gian vừa qua 13 (0)
    • 2.2. Tình hình lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua 15 (14)
    • 2.3. Những nguyên nhân dẫn đến lạm phát 16 (15)
      • 2.3.1 Việc áp dụng phương pháp tính chỉ số CPI ở Việt Nam 16 (15)
      • 2.3.2 Mức cung tiền tăng cao vào năm 2007 17 (16)
      • 2.3.3 Thất thoát, lãng phí trong đầu tư công. 18 (17)
      • 2.3.4 Tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng của ngân hàng tăng mạnh. 19 (0)
      • 2.3.5 Do cầu kéo 20 (0)
      • 2.3.6 Do chi phí đẩy. 21 (20)
      • 2.3.7 Do công tác dự báo chưa tốt 21 (20)
      • 2.3.8 Tỉ giá cố định trong thời gian dài 22 (21)
      • 2.3.9 Lúng túng trong điều hành 22 (21)
    • 2.4. Ảnh hưởng của lạm phát đến nền kinh tế Việt Nam 22 (21)
      • 2.4.1. Tác động của lạm phát đến người tiêu dùng 22 (22)
      • 2.4.2. Tác động của lạm phát tới người nông dân 23 (22)
      • 2.4.3. Tác động của lạm phát đến thị trường chứng khoán 24 (23)
      • 2.4.4. Tác động của lạm phát đến tín dụng ngân hàng 24 (23)
      • 2.4.5. Tác động của lạm phát tới hoạt động sản xuất kinh doanh 24 (23)
      • 2.4.6. Tác động của lạm phát tới tài chính nhà nước 24 (0)
    • 2.5. Các chính sách kiềm chế lạm phát của chính phủ trong thời gian qua 25 (24)
  • PHẦN III: CÁC GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁP Ở VIỆT NAM 27 (26)
    • 3.1. Định hướng phát triển của nền kinh tế Việt Nam 27 (26)
    • 3.2. Các giải pháp cần và đủ . 28 (27)
    • 3.3. Các đề xuất kiến nghị 30 (29)

Nội dung

CƠ SỞ LÝ LUẬN 4

Tổng quan về lạm phát 4

1.1.1 Khái niệm về lạm phát

Lạm phát trong kinh tế học là sự gia tăng mức giá chung theo thời gian, dẫn đến giảm sức mua của đồng tiền và mất giá trị thị trường Khi so sánh với các nền kinh tế khác, lạm phát thể hiện sự phá giá của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác Thông thường, lạm phát được hiểu theo hai nghĩa: trong phạm vi quốc gia và trong thị trường toàn cầu Sự ảnh hưởng của hai khái niệm này vẫn là chủ đề tranh cãi giữa các nhà kinh tế học vĩ mô Ngược lại với lạm phát là giảm phát, trong khi chỉ số lạm phát bằng 0 hoặc chỉ số dương nhỏ được coi là sự ổn định giá cả.

Lạm phát có thể được hiểu là sự gia tăng khối lượng tiền lưu thông trong xã hội do nhà nước in thêm tiền để đáp ứng các nhu cầu cấp thiết như chiến tranh, nội chiến hoặc thâm hụt ngân sách Khi số lượng hàng hóa không tăng tương ứng, người dân sẽ có nhiều tiền hơn để chi tiêu, dẫn đến tình trạng tranh mua và giá cả tăng vọt, có thể dẫn đến siêu lạm phát.

Lạm phát do cầu kéo:

Kinh tế học Keynes cho rằng khi tổng cầu vượt tổng cung ở mức toàn dụng lao động, sẽ dẫn đến lạm phát Hiện tượng này có thể được minh họa qua sơ đồ AD-AS, trong đó đường AD dịch chuyển sang phải.

Giữ nguyên mức AS sẽ dẫn đến sự gia tăng đồng thời của giá cả và sản lượng Theo chủ nghĩa tiền tệ, khi tổng cầu vượt tổng cung, nhu cầu về tiền mặt tăng cao, buộc cung tiền phải tăng theo để đáp ứng, từ đó gây ra lạm phát.

Cầu kéo xảy ra khi hàng hóa trở nên khan hiếm trong khi nhu cầu không tăng, hoặc khi nhu cầu tăng trong khi hàng hóa không tăng hoặc tăng chậm Những yếu tố này dẫn đến việc giá cả thị trường tăng cao Để giải quyết tình trạng tăng giá do cầu kéo, cần tìm ra biện pháp tăng cường lượng hàng hóa đáp ứng nhu cầu thị trường Chính phủ có thể đóng vai trò quan trọng thông qua các chính sách đầu tư nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất và đưa sản phẩm vào thị trường Bên cạnh đó, các yếu tố trong thị trường cạnh tranh tự do cũng góp phần giảm áp lực tăng giá, như thay đổi thói quen tiêu dùng và đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng.

Lạm phát do cầu thay đổi

Khi lượng cầu về một mặt hàng giảm và lượng cầu về mặt hàng khác tăng, nếu thị trường có nhà cung cấp độc quyền với giá cả cứng nhắc không thể giảm, giá của mặt hàng có lượng cầu giảm sẽ không thay đổi Ngược lại, mặt hàng có lượng cầu tăng sẽ tăng giá, dẫn đến mức giá chung trong thị trường tăng lên, gây ra lạm phát.

Lạm phát do chi phí đẩy

Khi tiền công danh nghĩa tăng, chi phí sản xuất của các doanh nghiệp cũng tăng theo Để bảo vệ lợi nhuận, các doanh nghiệp sẽ điều chỉnh giá thành sản phẩm lên cao hơn Kết quả là mức giá chung trong nền kinh tế sẽ gia tăng.

Chi phí đẩy là kết quả của nhiều yếu tố tác động đến chi phí đầu vào của sản phẩm, bao gồm giá nguyên vật liệu, chi phí lao động và chính sách của nhà nước Khi các yếu tố này tăng cao, chi phí đầu vào cũng sẽ tăng, dẫn đến giá sản phẩm cao hơn Để giải quyết vấn đề này, cần chú trọng đến các chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt là chính sách thuế Các doanh nghiệp sản xuất có thể tự tìm cách giảm chi phí đầu vào bằng cách lựa chọn nguồn cung ứng hợp lý, tính toán chính xác hao phí nguyên vật liệu, và tối ưu hóa nguồn lao động để nâng cao năng suất Ngoài ra, việc giảm thiểu lãng phí và tinh giản hệ thống quản lý cũng là những biện pháp quan trọng Các chính sách của nhà nước như giảm thuế đầu vào và thuế thu nhập cũng góp phần giảm chi phí cho doanh nghiệp.

Lạm phát do cơ cấu

Ngành kinh doanh hiệu quả có khả năng tăng tiền công danh nghĩa cho người lao động, trong khi ngành kinh doanh kém hiệu quả không thể tránh khỏi việc tăng lương cho nhân viên Tuy nhiên, để duy trì lợi nhuận, các doanh nghiệp kém hiệu quả thường buộc phải nâng giá thành sản phẩm, dẫn đến lạm phát.

Lạm phát do xuất khẩu

Xuất khẩu tăng làm tổng cầu vượt tổng cung, hoặc sản phẩm dành cho xuất khẩu làm giảm lượng cung trong nước, dẫn đến tình trạng tổng cung thấp hơn tổng cầu Sự mất cân bằng giữa tổng cung và tổng cầu là nguyên nhân gây ra lạm phát.

Lạm phát do nhập khẩu

Sản phẩm không được sản xuất trong nước mà phải nhập khẩu, do đó khi giá nhập khẩu tăng, giá bán trong nước cũng sẽ tăng theo Sự tăng giá này có thể xảy ra khi nhà cung cấp nước ngoài tăng giá, như trường hợp OPEC quyết định tăng giá dầu, hoặc khi đồng tiền trong nước giảm giá Lạm phát xuất hiện khi mức giá chung bị đẩy lên bởi giá nhập khẩu.

Sự gia tăng cung tiền, như khi ngân hàng trung ương mua ngoại tệ để giữ giá trị đồng tiền hoặc mua công trái theo yêu cầu của nhà nước, dẫn đến việc tăng lượng tiền lưu thông, là nguyên nhân chính gây ra lạm phát.

Lạm phát sinh ra lạm phát

Khi lạm phát xuất hiện, cá nhân có tư duy hợp lý sẽ dự đoán rằng giá cả hàng hóa sẽ tiếp tục tăng, từ đó họ sẽ gia tăng mức tiêu dùng hiện tại Hành động này dẫn đến tổng cầu vượt quá tổng cung, làm trầm trọng thêm tình trạng lạm phát.

Cách tính lạm phát 5

Lạm phát được đo lường qua tỷ lệ lạm phát, phản ánh sự tăng trưởng của mức giá tổng quát theo thời gian Mức giá tổng quát này được xác định thông qua chỉ số giá tiêu dùng CPI, một chỉ tiêu thống kê thể hiện xu hướng và biến động giá cả của một rổ hàng hóa và dịch vụ cố định, đại diện cho nhu cầu tiêu dùng thiết yếu trong đời sống hàng ngày của người dân.

Bảng 1.1: Tóm tắt các thành phần tác động chủ yếu đối với các mặt hàng trong CPI

Giá xăng dầu Giá đất Tác động trực tiếp 42.7 0 3.1 27.6 1.7 3.3 0

Tác động gián tiếp 5.2 42.7 0.3 1.1 0.7 2.6 0.2 luan van, khoa luan 5 of 66.

Theo học thuyết trọng tiền, lạm phát được hiểu là hiện tượng liên quan đến tiền tệ, được biểu diễn qua phương trình M*V=P*Q Nếu tốc độ lưu thông tiền tệ (V) không thay đổi, lạm phát (P) sẽ không xuất hiện nếu cung tiền (MS) không gia tăng.

Theo thông thường, tỷ lệ lạm phát tháng hay quý có thể so sánh với các kỳ gốc khác nhau

: là tốc độ biến động giá hàng i so với kì so sánh k

- Khi đó tỷ lệ lạm phát CPI sẽ là k t

Wi : tỷ trọng hàng hóa i

Trong đó K thường nhận giá trị 1,3,12 … Tỷ lệ lạm phát ở đây chính là số bình quân giản đơn của các tỷ lệ lạm phát tháng của k tháng

Giả sử chúng ta có thể phân tích tỷ lệ lạm phát của nhóm hay mặt hàng thứ i thành tỷ lệ lạm phát trung bình (

 t ) và các sốc đối với giá mặt hàng thứ i (Vi,t ), ta có : t

 t + Vi,t ; khi đó tỷ lệ lạm phát mặt hàng i ở kỳ t so với kỳ k là : t

Khi K tăng, độ biến thiên của tỷ lệ lạm phát giảm, nhờ vào việc các phần nhiễu được khử trừ lẫn nhau Do đó, việc công bố phân tích lạm phát theo tháng bình quân quý (K=3) hoặc bình quân năm (K) sẽ phản ánh rõ ràng xu thế lạm phát và ít bị ảnh hưởng bởi nhiễu hơn so với phương pháp tính lạm phát theo tháng (K=1) Cách tính này tương đương với việc chia tỷ lệ lạm phát so với tháng cùng kỳ cho 12 hoặc 3.

Tính lạm phát được xác định bằng tỷ lệ phần trăm giữa bình quân chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trong 12 tháng liên tiếp và tỷ lệ CPI trung bình của các tháng cùng kỳ, sau đó trừ đi 100 Các chỉ số này cần phải là chỉ số gốc hoặc chỉ số chung để so sánh, với năm gốc là 1995 Phương pháp tính này mang ý nghĩa quan trọng trong thống kê.

Theo một cách tính khác, tỷ lệ lạm phát trung bình chung (IICPIt) có thể được phân tích qua hai cấu phần: tác động của xu thế lâu dài và yếu tố thường trực, ổn định.

 t ) và tác động nhiễu nhất thời, tức thời ( Tt) là :  CPI t =  t P

Lạm phát xu thế dài hạn, hay còn gọi là lạm phát cơ bản, phản ánh xu hướng lâu dài và thường trực do áp lực từ cầu.

Khi lạm phát CPI nhiễu cần chọn cách tách lọc khử nhiễu để lấy ra cấu phần xu thế dài hạn

Nếu nhiễu Tt của biến động giá các nhóm hàng trong cấu phần CPI có phân bố chuẩn N (μ, δ²), thì lạm phát CPI có thể được xem là lạm phát cơ bản Trong trường hợp này, giá trị trung bình sẽ là ước lượng tối ưu với phương sai nhỏ nhất.

Khi chỉ số CPI bị nhiễu, tỷ lệ (Pi,t – Pi,t-k) / Pi,t-k sẽ không còn tuân theo phân bố chuẩn, dẫn đến việc CPI không phản ánh chính xác xu thế lâu dài của lạm phát Để hoạch định chính sách tiền tệ hiệu quả, ngân hàng nhà nước cần một chỉ số phản ánh xu thế lâu dài của lạm phát, được gọi là lạm phát cơ bản hay lạm phát tiền tệ Lạm phát cơ bản đo lường tác động của chính sách tiền tệ và các áp lực lâu dài từ cầu đến biến động giá cả Do đó, việc tính toán chỉ số này cần loại trừ các tác động của sốc cung tạm thời, điều chỉnh giá không đồng đều, thuế gián thu và những yếu tố như “giá không đổi” khi hàng hóa tạm thời vắng mặt.

Lạm phát cơ bản 8

1.3.1 Khái niệm lạm phát cơ bản

Lạm phát cơ bản (Core Inflation) là tỷ lệ lạm phát phản ánh sự thay đổi lâu dài của mức giá, loại bỏ các yếu tố tạm thời và chủ yếu xuất phát từ nguyên nhân tiền tệ Đây là công cụ quan trọng giúp Ngân hàng trung ương đánh giá chính xác tình hình lạm phát, từ đó định hướng cho chính sách tiền tệ trong tương lai Sự ổn định giá cả là nền tảng cho sự phát triển của các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô khác Tuy nhiên, cần lưu ý rằng tác động của chính sách tiền tệ có độ trễ, vì vậy các ngân hàng trung ương không nên chờ đến khi lạm phát cơ bản tăng mới bắt đầu hành động để giảm áp lực lạm phát.

Các nước công nghiệp tiên tiến phân biệt rõ ràng giữa tỷ lệ lạm phát công bố rộng rãi, thường dựa trên chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và chỉ số giảm phát GDP, và tỷ lệ lạm phát cơ bản, có thể được công bố hoặc chỉ sử dụng nội bộ tùy theo từng quốc gia.

1.3.2 Các phương pháp tính lạm phát cơ bản

Tùy thuộc vào đặc thù của từng quốc gia, các phương pháp tính toán có thể khác nhau, với nhiều phương pháp phổ biến được áp dụng.

Phương pháp loại trừ chủ quan, được áp dụng từ đầu thập niên 70, giúp tính toán lạm phát cơ bản bằng cách loại bỏ một số nhóm hàng hóa dễ bị sốc cung như lương thực thực phẩm, nhiên liệu năng lượng và thuế gián thu Cách tính này yêu cầu xác định và loại trừ những mặt hàng này, sau đó điều chỉnh quyền số và tính bình quân gia quyền Tuy nhiên, việc xác định mặt hàng loại trừ vẫn còn mang tính máy móc và thiếu kiểm định Hiện nay, phương pháp này (CPI-FET) vẫn được nhiều quốc gia sử dụng.

Phương pháp tinh theo trung vị gia quyền (WM-CPI) luan van, khoa luan 7 of 66.

Trung vị là một ước lượng tốt hơn so với trung bình gia quyền trong việc xác định xu thế trọng tâm, đặc biệt khi trung bình không còn hiệu quả Khác với trung bình, trung vị không bị ảnh hưởng bởi các sốc tăng giá tạm thời, do đó mang lại độ chính xác cao hơn Phương pháp này cũng được coi là khoa học và không tùy tiện như phương pháp CPI-FET.

Phương pháp trung bình lược bỏ (TM-CPI)

Từ cuối thập kỷ 80, phương pháp tính giá trị trung bình lược bỏ đã trở nên phổ biến trong việc phân tích giá trị của các nhóm ngành hàng Phương pháp này giúp đánh giá phần nhiễu trong biến động giá, khi các sản phẩm có chung kỳ vọng.

 nhưng lại có phương sai khác nhau (

Trung bình mẫu (CPI) là ước lượng không chệch cho phương sai không bé nhất, tuy nhiên cần loại trừ các nhóm hàng có sự phân bố lệch hẳn về hai phía trong đồ thị tần suất biến động giá Tỷ lệ phần trăm số nhóm hàng bị loại bỏ (α) có thể được chia đều hoặc không cho cả hai phía Sau khi loại trừ, trung bình mẫu sẽ được tính cho các quan sát còn lại, với TM-CPI có thể là bình quân giản đơn hoặc gia quyền.

Phương pháp bình quân gia quyền nghịch đảo độ lệch chuẩn và phương sai

Ngoài ba phương pháp đã đề cập, còn có phương pháp bình quân gia quyền nghịch đảo độ lệch chuẩn hoặc phương sai, được tính riêng cho từng nhóm hàng theo thời gian Mô hình kinh tế lượng như tự hồi quy vecto VAR hay mô hình tính toán lạm phát Quah-Vahey đã được thử nghiệm tại một số quốc gia Mô hình này có ưu điểm dựa trên lý thuyết tiền tệ, tuy nhiên, các giả thuyết xây dựng mô hình lại không hoàn toàn phù hợp với thực tế.

Phương pháp tính lạm phát cơ bản cũng cần tính thử, kiểm nghiệm bằng dự báo ngắn hạn và trung hạn cho các phương pháp như :

Phương pháp điều chỉnh cụ thể bao gồm điều chỉnh thời vụ, thuế gián thu và quản lý các mặt hàng nhà nước Ngoài ra, có thể áp dụng phương pháp loại trừ các mặt hàng do nhà nước quản lý giá như lương thực, thực phẩm, nhiên liệu và năng lượng ra khỏi rổ tính hàng hóa CPI, phương pháp này thường được sử dụng để công bố.

Một số phương pháp thống kê thuần túy bao gồm tính trung vị, trung bình lược bỏ có quyền số hoặc không có quyền số, và phương pháp bình quân gia quyền nghịch đảo độ lệch chuẩn hoặc phương sai, thường được sử dụng nội bộ trong nghiên cứu và phân tích Bên cạnh đó, việc áp dụng mô hình kinh tế lượng trong phân tích, tính toán và dự báo lạm phát cơ bản cũng cần thử nghiệm nội bộ để đảm bảo tính chính xác trong nghiên cứu.

Ngân hàng nhà nước có thể chủ động thực hiện mục tiêu ổn định lạm phát thông qua việc tính toán, lựa chọn và dự báo lạm phát cơ bản, từ đó gắn liền với chính sách tiền tệ.

Những ảnh hưởng của lạm phát đến nền kinh tế 9

Đối với các quốc gia đang phát triển:

Lạm phát có thể làm giảm tăng trưởng kinh tế nếu tỷ lệ lạm phát bằng hoặc cao hơn mức tăng trưởng Ví dụ, nếu một nền kinh tế tăng trưởng 8.4% nhưng lạm phát đạt 8.3%, người dân chỉ có thu nhập thực tế tăng không đáng kể, dẫn đến tiêu chuẩn sống không cải thiện Nếu không có biện pháp ngăn chặn, lạm phát sẽ khiến doanh nhân không còn hứng thú với sản xuất do thiếu lợi nhuận, dẫn đến tình trạng mua bán "chụp giựt" và chuyển tài sản sang kim loại quý hoặc ngoại tệ mạnh để tránh lạm phát Điều này gây cản trở cho sự lưu thông của đồng tiền và phát triển kinh tế, đặc biệt ở các quốc gia công nghiệp đã chuyển sang xã hội tiêu thụ, nơi tác hại của lạm phát diễn ra theo một quy trình ba bước.

Lạm phát (inflation) - Giảm phát (deflation) – Suy thoái kinh tế (economic recession)

Lạm phát không kiểm soát dẫn đến sự gia tăng giá cả hàng hóa, làm giảm nhu cầu tiêu thụ và tạo ra tình trạng dư thừa hàng hóa Để tồn tại, các công ty sản xuất buộc phải hạ giá bán và thu nhỏ quy mô hoạt động, dẫn đến việc một số hãng phải đóng cửa và công nhân bị sa thải, từ đó càng làm giảm nhu cầu tiêu dùng Khi tình trạng này kéo dài, nền kinh tế bước vào giai đoạn giảm phát, giá hàng hóa tiếp tục giảm cho đến khi đạt được sự cân bằng mới giữa cung và cầu Hệ quả là kinh tế rơi vào suy thoái, kéo theo sự giảm sút trong tiêu chuẩn sống của người dân.

Các bài học trên thế giới về kiểm soát lạm phát 10

Lạm phát là một hiện tượng tự nhiên trong nền kinh tế sử dụng tiền tệ, và không có nền kinh tế nào có thể tránh khỏi nó Trong nhiều trường hợp, lạm phát có thể thúc đẩy phát triển kinh tế bằng cách tăng nhu cầu và khuyến khích đầu tư Tuy nhiên, khi lạm phát vượt quá một ngưỡng nhất định và không theo kịp mức tăng thu nhập quốc dân, nó trở thành một vấn đề nghiêm trọng, gây hại cho sự phát triển kinh tế - xã hội Trong các nước tư bản phát triển, mức tăng thu nhập quốc dân trung bình hàng năm vào những năm 1970 khoảng 3-3.5%, với lạm phát dao động từ 10% đến trên 20% Đến những năm 1980, lạm phát đã giảm xuống còn 3-4%, chỉ cao hơn một chút so với mức tăng thu nhập quốc dân Ngược lại, các nước đang phát triển, đặc biệt ở Châu Phi và Châu Mỹ La Tinh, thường xuyên phải đối mặt với lạm phát ở mức hai con số hoặc ba con số, trong khi Châu Á thường có mức lạm phát thấp hơn, thường chỉ ở một chữ số.

Trước tình hình lạm phát đầu năm 2008, Chính phủ Hàn Quốc đã đặt mục tiêu ổn định giá tiêu dùng và hỗ trợ các gia đình thu nhập thấp Một ủy ban chống tăng giá do thứ trưởng Choi Joong Kyung lãnh đạo được thành lập, cùng với việc giảm giá điện sinh hoạt duy trì đến năm 2010 Chính phủ cũng miễn, giảm một số loại thuế tiêu thụ và nhập khẩu, hỗ trợ hơn 1 tỷ USD cho nông dân vay vốn ưu đãi nhằm tăng cung cấp lương thực, thực phẩm, và giảm 50% phí giao thông trên một số tuyến cao tốc Các biện pháp tiết kiệm năng lượng, cải cách mạng lưới phân phối, và giảm phí dịch vụ y tế, viễn thông được thực hiện để giảm chi phí cho người dân.

Vào đầu năm 2008, Trung Quốc đối mặt với tình trạng lạm phát cao nhất trong 11 năm, chủ yếu do giá lương thực - thực phẩm tăng 23,3% Để kiểm soát lạm phát, Chính phủ Trung Quốc đã thực hiện chính sách tài chính ổn định và minh bạch, đồng thời thắt chặt chính sách tiền tệ bằng cách hạn chế cung ứng tiền Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc đã bắt đầu áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt từ năm 2007, bao gồm nới lỏng quy định giao dịch ngoại tệ, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc và thực hiện nhiều lần tăng lãi suất để ổn định thị trường tiền tệ mà không gây khó khăn cho hoạt động ngân hàng.

Quyết định mở rộng biên độ giao dịch của đồng Nhân Dân tệ so với Đô la Mỹ nhằm kiểm soát lưu thông tiền tệ và hạn chế tốc độ cho vay quá mạnh của các ngân hàng thương mại vào bất động sản Biện pháp này bao gồm việc tăng mức đặt cọc khi vay tiền mua ngôi nhà thứ hai, tăng lãi suất cho vay, và tăng thuế lợi tức tiền gửi ngân hàng, đồng thời hạn chế đầu tư vào thị trường chứng khoán Để hỗ trợ các biện pháp này, Chính phủ Trung Quốc cũng phát hành tín phiếu cho các ngân hàng thương mại nhằm thu hút tiền từ lưu thông trở về.

Chính phủ Trung Quốc đã triển khai nhiều giải pháp đồng bộ nhằm kiềm chế lạm phát, bao gồm các biện pháp về tiền tệ, thị trường và sản xuất Tại kỳ họp Quốc hội, các nhóm giải pháp cấp bách đã được báo cáo để kiểm soát chỉ số giá tiêu dùng (CPI).

Hỗ trợ thúc đẩy phát triển sản xuất, nhất là sản xuất các mặt hàng thiết yếu như: lương thực, thực phẩm, dầu thực vật, thịt,

Kiểm soát chặt chẽ ngành công nghiệp thực phẩm và lương thực là cần thiết để duy trì sự ổn định thị trường Cần đẩy mạnh hệ thống dự trữ và điều tiết xuất nhập khẩu nhằm bình ổn giá cả trong nước Quản lý và điều hành giá cả hiệu quả sẽ giúp ngăn chặn tình trạng tăng giá đột biến Đồng thời, giám sát việc thu phí trong giáo dục, y tế, cũng như giá cả dược phẩm và nguyên liệu phục vụ nông nghiệp là rất quan trọng, với quyết tâm xử lý nghiêm các trường hợp đầu cơ trục lợi.

Hoàn thiện và thực hiện các biện pháp trợ cấp đối với người có thu nhập thấp

Ngặn chặn kịp thời tình trạng giá cả nguyên nhiên vật liệu leo thang

1.5.3 Các nước khác trên thế giới

Các ngân hàng trung ương, như Cục Dự trữ Liên bang Mỹ, có thể ảnh hưởng lớn đến lạm phát thông qua việc thiết lập lãi suất Việc tăng lãi suất và kiểm soát cung ứng tiền tệ là phương pháp truyền thống để kiềm chế lạm phát, đồng thời sử dụng tỷ lệ thất nghiệp và sản xuất để hạn chế tăng giá Tuy nhiên, các ngân hàng trung ương áp dụng các phương thức kiểm soát lạm phát khác nhau; một số theo dõi chỉ tiêu lạm phát một cách cân xứng, trong khi những ngân hàng khác chỉ can thiệp khi lạm phát đạt mức cao Ngoài ra, cần xem xét các giải pháp như giảm thuế để giảm chi phí sản xuất, từ đó khuyến khích đầu tư và thúc đẩy xuất khẩu.

So sánh Chính sách mục tiêu lạm phát của một số nước trên thế giới

Trong hơn một thập kỷ qua, nhiều quốc gia đã áp dụng chính sách mục tiêu lạm phát, mặc dù chúng đều dựa trên những lý thuyết cơ sở tương tự Tuy nhiên, mỗi quốc gia lại có những đặc điểm riêng trong cách triển khai chính sách này Để có cái nhìn tổng quan và cơ sở so sánh về chính sách mục tiêu lạm phát của các nước, chúng ta có thể tham khảo bảng dưới đây với các tiêu chí cơ bản tương ứng với những vấn đề đã được nêu ra.

Quốc gia New Zealand Canada EU

Thời điểm áp dụng chính sách mục tiêu lạm phát 4/1990 26/2/1991 1/1/1999

Chỉ số lạm phát mục tiêu 0% - 3% 1% - 3% nhỏ hơn và gần

Tính độc lập của ngân hàng trung ương Tương đối Đối tượng của học thuyết

“trách nhiệm tay đôi” Tuyệt đối

Cơ quan công bố lạm phát mục tiêu

Bộ tài chính và chính phủ

Bộ tài chính và ngân hàng trung ương phối hợp công bố

Ngân hàng trung ương Châu Âu ECB

Công cụ đo lường lạm phát CPI CPI HICP

Chỉ số lạm phát cơ bản CPI loại trừ tác động của lãi suất

CPI loại trừ tác động giá lương thực và năng lượng

HICP loại trừ tác động của thực phẩm chưa chế biến

Công bố báo cáo Hàng quý từ 3/1990 Nửa năm từ 5/1995 Hàng tháng

Dự báo lạm phát Có Không Không

Rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Việc nghiên cứu chính sách mục tiêu lạm phát của các nước này có thể gợi ý cho chúng ta một số vấn đề:

Lựa chọn chính sách mục tiêu lạm phát cần được thực hiện sau một thời gian kiềm chế lạm phát thành công, nhằm xây dựng niềm tin của công chúng vào khả năng của ngân hàng trung ương Thời gian cụ thể để công bố chính sách này phụ thuộc vào điều kiện của từng quốc gia, và chỉ nên được công khai khi đã hội tụ đủ các yếu tố cần thiết để thực hiện thành công Việc công bố chính sách lạm phát phải đi kèm với cam kết đạt được mục tiêu, bởi nếu không, sẽ dẫn đến sự mất niềm tin từ phía công chúng.

Chỉ số CPI và chỉ số lạm phát cơ bản thường được sử dụng song song, mặc dù CPI có nhiều ưu điểm, nhưng nhược điểm lớn của nó là bao gồm các yếu tố gây biến động giá trong ngắn hạn Do đó, các ngân hàng trung ương thường bổ sung chỉ số lạm phát cơ bản, vì nó phản ánh chính xác hơn xu hướng biến động giá cả và tình trạng lạm phát Chính sách mục tiêu lạm phát cần có tính linh hoạt cao để đáp ứng hiệu quả trước những biến cố kinh tế, chính trị, và xã hội không lường trước, giúp ngân hàng trung ương có khả năng điều chỉnh kịp thời.

Chính sách mục tiêu lạm phát cần phải được thực hiện một cách minh bạch và gắn liền với trách nhiệm cao của ngân hàng trung ương Khi các chủ thể trong nền kinh tế hiểu rõ về các hành động và chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương, dự đoán của họ về các yếu tố liên quan đến lạm phát sẽ sát hơn với mong muốn của ngân hàng Điều này giúp tỷ lệ lạm phát trong dài hạn đạt được khung mục tiêu đã đề ra.

Chính sách mục tiêu lạm phát cần phải hài hòa với các chính sách kinh tế vĩ mô khác để tránh xung đột Mỗi quốc gia không chỉ thực hiện chính sách tiền tệ mà còn nhiều chính sách kinh tế vĩ mô khác Sự chồng chéo và xung đột giữa các chính sách sẽ gây khó khăn cho việc thực thi Do đó, ngay từ giai đoạn hoạch định, cần chú trọng đảm bảo các chính sách này không mâu thuẫn, nhằm tạo thuận lợi cho quá trình thực hiện sau này.

Dự báo lạm phát là yếu tố quan trọng trong việc thực hiện chính sách mục tiêu lạm phát Mặc dù không phải quốc gia nào cũng cần thực hiện dự báo này để đạt được thành công, việc có được những dự đoán trước về lạm phát sẽ giúp ngân hàng trung ương có cái nhìn rõ ràng hơn về tình hình kinh tế Điều này giúp họ chủ động hơn trong việc ứng phó với các thách thức, tránh bị bất ngờ và đưa ra các biện pháp phù hợp.

THỰC TRẠNG VỀ TÌNH HÌNH LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM

Tình hình lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua 15

Bảng 2.4 : Tình hình lạm phát giai đoạn 2003 – 2007

9.50% 9.40% 8.40% 6.60% 12.60% Đồ thị 2 :Lạm phát Việt Nam giai đoạn 2003-2007

Từ năm 2003 đến đầu năm 2006, tỷ lệ lạm phát tại Việt Nam dao động từ 9.4% đến 9.5%, cao hơn mức tăng trưởng kinh tế 7.3% - 7.8% Trong nửa đầu năm 2004, lạm phát chủ yếu là do lạm phát tiền tệ và giá cả, với sự gia tăng mạnh của giá xăng dầu, phôi thép và gạo xuất khẩu Nhiều quốc gia trong khu vực cũng chịu ảnh hưởng từ biến động thị trường, dẫn đến lạm phát gia tăng Dịch cúm gia cầm cũng góp phần làm lạm phát cao trong năm 2004 Sang năm 2005, tỷ lệ lạm phát giảm xuống còn 8.4%, trong khi tăng trưởng kinh tế đạt 9.4%, cho thấy sự phục hồi tích cực Tuy nhiên, vào bốn tháng đầu năm 2006, tốc độ tăng giá tiêu dùng lại cao hơn so với cùng kỳ năm trước, dẫn đến cảnh báo lạm phát và yêu cầu các biện pháp kiềm chế hiệu quả.

Cuối năm 2006 đến cuối năm 2007, đô-la Mỹ mất giá mạnh trên thị trường quốc tế, trong khi Việt Nam duy trì tỷ giá tiền đồng thấp và chính thức gia nhập WTO Đầu năm 2008, biến đổi khí hậu gây thiệt hại cho cây trồng và gia súc, làm giá lương thực tăng cao Đồng thời, chính phủ tăng giá xăng dầu lên 36%, dẫn đến áp lực lạm phát Để đối phó, tiền lương của công nhân viên chức được tăng vào tháng 1 năm 2008 Giá lương thực và nhà ở tăng cao khiến lạm phát đạt 19.4% vào tháng 3, mức cao nhất trong hơn một thập kỷ Chính sách thắt chặt tiền tệ được áp dụng để ổn định lạm phát trong quý 2 năm 2008, nhưng dự báo lạm phát vẫn ở mức 16% vào tháng 12 Mức lạm phát trung bình được dự đoán khoảng 18.3% cho năm 2008 và 10.2% cho năm 2009.

Những nguyên nhân dẫn đến lạm phát 16

Trong những năm gần đây, lạm phát tại Việt Nam diễn ra phức tạp, với mức cao nhất đạt hai con số vào năm 2007, là mức cao nhất trong 12 năm Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng này là do sự bất ổn trong việc điều hành chính sách tài chính và tiền tệ, trong bối cảnh nền kinh tế thị trường chưa phát triển đầy đủ.

2.3.1 Việc áp dụng phương pháp tính chỉ số CPI ở Việt Nam

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) là một tỷ số thể hiện sự thay đổi giá của rổ hàng hóa qua các năm so với năm gốc CPI phụ thuộc vào rổ hàng hóa tiêu dùng được chọn, nhưng có nhược điểm là chỉ bao phủ một số hàng hóa nhất định và sử dụng trọng số cố định dựa trên tỷ lệ chi tiêu của người dân đô thị trong năm gốc Điều này dẫn đến việc chỉ số không phản ánh đầy đủ sự biến động của giá hàng hóa tư bản, cũng như sự thay đổi trong cơ cấu tiêu dùng và phân bổ chi tiêu của người tiêu dùng theo thời gian.

Trong những năm qua, Việt Nam đã sử dụng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) để tính tỷ lệ lạm phát và điều hành chính sách tiền tệ Tuy nhiên, chỉ số này có nhược điểm là không phản ánh chính xác tình hình lạm phát do sự dao động thường xuyên Những biến động ngắn hạn đôi khi không liên quan đến áp lực lạm phát cơ bản, dẫn đến nguy cơ sai lệch trong chính sách tiền tệ Hiện tại, theo phương pháp tính CPI, nhóm hàng lương thực chiếm tỷ trọng lớn nhất, lên tới 47.9% trong rổ hàng hóa Mặc dù nhiều nhóm hàng hóa khác có biến động giá đáng kể, nhưng giá cả của lương thực thực phẩm như lúa gạo, cao su, cà phê, thịt heo và rau quả vẫn biến động thất thường trong những năm qua.

Trong các năm 1997, 1999 và 2000, mặt hàng lương thực thực phẩm giảm giá mạnh, dẫn đến chỉ số CPI ở mức thấp, thậm chí âm Tuy nhiên, vào năm 2007, sự gia tăng giá cả của nhóm hàng này đã tác động đến chỉ số CPI, làm cho nó tăng lên Nếu loại bỏ những biến động giá đột ngột, chỉ số lạm phát thực tế có thể thấp hơn so với công bố Biểu đồ chỉ số giá tiêu dùng, giá vàng và USD trong các tháng năm 2007-2008 so với kỳ gốc 2005 cho thấy rõ sự biến động này.

2.3.2 Mức cung tiền tăng cao vào năm 2007

Năm 2007, Việt Nam gia nhập WTO, mở ra môi trường thương mại quốc tế mới và thu hút nhiều nhà đầu tư nước ngoài Sự gia tăng lượng cung ngoại tệ đã khiến chính quyền phải chi tiền Việt Nam để mua ngoại tệ về ngân hàng trung ương Tuy nhiên, số tiền này quá lớn, dẫn đến tình trạng dư thừa nội tệ trên thị trường và gây ra lạm phát.

Từ năm 2003 đến 2007, Việt Nam chứng kiến sự gia tăng nhanh chóng của lượng tiền lưu hành, với mức tăng khoảng 25% mỗi năm và tín dụng tăng hơn 35% Trong khi đó, số lượng hàng hóa và dịch vụ mà người dân có thể mua chỉ tăng dưới 10% mỗi năm Sự chênh lệch này đã tạo ra áp lực lớn lên nền kinh tế.

Trong năm qua, ngân hàng nhà nước đã chi tiêu một lượng lớn nội tệ để mua ngoại tệ, đặc biệt là thông qua đầu tư trực tiếp và vào thị trường chứng khoán, dẫn đến sự gia tăng đáng kể trong mức cung tiền Đồ thị 4 minh họa sự so sánh giữa mức cung tiền của Việt Nam với Trung Quốc và Thái Lan.

Trong khoảng thời gian từ đầu năm 2005 đến cuối tháng 6 năm 2007, GDP của Việt Nam đã tăng 22%, trong khi mức cung tiền mặt và tiền gửi ngân hàng tăng 110% So với Việt Nam, GDP của Trung Quốc ghi nhận mức tăng 29%, nhưng mức cung tiền chỉ tăng 50% Đối với Thái Lan, chênh lệch giữa tăng trưởng GDP và tăng cung tiền hầu như không đáng kể.

Việt Nam ghi nhận mức tăng trưởng kinh tế thấp hơn so với Trung Quốc, nhưng tỷ lệ tăng cung tiền lại cao hơn đáng kể Điều này giải thích cho tình trạng lạm phát cao hơn ở Việt Nam so với các quốc gia khác Mặc dù giá gạo và giá dầu thế giới có thể tăng mạnh, nhưng tác động của những yếu tố này đến lạm phát ở Việt Nam, Trung Quốc và Thái Lan không có sự khác biệt lớn.

2.3.3 Thất thoát, lãng phí trong đầu tư công Đối với đầu tư công thì đây là một vấn đề lớn tồn tại hàng chục năm chưa giải quyết được khi nói đến lạm phát người ta thường nhắc đến yếu tố tiền tệ mà không chú ý đến vấn đề đầu tư, đặc biệt là đầu tư công, tức là đầu tư của nhà nước, sử dụng tiền rất lớn nhưng đa số lại không phát huy hiệu quả cũng như làm thất thoát rất nhiều theo số liệu thống kê cho thấy năm 2007 đầu tư công chiếm 200.000 tỷ trong số 461.000 tỷ đồng đầu tư của toàn xã hội vì vậy một trong những nguyên nhân sâu xa của tình trạng lạm phát hiện nay là sự thất thoát và lãng phí trong đầu tư công, hàng năm các chuyên gia đều có khuyến cáo nhưng những nhà làm chính sách hình như coi nhẹ vấn đề này Nguyên nhân nữa là các khoảng đầu tư không hiệu quả của nhiều công ty quốc doanh lớn hoạt động trên nhiều lĩnh vực Nếu con số này chính xác thì tronh năm qua đã có 60.000 tỷ đồng lãng phí đang nằm trong lưu thông, làm trầm trọng thêm tình hình lạm phát Thâm hụt ngân sách 5,8% GDP trong khi theo kinh nghiệm quốc tế, thâm hụt 3% đã đáng lo ngại thâm hụt thương mại ước chừng 12 tỷ USD, tức khoảng 16% GDP trong khi mức 5-10% đã là đáng lo ngại đối với quốc tế luan van, khoa luan 17 of 66.

Một nghiên cứu gần đây của các nhà kinh tế học Harvard cho thấy chỉ số ICOP của Việt Nam năm 2007 đạt 4.7, điều này cho thấy những khoản đầu tư nước ngoài vào các dự án có hiệu suất kinh tế khá thấp.

Để tăng 1% GDP, nền kinh tế Việt Nam cần tăng 4.7% vốn đầu tư, một chỉ số cao hơn nhiều so với mức ICOP thông thường chỉ từ 1.2 đến 2 Việc sử dụng vốn kém hiệu quả đã góp phần làm gia tăng lạm phát hiện nay Để duy trì tăng trưởng, Việt Nam buộc phải đầu tư nhiều hơn và tăng cung tiền, dẫn đến lạm phát gia tăng Lạm phát hiện tại có thể được xem là hệ quả của các chính sách ngắn hạn, chủ yếu thông qua gia tăng chi tiêu công và đầu tư, mà không cải thiện được ICOP trong nhiều năm qua.

2.3.4 Tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng của các ngân hàng tăng mạnh

Tổng phương tiện thanh toán tăng 20% - 30% và dư nợ cho vay nền kinh tế tăng 18-22% so với năm

Năm 2007, tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 37% so với năm 2006, vượt xa mức tăng trung bình của giai đoạn 2001-2007, cho thấy lượng cung tiền tệ đã tăng quá mức cần thiết cho nền kinh tế Tốc độ tăng này vượt 80% so với chỉ tiêu đề ra đầu năm, phản ánh cả nguyên nhân khách quan và chủ quan Nguyên nhân khách quan bao gồm sự gia tăng lượng ngoại tệ từ FDI, FII, kiều hối và xuất khẩu Trong khi đó, nguyên nhân chủ quan là do sự thiếu chú trọng vào việc thắt chặt tiền tệ ngay từ đầu năm, dẫn đến việc phát hành tiền quá mức để mua ngoại tệ và tăng dự trữ ngoại tệ ồ ạt trong nửa đầu năm 2007.

Theo kinh nghiệm trong nhiều năm, tổng phương tiện thanh toán đã tăng từ 20% đến 30% so với năm 2006, cho thấy kế hoạch đề ra là hợp lý Tuy nhiên, nếu có sự gia tăng đột biến về cung ngoại tệ vào nền kinh tế, cần có những giải pháp khác thay vì phát hành tiền để mua ngoại tệ, điều này sẽ mang lại hiệu quả tốt hơn.

Tổng phương tiện thanh toán

(nguồn : trang web ngân hàng nhà nước)

Dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng toàn nền kinh tế năm 2007 đã tăng mạnh, đạt 37,8%, cao hơn nhiều so với các năm trước Tính đến hết tháng 11/2007, tổng dư nợ cho vay và đầu tư của hệ thống ngân hàng tăng gần 34%, và dự kiến đến cuối năm 2007, mức tăng có thể lên tới 37-38% so với cuối năm 2006, gấp đôi so với mức dự kiến ban đầu là 17-21% Năm 2007, nhiều lĩnh vực đã thu hút một lượng lớn vốn tín dụng ngân hàng.

Ảnh hưởng của lạm phát đến nền kinh tế Việt Nam 22

Lạm phát cao và kéo dài gây ra nhiều tác động tiêu cực đến nền kinh tế, bao gồm tăng chi phí sản xuất, giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và làm giảm giá trị đồng tiền trong nước Sự khó dự đoán về giá cả trong tương lai khiến cho việc lập kế hoạch chi tiêu và tiết kiệm trở nên khó khăn, làm người dân lo ngại về sức mua và mức sống của họ Lạm phát cũng khuyến khích đầu tư mang tính đầu cơ, thay vì đầu tư vào sản xuất thực tế Những người có thu nhập không tăng kịp với giá cả, đặc biệt là người hưởng lương hưu và công chức, sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề nhất, dẫn đến mức sống giảm sút và gây khổ cho toàn dân, đặc biệt là giới lao động.

2.4.1 Tác động của lạm phát đến người tiêu dùng

Trong bối cảnh tiêu dùng hiện nay, người tiêu dùng đang phải đối mặt với tác động nghiêm trọng của lạm phát, khi giá cả thực phẩm tăng cao trong khi mức lương không thay đổi Điều này đã dẫn đến tình trạng khó khăn cho nhiều người, đặc biệt là những người có thu nhập cố định như người về hưu, người hưởng chính sách, và sinh viên Lạm phát trở thành một loại thuế vô hình, ảnh hưởng nặng nề nhất đến những đối tượng không được điều chỉnh thu nhập theo mức tăng giá.

2.4.2 Tác động của lạm phát tới người nông dân

Nông dân và lạm phát liên quan đến ba vấn đề chính: sản phẩm nông nghiệp đang tăng giá nhanh chóng; nông dân là nhóm đông đảo và nghèo nhất, do đó, họ chịu tác động lớn nhất từ lạm phát; và nông dân cũng có khả năng trở thành lực lượng chống lạm phát hiệu quả.

Giá lương thực - thực phẩm do nông dân sản xuất đang tăng cao hơn nhiều so với tốc độ tăng của 9 nhóm hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng khác, cụ thể là gấp rưỡi tốc độ tăng chung Cụ thể, năm 2007, giá lương thực - thực phẩm tăng 18,92% so với mức tăng 12,63% của các nhóm hàng khác, và trong 2 tháng đầu năm 2008, mức tăng này là 10,17% so với 6,02% Nhóm hàng này hiện chiếm tới 42,85% tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng của dân cư, do đó, tốc độ tăng giá của nó đóng vai trò quyết định trong việc ảnh hưởng đến tốc độ tăng giá chung.

Nông dân hiện chiếm gần ba phần tư dân số và cũng là ba phần tư tổng số người tiêu dùng cả nước Chênh lệch giàu nghèo lớn, lên đến 8,43 lần, trong khi tỷ lệ chi tiêu cho lương thực, thực phẩm của người nghèo gấp đôi so với người giàu Do đó, lạm phát cao sẽ gây khó khăn hơn cho người nghèo.

Nông dân, đặc biệt là nông dân nghèo, chịu ảnh hưởng nặng nề từ lạm phát cao, mặc dù giá lương thực và thực phẩm tăng Trong khi giá đầu ra có vẻ có lợi, giá đầu vào cho vật tư nông nghiệp lại tăng cao hơn, khiến nông dân gặp khó khăn Cụ thể, trong năm 2007, giá lương thực tăng 15% và thực phẩm tăng 10%, nhưng giá phân bón nhập khẩu tăng 19,2% và giá thức ăn gia súc tăng từ 30-40% Đến đầu năm 2008, giá lương thực và thực phẩm tiếp tục tăng, trong khi giá phân bón tăng tới 71,3% Mặc dù giá đầu ra tăng, nông dân chỉ nhận được một phần nhỏ do phải chia sẻ với thương lái Nếu nông dân gặp mùa màng thất bát, họ có thể rơi vào tình trạng khó khăn hơn, dù giá bán có cao.

Vấn đề thứ ba liên quan đến lịch sử nông nghiệp Việt Nam, đặc biệt là giai đoạn khủng hoảng lạm phát phi mã cách đây vài chục năm Sau khi được giải phóng nhờ Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị khóa VI, người nông dân đã sản xuất một lượng lương thực không chỉ đủ cho nhu cầu trong nước mà còn có khả năng xuất khẩu lớn Sự đảm bảo an ninh lương thực đã thúc đẩy sự phát triển toàn diện của nông nghiệp, đưa nhiều nông sản Việt Nam vươn lên vị trí cao trên thị trường thế giới.

Trong bối cảnh khó khăn trong nước và giá cả thế giới tăng cao, nếu không có sự hỗ trợ từ nông dân và Nhà nước, giá lương thực và thực phẩm sẽ tiếp tục tăng, đẩy nhanh tốc độ lạm phát Để kiểm soát lạm phát, cần tăng sản lượng và giảm chi phí sản xuất Nhà nước nên áp dụng chính sách giảm thuế suất để hạ giá nhập khẩu nguyên liệu như phân bón, thức ăn gia súc, thuốc trừ sâu và nhiên liệu.

2.4.3 Tác động của lạm phát đến thị trường chứng khoán

Trong lịch sử quản lý kinh tế vĩ mô của Việt Nam, kiểm soát lạm phát đã đạt được nhiều thành công, với mức lạm phát giảm từ 700% vào năm 1986 xuống thấp vào đầu những năm 1990 và duy trì ở mức ổn định trong các năm sau Tuy nhiên, nếu lạm phát có xu hướng tăng cao trong tương lai, Chính phủ có thể áp dụng các biện pháp mạnh để kiềm chế, mặc dù điều này có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường cổ phiếu trong ngắn hạn.

Việc tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc sẽ giúp hút lượng tiền nhàn rỗi từ ngoài lưu thông về ngân hàng nhà nước Nếu lạm phát tiếp tục gia tăng, việc nâng tỉ lệ dự trữ bắt buộc của các ngân hàng thương mại tại ngân hàng nhà nước từ 10% lên 15% chỉ còn là vấn đề thời gian, khi mà tỉ lệ này đã được điều chỉnh từ 5% lên 10%.

2.4.4 Tác động của lạm phát đến tín dụng ngân hàng

Lạm phát làm giảm sức mua của đồng tiền và tăng tốc độ lưu thông trên thị trường, dẫn đến tình trạng khủng hoảng trong hệ thống ngân hàng khi lượng tiền gửi giảm mạnh Các ngân hàng thương mại phải cạnh tranh bằng cách tăng lãi suất tiền gửi, nhưng trên thị trường chủ yếu chỉ có người đi vay do chính sách thắt chặt tiền tệ của chính phủ, gây ra tình trạng thiếu nội tệ Nhiều ngân hàng phá sản do mất khả năng thanh toán và thua lỗ, trong khi các ngân hàng nhỏ có thanh khoản thấp phải đẩy lãi suất lên cao nhất trong nhiều năm và vay lại trên thị trường liên ngân hàng, làm rối loạn hệ thống tiền tệ.

2.4.5 Tác động của lạm phát tới hoạt động sản xuất kinh doanh

Lạm phát và sự gia tăng giá cả nguyên liệu đang ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh, dẫn đến sự phát triển không đồng đều và mất cân đối giữa các ngành.

Trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, sự gia tăng giá cả diễn ra liên tục, đặc biệt ở các yếu tố đầu vào như sắt thép và xăng dầu, dẫn đến chi phí sản xuất tăng cao Điều này buộc các công ty phải tăng giá bán, khiến khách hàng giảm lượng mua Ngoài ra, áp lực từ người lao động đòi tăng lương cũng gia tăng, bởi giá cả leo thang làm giảm mức sống nếu lương không được điều chỉnh Các doanh nghiệp muốn vay vốn để mở rộng kinh doanh cũng gặp khó khăn do lãi suất tăng Tóm lại, khi giá trung bình của sản phẩm tiêu dùng tăng, ảnh hưởng không chỉ dừng lại ở những sản phẩm có giá tăng nhanh mà còn lan tỏa đến toàn bộ các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ và tiêu dùng khác.

2.4.6 Tác động của lạm phát tới tài chính nhà nước

Mặc dù lạm phát ban đầu có thể tạo ra thu nhập cho ngân sách nhà nước thông qua cơ chế phân phối lại và phát hành, nhưng tác động tiêu cực lâu dài của nó lại làm suy giảm nguồn thu ngân sách, chủ yếu từ thuế do sản xuất kém và sự phá sản của nhiều doanh nghiệp Hệ quả là trật tự an toàn xã hội bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

Lạm phát có hậu quả nặng nề đối với đời sống kinh tế - xã hội của một quốc gia, làm gia tăng sự phân hóa giàu nghèo Trong khi một số nhóm có thể thu lợi từ lạm phát, thì những nhóm khác, đặc biệt là người lao động, lại phải gánh chịu thiệt hại nghiêm trọng.

Các chính sách kiềm chế lạm phát của chính phủ trong thời gian qua 25

Trong thời gian vừa qua chính phủ đã thống nhất xác định nhiệm vụ trọng tâm hiện nay là:

Phấn đáu kiềm chế lạm phát , ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững

Kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên hàng đầu của Chính phủ, vì nếu không kiểm soát được lạm phát, sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến phát triển sản xuất, đời sống nhân dân, ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng kinh tế trong trung và dài hạn Điều này cũng dẫn đến giảm sút việc làm và môi trường đầu tư xấu đi Chính phủ đang tập trung chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm và mục tiêu này thông qua việc triển khai quyết liệt và đồng bộ các giải pháp chủ yếu.

Chính phủ đã thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm kiểm soát lạm phát, vốn có nguyên nhân chủ yếu từ yếu tố tiền tệ Từ năm 2004, mức cung tiền và dư nợ tín dụng đã tăng liên tục, đặc biệt là vào năm 2007, dẫn đến tình trạng lạm phát cao Nhằm ứng phó với tình hình này, Chính phủ quyết định kiểm soát chặt chẽ tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng ngay từ đầu năm, đồng thời tạo điều kiện cho sản xuất hàng hóa và xuất khẩu phát triển.

Cắt giảm đầu tư công và chi phí thường xuyên của các cơ quan sử dụng ngân sách là cần thiết để kiểm soát đầu tư của doanh nghiệp nhà nước và giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách Đồng thời, cần tạo điều kiện và tập trung vốn cho các công trình sắp hoàn thành, đặc biệt là những dự án sản xuất hàng hóa từ mọi thành phần kinh tế, nhằm đẩy nhanh tiến độ và đưa vào sản xuất sớm nhất có thể.

Ba là, tập trung vào phát triển sản xuất công nghiệp và nông nghiệp, khắc phục nhanh chóng hậu quả của thời tiết và dịch bệnh nhằm tăng sản lượng lương thực, thực phẩm Để đạt được mục tiêu này, Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho các Bộ trưởng và Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố chỉ đạo quyết liệt và kịp thời tháo gỡ khó khăn về vốn, thị trường và thủ tục hành chính, từ đó thúc đẩy sản xuất phát triển.

Để đảm bảo cân đối cung cầu hàng hóa, cần đẩy mạnh xuất khẩu và giảm nhập siêu, đặc biệt là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và đời sống Việc này sẽ giúp ngăn chặn tình trạng đột biến giá và đầu cơ Thủ tướng Chính phủ cùng các Bộ trưởng sẽ tiếp tục làm việc với các Hiệp hội ngành hàng và doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng thiết yếu như lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, xăng dầu, sắt thép, vật liệu xây dựng và phân bón Các đơn vị này có nhiệm vụ bảo đảm nguồn hàng và phối hợp với Chính phủ để kiềm giữ giá cả.

Năm là, việc tiết kiệm triệt để trong sản xuất và tiêu dùng là rất cần thiết Hiện nay, lãng phí trong các cơ quan, đơn vị diễn ra phổ biến, cho thấy tiềm năng tiết kiệm còn rất lớn Giải pháp này không chỉ giúp giảm áp lực về cầu và nhập siêu, mà còn nâng cao hiệu quả của nền sản xuất xã hội.

Chính phủ cam kết tăng cường quản lý thị trường và kiểm soát việc chấp hành pháp luật về giá, nhằm ngăn chặn tình trạng đầu cơ và nâng giá, đặc biệt đối với các mặt hàng thiết yếu như xăng dầu, sắt thép, xi măng, thuốc chữa bệnh, lương thực và thực phẩm Đồng thời, cần ngăn chặn buôn lậu qua biên giới, đặc biệt là xăng dầu và khoáng sản Các Hiệp hội ngành hàng cũng được yêu cầu tham gia tích cực và ủng hộ các giải pháp bình ổn thị trường và giá cả.

Chính phủ đang triển khai các giải pháp và chính sách hỗ trợ người nghèo bị ảnh hưởng bởi thiên tai và giá cả tăng cao Đặc biệt, tập trung vào việc hỗ trợ nông dân chịu thiệt hại do đợt rét đậm vừa qua, nhằm giảm bớt khó khăn cho sản xuất và đời sống Các biện pháp này ưu tiên cho người nghèo, vùng miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số và các khu vực khó khăn khác, với mục tiêu biến thách thức thành cơ hội để phát triển kinh tế - xã hội bền vững Trước bối cảnh giá cả leo thang, Chính phủ đã quyết định mở rộng các chính sách an sinh xã hội để bảo vệ đời sống của người dân, đặc biệt là những hộ nghèo và người lao động có thu nhập thấp.

Các cấp, ngành và doanh nghiệp cần tích cực triển khai các chính sách chống lạm phát, thực hành tiết kiệm và ngăn chặn đầu cơ tăng giá Đồng thời, các phương tiện thông tin đại chúng phải cung cấp thông tin chính xác để tạo niềm tin và khí thế trong nhân dân về tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội bền vững của đất nước.

Trong tám giải pháp chính phủ đưa ra, nhìn chung được đánh giá cao vì nhắm đúng vấn đề và thể hiện quyết tâm, tập trung vào ba nhóm vấn đề: (a) siết chặt chính sách tiền tệ, (b) loại bỏ các khoản đầu tư kém hiệu quả, và (c) giảm thiểu sốc từ các biện pháp của chính phủ Việt Nam hiện vẫn đang trong bối cảnh quốc tế thuận lợi.

Bây giờ tất cả phụ thuộc vào sự thực hiện, những vấn đề sau đây:

Trong bối cảnh khẩn cấp hiện nay, cần thành lập một cơ quan làm việc khẩn cấp dưới dạng "task forces" với sự hỗ trợ từ đội ngũ cán bộ kỹ thuật và chuyên gia nước ngoài theo chỉ định của Thủ tướng Cơ quan này có nhiệm vụ tổng rà soát các vấn đề liên quan để đảm bảo thực hiện 8 giải pháp đã đề ra, lập tức xây dựng chương trình hành động và chỉ huy việc thực hiện các giải pháp này Mặc dù Ủy ban giám sát tài chính Quốc gia sẽ đảm nhận một vai trò quan trọng trong cuộc chiến chống lạm phát, nhưng nó không thể thay thế cho cơ quan chống lạm phát mới này.

Cơ quan này dự kiến sẽ xem xét chương trình thực hiện 8 biện pháp từ các cấp Bộ, ngành, địa phương và các tập đoàn lớn, nhằm xử lý kịp thời các vấn đề quan trọng Hàng ngày, cơ quan sẽ trực tiếp đôn đốc và kiểm soát việc thực hiện chương trình 8 giải pháp của các ngành, các cấp Chương trình này cần được coi như một "bộ Luật khẩn cấp".

Nhà nước cần áp dụng biện pháp quản lý chặt chẽ để đưa tỷ giá về gần với thị trường, đồng thời kiểm soát dòng vốn, hướng chúng vào sản xuất kinh doanh và làm thông suốt thị trường vốn Cần kiên quyết tách các tập đoàn kinh tế lớn khỏi các mối quan hệ gia đình, đặc biệt là trong lĩnh vực ngân hàng thương mại và kinh doanh địa ốc Nhà nước có thể cho phép các tập đoàn mở rộng kinh doanh sang các ngành nghề khác, với tỷ lệ tối đa 30% tổng vốn, nhằm tuân thủ luật pháp hiện hành Đồng thời, cần kiểm soát gắt gao việc thực hiện các biện pháp “giảm sốc” của doanh nghiệp và các địa phương.

CÁC GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁP Ở VIỆT NAM 27

Ngày đăng: 01/09/2021, 09:10

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w