1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Quan hệ singapore hoa kỳ từ năm 1990 dến năm 2012

214 46 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 214
Dung lượng 11,05 MB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài (11)
  • 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu (13)
  • 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (13)
  • 4. Nguồn tư liệu (14)
  • 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu (15)
  • 6. Đóng góp của luận án (16)
  • 7. Bố cục của luận án (16)
  • CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam (16)
    • 1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài (19)
    • 1.3. Nhận xét chung về tình hình nghiên cứu và những vấn đề luận án cần tập trung giải quyết (33)
  • CHƯƠNG 2. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ SINGAPORE – HOA KỲ TỪ NĂM 1990 ĐẾN NĂM 2012 2.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực (16)
    • 2.1.1. Bối cảnh quốc tế (36)
    • 2.1.2. Bối cảnh khu vực (38)
    • 2.1.3. Nhân tố Trung Quốc (42)
    • 2.2. Tình hình của hai nước Singapore và Hoa Kỳ (45)
      • 2.2.1. Tình hình Singapore (45)
      • 2.2.2. Tình hình Hoa Kỳ (48)
    • 2.3. Quan hệ Singapore – Hoa Kỳ trước năm 1990 (53)
    • 2.4. Chính sách đối ngoại của Singapore, Hoa Kỳ và vị trí mỗi nước trong chính sách đối ngoại của nhau (57)
  • CHƯƠNG 3. NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU TRONG QUAN HỆ (16)
    • 3.1.1. Giai đoạn 1990 – 2001 (66)
    • 3.1.2. Giai đoạn 2001 – 2012 (71)
    • 3.2. Trên lĩnh vực an ninh - quốc phòng (79)
      • 3.2.1. Diễn biến một số lĩnh vực hợp tác chủ yếu (79)
      • 3.2.2. Các sáng kiến an ninh trong cuộc chiến chống khủng bố (84)
      • 3.2.3. Hiệp định khung chiến lược SFA (87)
    • 3.3. Trên lĩnh vực kinh tế (90)
      • 3.3.1. Thương mại (90)
      • 3.3.2. Đầu tư (99)
  • CHƯƠNG 4. MỘT SỐ NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ VỀ QUAN HỆ SINGAPORE – HOA KỲ TỪ NĂM 1990 ĐẾN NĂM 2012 VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ GỢI MỞ (16)
    • 4.1.1. Thành tựu (114)
    • 4.1.2. Hạn chế (119)
    • 4.2. Đặc điểm quan hệ (122)
    • 4.3. Tác động của quan hệ (135)
      • 4.3.1. Đối với Singapore (135)
      • 4.3.2. Đối với Hoa Kỳ (138)
      • 4.3.3. Đối với khu vực Đông Nam Á (139)
    • 4.4. Một số vấn đề gợi mở cho Việt Nam (142)
  • KẾT LUẬN (145)

Nội dung

Lý do chọn đề tài

Sự thành công của Singapore trong việc chuyển mình từ một đảo quốc nhỏ bé với diện tích khoảng 700 km² và tài nguyên hạn chế thành một trong những quốc gia phát triển hàng đầu châu Á đã thu hút sự quan tâm của nhiều nghiên cứu Với mức thu nhập bình quân cao và vai trò là trung tâm tài chính, thương cảng quốc tế, Singapore đã trở thành mô hình cho nhiều quốc gia, đặc biệt ở châu Á Nguyên nhân cho sự thành công này bao gồm chính sách công hiệu quả, tầm nhìn lãnh đạo, và đặc biệt là chính sách đối ngoại khôn khéo, thiết lập quan hệ sâu rộng và tận dụng các yếu tố bên ngoài để phát triển Singapore đã khéo léo lợi dụng lợi thế địa chiến lược và mối quan hệ với Hoa Kỳ để tạo động lực cho sự phát triển của mình Mặc dù có nhiều bài viết nghiên cứu về quan hệ Singapore - Hoa Kỳ, nhưng chưa có nghiên cứu hệ thống nào tại Việt Nam về cách ứng xử của Singapore trong mối quan hệ này.

Trong bối cảnh mới, mối quan hệ giữa Singapore và Hoa Kỳ bị tác động bởi nhiều nhân tố, với mục tiêu chiến lược của hai nước trong quan hệ song phương là điều cần làm rõ Diễn biến quan hệ từ năm 1990 đến 2012 cho thấy nhiều thành tựu cũng như hạn chế trong các lĩnh vực hợp tác Nghiên cứu này sẽ cung cấp cái nhìn toàn diện về bản chất và đặc điểm của mối quan hệ, đồng thời phân tích tác động của nó đối với từng nước và khu vực Đông Nam Á Việc tìm hiểu động cơ, sự lựa chọn và cách thức triển khai của quan hệ này sẽ giúp hiểu rõ hơn về chính sách đối ngoại của Singapore và Mỹ, hai đối tác quan trọng của Việt Nam, mang lại ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc.

Sau Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ trở thành siêu cường duy nhất và cần những đối tác chiến lược như Singapore để duy trì sự hiện diện ở Đông Nam Á Quan hệ Singapore – Hoa Kỳ là một ví dụ điển hình của đối tác chiến lược giữa một siêu cường và một quốc gia nhỏ nhưng phát triển, có vị trí chiến lược trong khu vực Singapore đóng vai trò là đối tác an ninh chiến lược của Hoa Kỳ, mặc dù không phải là đồng minh chính thức, và mối quan hệ này có nhiều đặc điểm thú vị cần phân tích sâu Kinh nghiệm của Singapore trong quan hệ với Hoa Kỳ có thể cung cấp những bài học quý giá cho các nhà hoạch định chính sách của nhiều quốc gia, bao gồm cả Việt Nam, trong việc bảo vệ và mở rộng không gian an ninh cũng như phát triển đất nước Nghiên cứu về quan hệ Singapore – Hoa Kỳ không chỉ có ý nghĩa khoa học mà còn thực tiễn và thời sự, góp phần vào việc hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam.

Mặc dù mối quan hệ song phương giữa Singapore và Hoa Kỳ sau Chiến tranh Lạnh đã có những phát triển quan trọng, nhưng vẫn còn thiếu các nghiên cứu chuyên sâu tại Việt Nam Hiện tại, chủ đề này chỉ được đề cập một cách hạn chế trong các công trình tổng quát và một số tạp chí chuyên ngành về quan hệ quốc tế và lịch sử Nhằm đáp ứng nhu cầu nghiên cứu và với niềm đam mê cá nhân, tôi đã quyết định chọn đề tài này dưới sự hướng dẫn của người hướng dẫn khoa học.

Singapore – Hoa Kỳ từ năm 1990 đến năm 2012 làm đề tài Luận án Tiến sĩ, chuyên ngành Lịch sử thế giới.

Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

Luận án phân tích sự phát triển và bản chất của quan hệ Singapore - Hoa Kỳ từ năm 1990 đến 2012, đồng thời so sánh để đưa ra những nhận xét và đánh giá độc lập về mối quan hệ song phương đặc biệt này.

2.2 Nhi ệ m v ụ nghiên c ứ u Để đạt được những mục đích nêu trên, đề tài tập trung giải quyết các nhiệm vụ chủ yếu sau đây:

- Làm rõ những nhân tố tác động hình thành mối quan hệ Singapore – Hoa

Kỳ từ năm 1990 đến năm 2012.

Từ năm 1990 đến 2012, quan hệ giữa Singapore và Hoa Kỳ đã phát triển mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực hợp tác quan trọng Trong chính trị - ngoại giao, hai nước đã thiết lập các cuộc đối thoại thường xuyên và tăng cường hợp tác đa phương Về an ninh - quốc phòng, Singapore đã trở thành một đối tác chiến lược của Hoa Kỳ trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, tham gia vào các cuộc tập trận quân sự và chia sẻ thông tin tình báo Ngoài ra, lĩnh vực kinh tế cũng chứng kiến sự tăng trưởng đáng kể, với việc hai nước ký kết nhiều hiệp định thương mại và đầu tư, thúc đẩy sự phát triển kinh tế song phương.

- Đánh giá thành tựu, hạn chế; phân tích tính chất, đặc điểm và tác động của mối quan hệ Singapore – Hoa Kỳ.

Nguồn tư liệu

Để thực hiện luận án, chúng tôi sử dụng chủ yếu các nguồn tư liệu sau:

Các văn kiện chính thức của Chính phủ Singapore và Hoa Kỳ thường đề cập đến chính sách đối ngoại, tập trung chủ yếu vào an ninh và chính trị Những bài phát biểu và tuyên bố chung của các nhà lãnh đạo hai nước nhấn mạnh sự hợp tác trong lĩnh vực an ninh và chính trị.

+ Các Hiệp định, Thoả thuận được ký kết giữa hai bên: Hiệp định Thương mại Tự do Hoa Kỳ - Singapore (USSFTA), Hiệp định khung chiến lược (SFA).

+ Nghiên cứu thống kê lưu trữ của Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI), Thông cáo báo chí của Chính phủ Singapore và Hoa Kỳ.

Các sách chuyên khảo về lịch sử thế giới hiện đại, lịch sử quan hệ ngoại giao, lịch sử quan hệ quốc tế, lịch sử Singapore và lịch sử Hoa Kỳ đều có liên quan mật thiết đến các vấn đề nghiên cứu của đề tài.

+ Các bài nghiên cứu được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành, kỷ yếu hội thảo trong nước và quốc tế.

Các nguồn tài liệu tham khảo quan trọng bao gồm Thông tấn xã Việt Nam, tài liệu lưu trữ tại các trường đại học lớn trên thế giới, Thư viện quốc gia, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á và Viện Nghiên cứu châu Á.

Mỹ, Học viện Ngoại giao…

+ Các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ trong nước và quốc tế.

Ngoài các nguồn tài liệu đã đề cập, tác giả còn tích cực tìm kiếm và khai thác thông tin từ internet, đặc biệt là từ các trang web uy tín.

Do tài liệu nghiên cứu chủ yếu bằng tiếng Anh, nhiều từ ngữ, đặc biệt là tên các cơ quan, đảng phái, doanh nghiệp, nhân vật và địa danh, không có tương ứng giữa Singapore và Việt Nam Vì vậy, nhiều từ được tác giả chuyển ngữ sang tiếng Việt chỉ để sử dụng trong luận án, và mọi trích dẫn cho mục đích khác không liên quan đến tác giả.

Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện luận án này, chúng tôi tuân thủ phương pháp luận Sử học Macxit trong việc phân tích và đánh giá các sự kiện, hiện tượng lịch sử Chúng tôi cũng luôn quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng liên quan.

Hồ Chí Minh và đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về quan hệ quốc tế và chính sách đối ngoại.

Phương pháp nghiên cứu trong đề tài này bao gồm phương pháp lịch sử và phương pháp logic, kết hợp để phân tích quan hệ Singapore – Hoa Kỳ Phương pháp lịch sử giúp trình bày quá trình phát triển mối quan hệ này theo trình tự thời gian, liên hệ với bối cảnh và các sự kiện quốc tế, khu vực Trong khi đó, phương pháp logic cho phép nghiên cứu tổng quát để tìm ra bản chất và quy luật vận động của các sự kiện Tác giả sử dụng lập luận quy nạp để chọn lọc thông tin và rút ra kết luận cá nhân từ các dữ liệu đã thu thập.

Đề tài sử dụng các phương pháp khoa học liên ngành như phân tích, tổng hợp, so sánh và thống kê để trình bày nội dung cụ thể Tác giả áp dụng lý thuyết chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa tự do trong quan hệ quốc tế để nghiên cứu chính sách đối ngoại của Singapore và Hoa Kỳ Chủ nghĩa hiện thực giải thích sự tồn tại và an ninh của Singapore, cũng như lợi ích quốc gia và quyền lực của hai quốc gia, hệ thống cân bằng quyền lực và liên minh để duy trì trật tự thế giới Trong khi đó, chủ nghĩa tự do tập trung vào tự do hóa thương mại và hợp tác vì hòa bình khu vực và thế giới Tóm lại, cả Hoa Kỳ và Singapore đều có xu hướng nghiêng về chủ nghĩa hiện thực trong chính sách đối ngoại của mình.

Đóng góp của luận án

Luận án này dựa trên những cứ liệu lịch sử xác thực, nhằm cung cấp cái nhìn khách quan và khoa học về mối quan hệ giữa Singapore và Hoa Kỳ trong giai đoạn 22 năm từ 1990 đến 2012 Qua đó, bài viết rút ra những đặc điểm và tác động của mối quan hệ này đối với hòa bình, an ninh và sự phát triển của khu vực.

Dựa trên nghiên cứu nội dung luận án, có thể rút ra những kết luận quan trọng cho chính sách đối ngoại của Việt Nam đối với các cường quốc và các nước trong khu vực trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay Kết quả của luận án cung cấp các cơ sở khoa học thiết thực cho việc thực hiện chính sách đối ngoại của Việt Nam, đặc biệt trong quan hệ với Hoa Kỳ và Singapore, hai đối tác quan trọng của đất nước.

Luận án đóng vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu và giảng dạy tại các trường đại học và viện nghiên cứu, đặc biệt trong các lĩnh vực như Lịch sử thế giới hiện đại và quan hệ quốc tế châu Á – Thái Bình Dương Tài liệu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về chính sách đối ngoại và nền ngoại giao của Singapore và Hoa Kỳ.

Bố cục của luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội dung chính của luận án bao gồm 4 chương:

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1 Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam

Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài

Quan hệ giữa Singapore và Hoa Kỳ đóng vai trò quan trọng trong chính sách đối ngoại của cả hai quốc gia và trong bối cảnh quan hệ quốc tế, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, học giả, và lãnh đạo chính phủ Singapore Tác giả đã nghiên cứu nhiều tài liệu từ các trường đại học tại Singapore và Hoa Kỳ, cùng với các công trình nghiên cứu từ Malaysia, Australia, Canada và New Zealand Tài liệu được phân loại đa dạng, bao gồm luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ, sách chuyên khảo và bài viết trên các tạp chí Nhiều vấn đề được khai thác và nghiên cứu sâu sắc từ nhiều tác giả, mang lại cái nhìn đa chiều và toàn diện cho luận án.

Thứ nhất , các nghiên cứu có giá trị tham khảo về tình hình Singapore, Hoa Kỳ, và chính sách đối ngoại mỗi quốc gia:

Carroll C.C (2011) trong U.S.-ASEAN Relations under the Obama Administration, 2009-2011, Luận văn Thạc sĩ ngành Khoa học nhân văn, Georgetown

University, Washington D.C., Mỹ, đã nghiên cứu mối quan hệ Hoa Kỳ - ASEAN dưới thời Tổng thống Obama từ năm 2009 đến 6 tháng đầu năm 2011 Chương 5

Luận văn nghiên cứu mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và các quốc gia trong ASEAN, đặc biệt tập trung vào Singapore - quốc gia có vai trò quan trọng trong khu vực Phần 6 của luận văn đánh giá tổng quan về chiến lược can dự sâu của Hoa Kỳ đối với Đông Nam Á, cung cấp nhiều dữ liệu quan trọng về sự hợp tác và ảnh hưởng của Hoa Kỳ tại khu vực này.

Tác giả John Wong với bài viết “Twelve Points on Singapore’s Foreign

Policy” in trong cuốn sách The Rise of Singapore (2016) đã tổng hợp và phân tích

Chính sách đối ngoại của Singapore được xây dựng trên 12 đặc điểm thiết yếu cho sự sống còn của quốc gia này, bao gồm tôn trọng luật quốc tế, duy trì ổn định an ninh chính trị, và cân bằng quyền lực Singapore cũng chú trọng đến giá trị toàn cầu, sự khác biệt, và chủ nghĩa hiện thực, đồng thời đón đầu xu hướng toàn cầu hóa Lãnh đạo của Singapore có tầm nhìn xa trông rộng, kết nối chặt chẽ với khu vực ASEAN, và luôn duy trì khả năng cạnh tranh Mặc dù dễ bị tổn thương, Singapore không bao giờ bị lãng quên John Wong đã phân tích sâu sắc từng điểm với ví dụ thực tế, đặc biệt là trong mối quan hệ giữa Singapore và Hoa Kỳ.

Trong những năm 1990, St Martin’s Press, New York, Hoa Kỳ đã nghiên cứu sự biến đổi của Singapore trên các khía cạnh chính trị và kinh tế - xã hội Phần đầu tiên tập trung vào hệ tư tưởng, trong khi phần thứ hai phân tích các yếu tố như quyền công dân, tự do báo chí và sự hội nhập của Singapore vào nền kinh tế quốc tế Những phân tích này cung cấp nguồn tư liệu tham khảo quý giá cho tác giả luận án.

Ho Khai Leong (2003) trong tác phẩm "Shared Responsibilities, Unshared Power: The Politics of Policy-Making in Singapore" đã nghiên cứu sâu sắc về chính trị và hoạch định chính sách tại Singapore Chương 3 của cuốn sách phân tích tình hình đất nước dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng Lý Quang Diệu và Thủ tướng Goh Chok Tong, tập trung vào các chính sách như sử dụng tiếng Anh, vấn đề tranh cử, vai trò của đảng cầm quyền và chính sách xây dựng thành phố xanh Qua đó, tác giả làm nổi bật những điểm tương đồng và mâu thuẫn giữa Singapore và Hoa Kỳ.

Ngoài ra, cùng với hướng tiếp cận này, có thể kể tên một số công trình tiêu biểu sau: Amitav Acharya (2008), Singapore’s Foreign Policy: The Search for

Regional Order, World Scientific Publishing, Singapore; Alan Chong (2016), Lee

Kuan Yew and Singapore’s Foreign Policy: A Productive Iconoclasm, Reflections –

The legacy of Lee Kuan Yew is explored in Brandon J Weichert's 2017 work, "The High Ground: The Case for US Space Dominance," published by the Foreign Policy Research Institute Additionally, the dynamics of Asian international relations are analyzed in the book "International Relations of Asia" by David Shambaugh and Michael Yahuda, released in 2008 by Rowman & Littlefield.

Publisher, Maryland, USA; J Boone Bartholomees, Jr (2010), National Security Policy and Strategy Volume I&II, Strategic Studies Institute, The US Army War College, USA.

Các nghiên cứu này, mặc dù không phân tích sâu về mối quan hệ giữa Singapore và Hoa Kỳ, đã đóng góp vào việc cung cấp bối cảnh, chính sách và chiến lược của mỗi quốc gia, từ đó giúp giải thích động cơ của cả hai bên trong mối quan hệ song phương.

Thứ hai, các nghiên cứu tổng thể về quan hệ Singapore - Hoa Kỳ:

Tác giả Asad-ul Iqbal Latif, trong cuốn sách “Three Sides in Search of a

Triangle: Singapore – America - India Relations” xuất bản năm 2009 tại Singapore, đã trình bày về các mối quan hệ song phương giữa hai trong ba nước Singapore, Hoa

Kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, quan hệ giữa Ấn Độ, Singapore và Hoa Kỳ đã trở nên quan trọng với ba vấn đề chính: cuộc chiến chống khủng bố, sự trỗi dậy của Trung Quốc và vấn đề dân chủ Mối quan hệ này còn chịu ảnh hưởng từ các yếu tố kinh tế, xã hội, an ninh năng lượng và các tổ chức khu vực như ASEAN, ARF và APEC Trong chương 2 của công trình nghiên cứu, tác giả phân tích quan hệ song phương giữa Singapore và Hoa Kỳ, nhấn mạnh rằng Singapore là đối tác an ninh gần gũi nhất của Hoa Kỳ tại Đông Nam Á.

America's closest security partner in Southeast Asia is highlighted, emphasizing the significance of this relationship The book also suggests several trends that could shape the future development of these partnerships.

David Adelman (Đại sứ của Hoa Kỳ tại Singapore) trong “The US-Singapore

Bài viết "Strategic Partnership: Bilateral Relations Move Up a Weight Class" (2012) trên tạp chí The Ambassadors Review đã phân tích mối quan hệ giữa Singapore và Hoa Kỳ qua nhiều khía cạnh, với hai trụ cột chính là an ninh và thương mại, được phát triển qua lịch sử Năm 2012, mối quan hệ này được củng cố thêm bằng việc thiết lập đối thoại chiến lược về an ninh và kinh tế thường niên (SPD), thể hiện tầm nhìn chung trong việc bảo vệ lợi ích lâu dài của hai nước, đồng thời quốc tế hóa quan hệ song phương và nâng cao trách nhiệm đối với các vấn đề khu vực Tài liệu này tóm tắt những điểm nổi bật trong quan hệ giữa Singapore và Hoa Kỳ.

Dưới góc nhìn của một cán bộ ngoại giao, thời gian có ý nghĩa quan trọng trong quan hệ song phương giữa hai nước Đặc biệt, việc trình bày về SPD 2012 cung cấp nhiều thông tin hữu ích, và tác giả đã kế thừa những kết quả này để triển khai luận án của mình.

Cùng phân tích hai lĩnh vực kinh tế và quốc phòng, Emma Chanlett-Avery trong

“Singapore: Background and U.S Relations” (2013) trích từ Báo cáo của

Báo cáo của Congressional Research Service (CRS) về hợp tác thương mại, đầu tư và quốc phòng giữa Singapore và Hoa Kỳ đã cung cấp những phân tích chi tiết Emma Chanlett-Avery cũng đã đề cập đến bối cảnh chính trị và thể chế nhà nước của Singapore, mối quan hệ với Trung Quốc và các vấn đề nhân quyền Tuy nhiên, do tính chất báo cáo lên Quốc hội, nội dung chỉ trình bày các sự thật khách quan một cách ngắn gọn, không đi sâu vào phân tích hay đánh giá cá nhân về tác động và động cơ của các quyết sách từ mỗi quốc gia.

Graham Allison, Robert D Blackwill và Ali Wyne (2012), Lee Kwan Yew:

The grand Master’s Insights on China, the United States, and the World, Belfer

Center for Science and International Affairs và phiên bản tiếng Việt (Allison G., Blackwill R.D., Wyne A (2013), Lý Quang Diệu bàn về Trung Quốc, Hoa Kỳ và

Thế giới, NXB Thế giới) đã tổng hợp các bài viết, bài phỏng vấn và phát biểu của

Cuốn sách của Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu được tổ chức theo các chủ đề quan trọng như Trung Quốc, Hoa Kỳ và các vấn đề thời sự toàn cầu, bao gồm chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan, tăng trưởng kinh tế quốc gia, địa chính trị và toàn cầu hóa Đây là một công trình nghiên cứu chi tiết, mang tính chọn lọc, với những phân tích và lập luận sâu sắc từ ông Lý Quang Diệu.

Cũng là lời tự thuật của ông Lý Quang Diệu có cuốn sách From Third World to First: The Singapore Story: 1965-2000 (bản dịch tiếng Việt của Đoàn

Khắc Xuyên và Trần Hữu Quang trong tác phẩm “Bí quyết hóa rồng” đã phân tích sự phát triển kinh tế của bốn con rồng Đông Á, đặc biệt là Singapore, một thị trường mở cửa Sự phát triển của Singapore chịu ảnh hưởng lớn từ Hoa Kỳ, cả về mặt tích cực lẫn tiêu cực, từ thập niên 70-80 đến đầu thập niên 90 thế kỷ XX Nhiều diễn biến trong quan hệ giữa Singapore và Hoa Kỳ được Lý Quang Diệu trình bày chi tiết trong phần 2, trang 437-474 của tác phẩm (bản tiếng Việt).

Trong cuốn sách "Goh Chok Tong: Singapore’s New Premier" của Alan Chong, xuất bản bởi Pelanduk Publications, Malaysia, tác giả phân tích quá trình chuyển giao quyền lực giữa Thủ tướng Lý Quang Diệu và Thủ tướng Goh Chok Tong vào cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990 Đối mặt với "cái bóng khổng lồ" của người tiền nhiệm, Goh Chok Tong cần thể hiện tư duy và tầm nhìn lãnh đạo của mình trong bối cảnh nhiều biến động Qua đó, tác giả khám phá quan điểm và cách nhìn nhận của ông Goh về tình hình khu vực và thế giới.

Tong cũng như đường lối đối ngoại của Singapore dưới sự lãnh đạo của ông Chương

7 của cuốn sách trình bày cụ thể về nền tảng, hành động và các phát biểu quan trọng của ông Goh Chok Tong.

Cuốn sách “The Little Nation that can – Singapore’s Foreign Relations and

NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ SINGAPORE – HOA KỲ TỪ NĂM 1990 ĐẾN NĂM 2012 2.1 Bối cảnh quốc tế và khu vực

Bối cảnh quốc tế

Sự tan rã của Liên Xô đã dẫn đến việc hình thành một thế giới đa trung tâm, trong đó Mỹ giữ vai trò chủ đạo nhưng không hoàn toàn đơn cực do sự nổi lên của các cường quốc như Tây Âu, Nhật Bản, Ấn Độ và Trung Quốc Để thực hiện chiến lược toàn cầu, Hoa Kỳ đã tăng cường hợp tác với các đồng minh thông qua các khẩu hiệu như "dân chủ" và "nhân quyền", đồng thời duy trì sự hiện diện trên toàn cầu, trong đó Singapore trở thành một đối tác quan trọng Bối cảnh chính trị hậu Chiến tranh Lạnh khuyến khích đối thoại hòa bình và hợp tác giữa các quốc gia, với Tổng thống Bush nhấn mạnh sự cần thiết của một trật tự thế giới mới dựa trên luật pháp và trách nhiệm chung về tự do và công lý.

Xu thế phát triển kinh tế và toàn cầu hoá đang tác động mạnh mẽ đến đời sống quốc tế, khi các quốc gia có cơ hội tập trung vào hiện đại hoá và phát triển kinh tế Sự gia tăng của các tổ chức như ASEAN, APEC và WTO đã mở rộng thị trường, tăng cường lưu thông tiền tệ và FDI, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của các công ty xuyên quốc gia Toàn cầu hoá không chỉ tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia mà còn khuyến khích hợp tác và thâm nhập thị trường, giúp phát huy lợi thế của mỗi nước.

Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế mang lại cơ hội lớn cho Singapore, giúp quốc gia nhỏ bé này phát huy lợi thế cạnh tranh Mặc dù gặp khó khăn về an ninh và chính trị do nguồn lực hạn chế, Singapore đã từ lâu hướng tới phát triển kinh tế ra thị trường toàn cầu Chính sách ưu tiên của quốc gia là thu hút vốn FDI và phát triển kinh tế dựa trên xuất khẩu, đồng thời nâng cao trình độ khoa học công nghệ Nhờ đó, Singapore đã trở thành một trung tâm tài chính thương mại toàn cầu, mở ra nhiều cơ hội hợp tác với các nền kinh tế lớn.

Hoa Kỳ không chỉ đóng vai trò quan trọng trong các tổ chức kinh tế toàn cầu mà còn có sự hiện diện mạnh mẽ của các tập đoàn đa quốc gia (TNC, MNC) trong nền kinh tế thế giới, không ngừng mở rộng chi nhánh ra nhiều khu vực Trong thế kỷ XXI, bên cạnh xu hướng hình thành các khu vực mậu dịch tự do, các hiệp định thương mại tự do song phương (FTA) cũng được hình thành và mang lại hiệu quả cao Singapore, với 99% sản phẩm được miễn thuế và chỉ áp dụng thuế nhập khẩu đối với bia và một số đồ uống có cồn, đã tiên phong trong việc thúc đẩy tự do hóa thương mại Bối cảnh này tạo cơ hội cho Singapore và Hoa Kỳ hợp tác chặt chẽ trong việc thúc đẩy tự do hóa thương mại khu vực và toàn cầu.

Nền kinh tế toàn cầu đang chuyển mình sang phát triển theo chiều sâu nhờ cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, dẫn đến sự hình thành nền kinh tế tri thức, trong đó lợi thế so sánh ngày càng phụ thuộc vào kiến thức và sự sáng tạo Hoa Kỳ và Singapore là hai quốc gia điển hình có nền kinh tế tri thức với giá trị gia tăng cao, nhờ vào việc đầu tư mạnh mẽ vào nghiên cứu và phát triển (R&D) Do đó, quan hệ kinh tế giữa hai nước có tiềm năng phát triển sâu rộng và toàn diện trong bối cảnh toàn cầu hóa sau Chiến tranh Lạnh.

Sau sự kiện 11/9/2001, cuộc chạy đua quân sự giữa các quốc gia đã có bước ngoặt quan trọng, đặc biệt là trong cuộc chiến chống khủng bố mà Hoa Kỳ khởi xướng và nhận được sự ủng hộ từ nhiều quốc gia Trong bối cảnh này, Singapore tỏ ra thận trọng đối với các thành phần Hồi giáo cực đoan ở các nước láng giềng như Indonesia, Malaysia và Philippines An ninh trở thành vấn đề tối quan trọng đối với Singapore, dẫn đến việc nước này ủng hộ mạnh mẽ Hoa Kỳ trong cuộc chiến chống khủng bố Từ góc độ này, cuộc chiến không chỉ góp phần nâng cao an ninh mà còn thúc đẩy quan hệ hợp tác sâu rộng hơn giữa Singapore và Hoa Kỳ.

Bối cảnh khu vực

Về bối cảnh khu vực châu Á – Thái Bình Dương:

“Kể từ khi ra đời, Hoa Kỳ đã là một quốc gia Thái Bình Dương” – tuyên bố của

Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert đã nhấn mạnh sự gắn bó chặt chẽ của Hoa Kỳ với khu vực Châu Á - Thái Bình Dương tại Đối thoại Shangri-La tháng 7/2007 Trong "Chiến lược quốc gia cho thế kỷ XXI", Mỹ coi Châu Á - Thái Bình Dương là yếu tố quan trọng đối với lợi ích quốc gia và đã chuyển trọng tâm chiến lược toàn cầu từ châu Âu sang khu vực này.

Mỹ đang chú trọng hơn vào việc củng cố các mối quan hệ với các quốc gia trong khu vực, trong đó có Singapore Quan hệ giữa Singapore và Hoa Kỳ đang phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh này.

Khu vực CA – TBD là một điểm nóng chính trị do sự chồng chéo và mâu thuẫn lợi ích chiến lược giữa các cường quốc như Trung Quốc, Ấn Độ và Nhật Bản.

Trung Quốc đang nhanh chóng phát triển và có tham vọng mở rộng ảnh hưởng thông qua cả sức mạnh cứng và sức mạnh mềm trên toàn cầu Mỹ coi Trung Quốc là đối thủ chiến lược hàng đầu của mình Trước những tham vọng này, Singapore đã chủ động điều chỉnh chiến lược của mình.

CA – TBD (Châu Á - Thái Bình Dương) bao gồm các quốc gia và lãnh thổ xung quanh Thái Bình Dương, được hiểu như lòng chảo Thái Bình Dương Tác giả cho rằng Mỹ cần duy trì sự hiện diện tại khu vực này để cân bằng lực lượng giữa hai cường quốc, góp phần tạo ra sự ổn định Cạnh tranh giữa Trung Quốc và Mỹ, ở một mức độ nhất định, đã thúc đẩy mối quan hệ giữa Singapore và Hoa Kỳ Tuy nhiên, với lợi ích kinh tế lớn từ Trung Quốc, Singapore không thể hoàn toàn nghiêng về phía Mỹ và vẫn giữ chính sách linh hoạt trong một số vấn đề Sau Chiến tranh Lạnh, CA – TBD cũng được coi là khu vực quan trọng cho phong trào “dân chủ, nhân quyền” do Mỹ khởi xướng.

Sự khác biệt văn hóa và định chế xã hội đã tạo ra những quan niệm khác nhau về phản ứng của các quốc gia Singapore, cùng với một số nước châu Á khác, đã phản đối Mỹ trong phong trào này, dẫn đến những tác động tiêu cực đối với quan hệ giữa hai nước.

Khu vực CA – TBD là một trung tâm kinh tế phát triển mạnh mẽ, chiếm khoảng 1/2 dân số thế giới và đóng góp 65% GDP toàn cầu Sự tăng trưởng nhanh chóng đã thu hút sự quan tâm của các tập đoàn đa quốc gia (MNC), đặc biệt là từ Hoa Kỳ, dẫn đến dòng vốn đầu tư gia tăng Singapore, với chính sách thu hút MNC ưu việt, đã trở thành điểm đến lý tưởng cho các công ty này, không chỉ là chi nhánh mà còn là trụ sở chính cho khu vực châu Á, từ đó thúc đẩy mối quan hệ đầu tư giữa Singapore và Hoa Kỳ.

CA – TBD ghi nhận sự phục hồi ấn tượng của Nhật Bản, được mệnh danh là "tượng đài kinh tế phương Đông", cùng với sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc và bốn con rồng châu Á: Hàn Quốc, Đài Loan, Hong Kong và Singapore Thập niên 90 của thế kỷ 20 đánh dấu thời kỳ hoàng kim cho khu vực này.

"Giấc mơ Thái Bình Dương" thể hiện tầm quan trọng của khu vực này, đặc biệt là đối với Mỹ, trong bối cảnh "thế kỷ Thái Bình Dương sắp tới" Năm 1991, thương mại của Hoa Kỳ đã bắt đầu có những bước tiến mạnh mẽ tại khu vực này, cho thấy sự quan tâm và đầu tư của Mỹ vào Thái Bình Dương.

Kỳ với Thái Bình Dương (316 tỷ USD) lớn hơn 43% so với thương mại với Tây Âu

Với giá trị 221 tỷ USD, sự phát triển kinh tế năng động đã biến khu vực Châu Á - Thái Bình Dương thành thị trường thương mại lớn nhất thế giới, mở ra cơ hội cho thương mại song phương giữa Singapore và Hoa Kỳ Cuộc hội đàm Bộ trưởng APEC vào tháng 11/1989 đã đặt nền tảng cho việc tự do hóa thương mại và tăng cường trao đổi kinh tế giữa các quốc gia, đặc biệt là trong việc phát triển mạng lưới đầu tư và công nghệ thông tin.

Công viên công nghệ đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hợp tác kinh tế giữa Singapore và Hoa Kỳ Điều này đặc biệt thể hiện qua việc phát triển nền kinh tế tri thức, tăng cường trao đổi nghiên cứu và chuyển giao công nghệ cao.

Khu vực CA – TBD hiện đang đối mặt với nhiều thách thức an ninh, bao gồm các điểm nóng quân sự và các mối đe dọa phi truyền thống như ô nhiễm môi trường, dịch bệnh và cướp biển Các cơ chế đa phương như Diễn đàn ARF và Hội đồng Hợp tác an ninh CA - TBD (CSCAP) chưa phát huy hiệu quả, và khu vực này vẫn thiếu một cơ chế hợp tác an ninh chính thức và thống nhất Trong bối cảnh đó, Hoa Kỳ đang nỗ lực gia tăng sự hiện diện tại khu vực CA – TBD nhằm thiết lập vị thế chủ đạo trong thế kỷ XXI, điều này đã tạo ra tác động tích cực đến mối quan hệ giữa Singapore và Hoa Kỳ, khi Singapore luôn ủng hộ sự hiện diện của Mỹ như một yếu tố cân bằng và ổn định cho khu vực.

Về bối cảnh khu vực Đông Nam Á:

Singapore, quốc gia nhỏ bé nhất nhưng phát triển nhất Đông Nam Á, nằm tại vị trí chiến lược giữa các nước lớn như Trung Quốc, Ấn Độ và Australia Khu vực Đông Nam Á đóng vai trò quan trọng trong các tuyến đường thương mại hàng hải toàn cầu, kết nối Thái Bình Dương với Trung Đông, châu Phi và châu Âu Mỹ có hai đồng minh chính là Thái Lan và Philippines, cùng với các đối tác gần gũi như Indonesia và Malaysia, đều là hàng xóm của Singapore Tuy nhiên, Đông Nam Á cũng đang phải đối mặt với tranh chấp lãnh hải kéo dài tại Biển Đông giữa Trung Quốc và các quốc gia ASEAN như Việt Nam, Philippines, Brunei và Malaysia, điều này nếu dẫn đến xung đột quân sự sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tất cả các quốc gia trong khu vực.

ASEAN đang đối mặt với những nguy cơ đe dọa các tuyến đường giao thông biển quan trọng, điều này đặt ra thách thức lớn cho an ninh biển xung quanh Singapore Để đối phó với tình hình này, Singapore đã nỗ lực thuyết phục các bên liên quan kiềm chế, giải quyết tranh chấp một cách hòa bình và tuân thủ các quy định của luật pháp quốc tế.

Chúng ta cần nỗ lực ngăn chặn những sai lầm và rủi ro có thể khiến khu vực tụt hậu Tình hình này tích cực ảnh hưởng đến quan hệ Singapore – Hoa Kỳ, khi Singapore kêu gọi một cường quốc mạnh tham gia an ninh khu vực để kiềm chế Trung Quốc và đa phương hóa đối thoại nhằm tìm kiếm giải pháp hòa bình Hoa Kỳ cam kết duy trì tự do giao thông trên biển Đông, và nếu xung đột xảy ra, Mỹ sẽ can thiệp vì "tự do hàng hải và quyền đi lại chung ở châu Á thuộc lợi ích quốc gia" của họ, như Ngoại trưởng Hillary đã khẳng định.

Nhân tố Trung Quốc

Trong mối quan hệ giữa Singapore và Hoa Kỳ, Trung Quốc đóng vai trò là yếu tố tác động hai chiều Sự mâu thuẫn lợi ích chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc ngày càng trở nên sâu sắc, ảnh hưởng đến chính sách và quyết định của Singapore trong việc duy trì cân bằng quan hệ ngoại giao.

Trung Quốc 4 có khả năng gây chia rẽ các quốc gia Đông Nam Á thành những phe đối lập, khiến Singapore rơi vào tình thế khó khăn Mặc dù Singapore thường thể hiện quan điểm nghiêng về phương Tây trong nhiều vấn đề quốc tế, khả năng nước này ủng hộ Hoa Kỳ trong các cuộc xung đột hoặc khủng hoảng tương lai với Trung Quốc là điều khó xảy ra.

Năm 2002, Hoa Kỳ khởi động Sáng kiến Doanh nghiệp vì ASEAN nhằm thúc đẩy FTA giữa Hoa Kỳ và các quốc gia ASEAN, với mục tiêu tự do hóa thương mại khu vực Đến năm 2003, Singapore và Hoa Kỳ đã nhanh chóng đạt được thỏa thuận USSFTA.

Trong bối cảnh Trung Quốc nổi lên như một cường quốc, quan hệ giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ đã xuất hiện nhiều mâu thuẫn chiến lược về lợi ích Chính sách đối ngoại của Trung Quốc chủ yếu tập trung vào việc "giấu mình chờ thời", trong khi tham vọng toàn cầu của nước này ngày càng gia tăng Đến năm 2010, sau khi vượt qua Nhật Bản để trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, Trung Quốc đã có những động thái mạnh mẽ nhằm tăng cường ảnh hưởng tại Đông Nam Á và mở rộng ra toàn cầu.

Singapore có một cộng đồng người gốc Hoa đông đảo và mối quan hệ sâu sắc với Trung Quốc, điều này khiến quốc gia này khó có thể hoàn toàn nghiêng về phía Mỹ Hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa Trung Quốc và Singapore là FTA toàn diện đầu tiên mà Trung Quốc ký kết với một quốc gia châu Á khác Singapore từng là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc trong ASEAN, trong khi Trung Quốc là đối tác thương mại lớn thứ ba của Singapore vào năm 2008 Thương mại hai chiều giữa hai nước đã tăng mạnh từ 2,9 tỷ USD năm 1990 lên 75 tỷ USD năm 2010 Những lợi ích kinh tế này là động lực chính cho sự phát triển của Singapore và cũng là yếu tố quan trọng trong chính sách của nước này đối với Hoa Kỳ Singapore cần thể hiện sự nhạy cảm với các nước láng giềng và duy trì quan hệ hợp tác với Mỹ ở mức độ "bạn bè, nhưng không phải đồng minh" Mục tiêu của Singapore là giữ thế cân bằng giữa các cường quốc trong khu vực, theo nguyên tắc không để một cường quốc nào thống trị Trong mối quan hệ tay ba Mỹ - Singapore - Trung Quốc, Mỹ vẫn đóng vai trò quan trọng hơn trong chính sách đối ngoại của Singapore.

Trong những năm đầu thế kỷ XXI, sau 20 năm cải cách mở cửa, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đã nổi lên như một cường quốc tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, dẫn đến việc xác lập khu vực ảnh hưởng của họ và thách thức vai trò của Mỹ Theo lý thuyết hiện thực, Mỹ khó có thể từ bỏ vai trò chủ đạo của mình Singapore đã nhiều lần kêu gọi sự can dự của Hoa Kỳ trong các vấn đề an ninh khu vực, nhằm đa phương hóa giải quyết tranh chấp Hoa Kỳ cũng thường xuyên tham gia các diễn đàn an ninh khu vực, thể hiện mối quan tâm chiến lược của mình Sự "chung sống hòa bình" và cân bằng quyền lực giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc là có lợi cho Singapore, như Thủ tướng Rajaratnam đã nhận định: “Ở đâu có sự cân bằng quyền lực, ở đó ít có nguy cơ các quốc gia nhỏ bị chinh phục bởi một quốc gia lớn.”

Singapore đóng vai trò là cầu nối giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, thể hiện qua sự ảnh hưởng của ông Lý Quang Diệu Ông đã góp phần tăng cường đối thoại và chia sẻ kinh nghiệm giữa hai nước, giúp làm sáng tỏ những thách thức quan trọng mà Hoa Kỳ cần giải quyết trong dài hạn Những hiểu biết của ông không chỉ giới hạn trong mối quan hệ Hoa Kỳ - Trung Quốc mà còn mở rộng ra các vấn đề toàn cầu Là một cố vấn đặc biệt cho cải cách mở cửa của Trung Quốc, ông Lý Quang Diệu đã trở thành cầu nối giữa Trung Quốc và phương Tây, nhờ vào sự hiểu biết sâu sắc về Trung Quốc, ông đã được giới lãnh đạo phương Tây tìm đến để xin tư vấn về các vấn đề liên quan đến Bắc Kinh.

Sự trỗi dậy của Trung Quốc mang đến cho Hoa Kỳ cả cơ hội và thách thức; cơ hội từ việc khai thác thị trường và tiềm năng kinh tế, nhưng cũng là thách thức trong cạnh tranh kinh tế và ảnh hưởng chính trị tại châu Á Sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế Trung Quốc là một thực tế không thể đảo ngược, ảnh hưởng sâu sắc đến an ninh và thịnh vượng toàn cầu Hoa Kỳ cần nhận thức rằng việc kiềm chế Trung Quốc có thể gây tổn hại đến chính mình, do đó, cần xây dựng chính sách hợp tác và thích ứng với sự thay đổi này.

Trung Quốc khẳng định rằng sự phát triển của mình như một quốc gia an toàn, cởi mở và thành công mang lại lợi ích cho Hoa Kỳ Họ cam kết hỗ trợ sự hội nhập toàn diện của Trung Quốc vào cộng đồng quốc tế và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tham gia tích cực Đồng thời, Trung Quốc cũng khẳng định rằng họ sẽ không ngần ngại thực hiện các hành động cần thiết để bảo vệ lợi ích của mình trong khi tìm kiếm đối thoại.

Tại Hội thảo "Tương lai của châu Á" diễn ra vào cuối tháng 5/2011 tại Tokyo, Cố vấn cao cấp Lý Quang Diệu đã nhấn mạnh sự gia tăng thế lực của Trung Quốc, khiến các quốc gia trong khu vực lo ngại Ông cho rằng ngay cả khi Nhật Bản, Hàn Quốc, ASEAN, Đài Loan và Ấn Độ hợp tác, họ vẫn không đủ sức đối phó với Trung Quốc Với quy mô quá lớn, chỉ có Mỹ với công nghệ tiên tiến và tiềm lực kinh tế mạnh mẽ mới có khả năng đối phó hiệu quả với sự trỗi dậy của Trung Quốc.

Henry Kissinger trong lời tựa cuốn sách “Lý Quang Diệu bàn về Hoa Kỳ, Trung Quốc và thế giới” nhấn mạnh rằng chỉ có một lực lượng quân sự mạnh mẽ mới có thể kiềm chế Trung Quốc Năm 2012, trong cuộc phỏng vấn với Wall Street Journal, Lý Quang Diệu đã khẳng định rằng sự phát triển của thế giới phụ thuộc vào sự ổn định mà Mỹ mang lại, và nếu điều này bị đe dọa, chúng ta sẽ rơi vào một trạng thái hỗn loạn Ông cũng miêu tả Mỹ là một “bá quyền hiền lành”.

Mỹ đang gặp khó khăn trong thương mại so với Trung Quốc, điều này tạo cơ hội cho Singapore sử dụng "lá bài Trung Quốc" để thu hút sự chú ý và can dự của Mỹ vào khu vực Đông Nam Á, đặc biệt là trong quan hệ với Singapore Với vị trí địa chiến lược quan trọng, Singapore có thể kiểm soát eo biển Malacca trong trường hợp xảy ra xung đột, điều này sẽ gây khó khăn cho Trung Quốc Vị trí này cũng giúp Singapore có lợi thế chiến lược trong quan hệ với các cường quốc khác Như ông Lý Quang Diệu đã nói, Singapore là điểm giao giữa hai cường quốc, là cửa ngõ từ Ấn Độ Dương tới Thái Bình Dương.

Singapore, một quốc gia nhỏ nằm giữa các láng giềng lớn và trong khu vực Đông Nam Á đầy cạnh tranh, luôn tìm cách tránh bị thống trị bởi bất kỳ cường quốc nào Để đảm bảo an ninh quốc phòng, Singapore hợp tác với Mỹ, trong khi vẫn duy trì mối quan hệ với Trung Quốc để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Quốc gia này rất thận trọng trong việc không bị cuốn vào cuộc cạnh tranh quyền lực giữa Mỹ và Trung Quốc Sự ganh đua giữa hai cường quốc này ảnh hưởng đáng kể đến chính sách của Mỹ đối với khu vực Đông Nam Á, đặc biệt là Singapore, nơi mà Mỹ luôn được ưu tiên hơn trong chính sách đối ngoại.

Tình hình của hai nước Singapore và Hoa Kỳ

Từ một đảo quốc nhỏ bé hạn chế về tài nguyên thiên nhiên, Singapore đã có sự

Vào những năm 90, Singapore đã trải qua một "cất cánh thần kỳ" về kinh tế, trở thành một trong bốn con rồng châu Á với GDP bình quân đầu người tương đương các quốc gia Tây Âu Singapore được công nhận là môi trường đầu tư tốt nhất khu vực CA - TBD giai đoạn 2004 - 2008 và xếp hạng thứ 3 thế giới về sự chuyên nghiệp trong kinh doanh Tăng trưởng kinh tế của quốc gia này gắn liền với sự ổn định của thị trường, với tỷ lệ lạm phát dưới 4% và tổng dự trữ ngoại tệ đạt khoảng 201 tỷ SGD vào năm 2006, đứng trong top 5 quốc gia có dự trữ ngoại tệ lớn nhất thế giới Với những thành tựu vượt bậc trong lĩnh vực kinh tế, Singapore đã trở thành một quốc gia phát triển và là đối tác kinh tế hấp dẫn với chính sách ưu việt.

Singapore đã triển khai chính sách thu hút các công ty đa quốc gia (MNC) nhằm bù đắp cho sự thiếu hụt nội lực phát triển đất nước Quốc gia này nổi bật trong khu vực Đông Nam Á với việc "trải thảm đỏ" để mời gọi MNC đầu tư, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi về thuế quan và pháp lý Đến đầu thế kỷ XX, Singapore đã thu hút một lượng lớn MNC từ Hoa Kỳ mở văn phòng, chi nhánh hoặc trụ sở khu vực châu Á tại đây.

Singapore đã xây dựng một nền công nghiệp hiện đại phục vụ tái xuất, tập trung vào các lĩnh vực như lọc dầu, điện tử - bán dẫn, công nghệ thông tin, chế tạo máy móc, hóa chất và dược phẩm Nhờ vào các sản phẩm chất lượng cao, Singapore có thể thúc đẩy hợp tác thương mại với các quốc gia phát triển công nghệ, trong đó Trung Quốc và Hoa Kỳ là hai trong ba đối tác thương mại lớn nhất của quốc gia này.

Singapore đã phát triển một hệ thống kinh doanh linh hoạt và hấp dẫn nhất Đông Nam Á, trở thành trung tâm dịch vụ tài chính, hàng hải và hàng không quốc tế, cũng như là điểm kết nối thông tin và phân phối cho thị trường du lịch.

Thứ tư, Singapore là một trong những nước đi đầu châu Á trong đầu tư vào

Vào tháng 9 năm 1991, Phó Thủ tướng Lý Hiển Long đã công bố kế hoạch tăng gấp đôi quỹ R&D của Singapore lên 2% GDP vào năm 1995, trong đó một nửa được đầu tư từ khu vực tư nhân Nhờ vào lợi thế cạnh tranh về khoa học và công nghệ tiên tiến, Singapore đã trở thành một trong những nền kinh tế tri thức hàng đầu, theo kịp với sự phát triển của Hoa Kỳ.

Singapore được xem là biểu tượng của nền kinh tế toàn cầu hóa, nhưng cũng dễ bị tổn thương trước những biến động của kinh tế chính trị toàn cầu.

Singapore có một tình hình chính trị - xã hội ổn định với thể chế đa nguyên, nhưng Đảng Hành động Nhân dân (PAP) đã chiếm ưu thế tuyệt đối trong các cuộc bầu cử kể từ khi độc lập vào ngày 9/8/1965 Sự cầm quyền liên tục của PAP phản ánh những chính sách ưu việt và niềm tin của người dân, tạo ra sự ổn định xã hội và thu hút đầu tư Tuy nhiên, sự thống trị này cũng gây lo ngại về tự do chính trị và nhân quyền, khi PAP bị cáo buộc hạn chế hoạt động của các đảng đối lập, dẫn đến những bất đồng trong quan hệ chính trị - ngoại giao giữa Singapore và Hoa Kỳ.

Nhân tố con người là chìa khóa cho sự phát triển của Singapore, với quan điểm "tài sản quý giá nhất của chúng ta luôn luôn là người dân." Để đạt được điều này, Singapore đã xây dựng một đội ngũ nhân lực được đào tạo bài bản, cải cách giáo dục toàn diện và mở rộng hợp tác quốc tế Chính phủ chú trọng đầu tư vào các hình thức hợp tác với các nước có nền giáo dục và công nghệ hàng đầu như Hoa Kỳ Thủ tướng Lý Quang Diệu khuyến khích sinh viên đại học theo đuổi ước mơ lớn hơn trong sự nghiệp, qua đó tăng giá trị cho đất nước Ông nhấn mạnh rằng khi các cường quốc và quốc gia châu Á khác đầu tư vào trí tuệ chất xám và các ngành công nghiệp tiên tiến tại Singapore, an ninh của quốc đảo này sẽ được đảm bảo lâu dài.

S Rajaratnam từng bước hoạch định một giấc mơ toàn cầu - Singapore thực sự có thể coi thế giới như vùng nội địa của mình (sử dụng nguồn lực vô tận) nếu con người và kỹ năng kỹ thuật của họ có khả năng đáp ứng yêu cầu của các cường quốc trong lĩnh vực ngân hàng, viễn thông, nghiên cứu và phát triển (R&D) [54, tr.47].

Một quyết sách chiến lược quan trọng của chính phủ Singapore từ khi mới thành lập là lựa chọn tiếng Anh làm ngôn ngữ hành chính, bên cạnh việc công nhận tiếng Mã Lai, tiếng Hoa và Tamil là ngôn ngữ chính thức Việc sử dụng tiếng Anh trong các lĩnh vực như công sở, giáo dục và kinh doanh đã tạo điều kiện cho người dân Singapore hội nhập toàn cầu: “Chúng ta học tiếng Anh để hiểu thế giới và để thế giới hiểu chúng ta.” Sự xóa bỏ rào cản ngôn ngữ đã thúc đẩy mối quan hệ giữa Singapore và Hoa Kỳ, ảnh hưởng tích cực đến ngoại giao, giáo dục, nghiên cứu và thương mại đầu tư.

6U.S State Department ‘s 2012 Country Report on Human Rights Practices

Singapore, với diện tích nhỏ và dân số ít, đối mặt với thách thức an ninh quốc gia do khả năng tự vệ hạn chế Do đó, môi trường an ninh trong nước và khu vực trở nên cực kỳ quan trọng Để bảo vệ mình, Singapore cần một chiến lược an ninh quân sự đặc thù, bao gồm các yếu tố như chi tiêu quốc phòng cao, nghĩa vụ quân sự toàn dân, khả năng sẵn sàng hoạt động, ưu thế công nghệ so với các đối thủ tiềm tàng, phát triển các lực lượng tổng hợp cân bằng và ngoại giao quốc phòng.

Singapore ưu tiên quan hệ với Hoa Kỳ, cường quốc quân sự hàng đầu, nhằm tăng cường sức mạnh quân sự của mình Mối quan hệ này đóng vai trò quan trọng trong chiến lược an ninh song phương, tạo nên sự hợp tác an ninh toàn diện giữa hai nước.

Bộ trưởng Ngoại giao Singapore Rajaratnam từng nói: “Một nước nhỏ như

Singapore cần có sự ổn định chính trị, một nền kinh tế vững mạnh và tinh thần đoàn kết cao để vượt qua những thách thức trong quan hệ quốc tế Mặc dù diện tích của Singapore chỉ gấp 3,5 lần so với một thành phố, nhưng những yếu tố này đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự phát triển bền vững của quốc gia.

Washington DC, dân số tầm 3 triệu người (năm 1990) [77, tr.4], [104, tr.2], Singapore đã có sự phát triển vươn tầm về cả ảnh hưởng kinh tế và chính trị.

Hoa Kỳ là nền kinh tế lớn nhất thế giới, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) năm

Năm 2008, GDP của Hoa Kỳ đạt 14,266 nghìn tỷ USD, gần gấp ba lần nền kinh tế lớn thứ hai là Nhật Bản, với GDP bình quân đầu người là 47,700 USD Mặc dù chỉ chiếm dưới 5% dân số toàn cầu, Hoa Kỳ vẫn giữ vị trí dẫn đầu về kinh tế.

302 triệu người, Hoa Kỳ chiếm 20 đến 30% tổng GDP toàn thế giới [25, tr.24] Hoa

Kỳ đứng đầu trong nhiều ngành công nghiệp quan trọng như điện tử, hóa chất và chế tạo Hoa Kỳ là nước cung cấp ngũ cốc lớn nhất thế giới, dù chỉ sử dụng chưa đến 8% đất canh tác toàn cầu và có 2% người dân làm nông nghiệp Trong thương mại quốc tế, Hoa Kỳ đóng vai trò là một đối tác quan trọng.

“mơ ước” của bất cứ nền kinh tế nào.

Quan hệ Singapore – Hoa Kỳ trước năm 1990

Hoa Kỳ chính thức công nhận sự độc lập của Singapore vào năm 1965 và thiết lập quan hệ ngoại giao từ ngày 4/4/1966 Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu, mối quan hệ giữa Singapore và Hoa Kỳ không mấy thuận lợi Singapore tuyên bố độc lập khỏi Liên bang Malaysia vào ngày 9/8/1965 và thể hiện quan điểm ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, quyền tự quyết của các quốc gia, đồng thời phản đối chủ nghĩa thực dân - tư bản và sự can thiệp của Mỹ vào khu vực Đông Nam Á Với tình hình mới độc lập, Singapore rất cần sự công nhận từ cộng đồng quốc tế.

Đến cuối năm 1965, Thủ tướng Lý Quang Diệu đã có nhiều phát biểu chống Mỹ trên các phương tiện truyền thông nhằm thu hút sự ủng hộ của các nước Á Phi cho việc Singapore gia nhập Liên Hợp Quốc Ông nhấn mạnh rằng nếu quân đội Anh rút lui, Singapore đã sẵn sàng hợp tác với Australia để đảm bảo an ninh quốc gia.

New Zealand Nhưng, tôi không chuẩn bị để tiếp tục với người Mỹ” [58, tr.2].

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Hoa Kỳ đã trở thành lãnh đạo các nước phương Tây và đối đầu với Liên Xô, lo ngại rằng Liên Xô sẽ khai thác cộng đồng châu Á và gia tăng xu hướng bài Mỹ Khi Cách mạng Trung Quốc thành công và cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở Đông Dương phát triển, Hoa Kỳ thực hiện chính sách "ngăn chặn sự bành trướng của cộng sản", đặc biệt cảnh giác với cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á, trong đó có Singapore với hơn 75% dân số gốc Hoa Hoa Kỳ xem Singapore như "đội quân thứ năm của Trung Quốc Đại lục" và không ủng hộ sự độc lập của quốc gia này.

Chỉ vài tháng sau, mối quan hệ giữa Singapore và Mỹ đã cải thiện khi Mỹ mở rộng chiến tranh Việt Nam năm 1966 và Singapore công khai ủng hộ Mỹ Sự thay đổi này xuất phát từ việc Singapore nhận thức lại chiến lược của mình, bởi tồn tại độc lập và phát triển trong bối cảnh phức tạp là vấn đề sống còn Trong những năm 1960, nếu Singapore tiếp tục ủng hộ quyền tự quyết của các dân tộc châu Á trong khi Mỹ nghi ngờ họ là "tay sai của Trung Quốc", thì sự tồn tại của Singapore sẽ gặp nguy hiểm Lãnh đạo Singapore hiểu rằng mối quan hệ với Mỹ là thiết yếu, và chính sách thân Mỹ trở thành lựa chọn duy nhất.

Singapore đã thực hiện một chính sách đối ngoại thực dụng, sẵn sàng từ bỏ nguyên tắc “thân Thế giới thứ ba” để bảo vệ lợi ích dân tộc, chuyển sang ủng hộ cuộc chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam.

Vào ngày 26/3/1966, Thủ tướng Lý Quang Diệu đã có cuộc gặp gỡ đầu tiên với Đại sứ Hoa Kỳ mới bổ nhiệm, đánh dấu sự khởi đầu của "một kỷ nguyên mới trong quan hệ Singapore – Hoa Kỳ" Từ ngày 17 đến 26/10/1967, ông đã có chuyến thăm chính thức đầu tiên tới Hoa Kỳ và gặp Tổng thống Lyndon Johnson, thể hiện sự ủng hộ của Singapore đối với Mỹ trong chiến tranh Việt Nam Đầu năm 1966, hai nước đã thống nhất cho phép lính Mỹ phục vụ ở Việt Nam được nghỉ ngơi tại Singapore, dẫn đến việc khoảng 20,000 lính Mỹ đã đến Singapore trong năm 1966-1967, chiếm 7% tổng số khách du lịch lúc bấy giờ Năm 1968, sau khi chuyển đổi các căn cứ quân sự của Anh thành cơ sở hạ tầng sửa chữa thương mại, Singapore đã trở thành nguồn cung cấp chính cho việc sửa chữa tàu thuyền và máy bay chiến đấu cho Mỹ, đồng thời thu hút các nhà đầu tư Hoa Kỳ thiết lập cơ sở tại đây.

Nhiều nhà phân tích cho rằng chiến tranh Việt Nam đã đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện mối quan hệ giữa Singapore và Hoa Kỳ, khi Singapore quyết định ủng hộ Hoa Kỳ trong bối cảnh đó.

Mặc dù sự can thiệp của Mỹ ở Việt Nam không thành công, nhưng nó đã tạo điều kiện cho các nước Đông Nam Á có thời gian để sắp xếp lại trật tự nội bộ Các nền kinh tế thị trường thịnh vượng mới trong ASEAN đã được hình thành trong bối cảnh chiến tranh Việt Nam Định hướng đối ngoại này đã mang lại cho Lý Quang Diệu niềm tin vào Hoa Kỳ như một đảng trung lập ủng hộ chiến dịch quân sự tại Việt Nam.

Năm 1968, ông Nixon đắc cử Tổng thống Hoa Kỳ và giới thiệu Học thuyết Nixon, nhằm hạn chế sự can thiệp quân sự trực tiếp của Hoa Kỳ vào các xung đột khu vực, khuyến khích các quốc gia tự giải quyết vấn đề Singapore, lo ngại về việc bị "bỏ rơi", đã nhiều lần nỗ lực thuyết phục Hoa Kỳ tiếp tục tham gia cuộc chiến tại Việt Nam.

1969, Thủ tướng Lý Quang Diệu thực hiện chuyến thăm Tổng thống Nixon, ông thuyết phục rằng “Không có một nhà lãnh đạo Đông Nam Á nào muốn nhìn thấy

Hoa Kỳ rút quân khỏi Việt Nam” [58, tr.182]

Trong bối cảnh giảm dính líu của Hoa Kỳ tại Đông Nam Á, Singapore đã tăng cường quan hệ với Liên Xô và cho phép nước này sử dụng các cơ sở sửa chữa quân sự tại Singapore Điều này đã dẫn đến những bất đồng giữa Singapore và Hoa Kỳ về việc sử dụng chung căn cứ quân sự, cũng như nguy cơ tiết lộ bí mật quân sự Tuy nhiên, căng thẳng đã giảm vào cuối năm 1972 khi hai nước thể hiện thiện chí trong việc tăng cường quan hệ Singapore nhấn mạnh sự hiện diện của Mỹ là yếu tố quan trọng nhất để cân bằng với Trung Quốc trong khu vực, đồng thời chỉ tăng cường quan hệ với Liên Xô khi Hoa Kỳ không thực hiện vai trò này.

Về mặt kinh tế, Hoa Kỳ đã đóng góp quan trọng cho sự phát triển của Singapore, đặc biệt sau khi Anh rút quân vào cuối những năm 1960, để lại lỗ hổng lớn trong nền kinh tế khi chi tiêu quân sự của Anh chiếm 20% GDP và tạo ra 70,000 việc làm Để thu hút đầu tư nước ngoài, Singapore đã triển khai các chính sách ưu đãi về thuế và xây dựng cơ sở hạ tầng Làn sóng đầu tư trong cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970 chủ yếu đến từ các công ty công nghệ Mỹ như Texas Instruments, National Semiconductor và Hewlett-Packard.

Từ năm 1965 đến 1975, đầu tư từ Mỹ vào Singapore đã mang lại nguồn thu lớn và giúp giải quyết vấn đề thất nghiệp tại đây Đặc biệt, vào năm 1968, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ Mỹ đã đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế của Singapore.

Mỹ đã đầu tư 15 triệu USD trong tổng số 23 triệu USD FDI vào Singapore, với mức đầu tư tiếp tục tăng hàng năm, đạt đỉnh 92 triệu USD vào năm 1973, trở thành quốc gia có đầu tư lớn nhất tại Singapore Thương mại song phương giữa hai nước cũng đạt 650 triệu USD vào năm 1972.

[56, tr.545] Có thể nói mối quan hệ kinh tế với

Hoa Kỳ đã hỗ trợ Singapore trong việc thu hút nguồn lực mạnh mẽ cho quá trình công nghiệp hóa, giúp quốc gia này trở thành một trung tâm kinh tế đáng tin cậy cho các tập đoàn đa quốc gia Năm 1975, Singapore đã chiếm tới 48,6% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào châu Á.

Năm 1975, sau khi Mỹ rút quân khỏi ba nước Đông Dương do thất bại trong chiến tranh Việt Nam, nước này tiếp tục rút khỏi Thái Lan và Philippines Tháng 2/1986, Tổng thống Aquino nhậm chức tại Philippines và công khai yêu cầu rút quân đội Mỹ khỏi căn cứ Subic và Clark Nhân cơ hội này, Singapore đã nâng cao vai trò của mình trong việc sắp xếp lại lực lượng Mỹ tại khu vực Ngày 20/8/1989, Bộ trưởng Ngoại giao George Yeo tuyên bố Singapore sẵn sàng tạo điều kiện thuận lợi cho Mỹ sử dụng các căn cứ quân sự hiện có, mở đường cho MoU Singapore – Hoa Kỳ.

1990 và những bước phát triển vượt bậc của quan hệ song phương hai nước sau này.

NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU TRONG QUAN HỆ

MỘT SỐ NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ VỀ QUAN HỆ SINGAPORE – HOA KỲ TỪ NĂM 1990 ĐẾN NĂM 2012 VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ GỢI MỞ

Ngày đăng: 01/09/2021, 00:15

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Allison G., Blackwill R.D., Wyne A. (2013), Lý Quang Diệu bàn về Trung Quốc, Hoa Kỳ và Thế giới, Bản dịch của Nguyễn Xuân Hồng, NXB Thế giới, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lý Quang Diệu bàn về TrungQuốc, Hoa Kỳ và Thế giới
Tác giả: Allison G., Blackwill R.D., Wyne A
Nhà XB: NXB Thế giới
Năm: 2013
2. Ban Quan hệ quốc tế - Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam VCCI (2015), Hồ Sơ Thị Trường Singapore, 15 trang Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hồ Sơ Thị Trường Singapore
Tác giả: Ban Quan hệ quốc tế - Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam VCCI
Năm: 2015
3. Trần Vĩnh Bảo (2010), Một vòng quanh các nước – Singapore, NXB Văn hoá Thông tin Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một vòng quanh các nước – Singapore
Tác giả: Trần Vĩnh Bảo
Nhà XB: NXB Văn hoáThông tin
Năm: 2010
4. Jorn Dosch (2004), Nước Mỹ ở châu Á – Thái Bình Dương, Bản dịch của Lý Thuỵ Vi, Nghiên cứu quốc tế, số 6, ngày 20/05/2013. Nguyên bản: Dosch Jorn (2004), The United States in the Asia Pacific, in M.K. Connors, R. Davison, & J. Dosch, The New Global Politics of the Asia Pacific (New York: RoutledgeCurzon), p.12-22 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nước Mỹ ở châu Á – Thái Bình Dương
Tác giả: Jorn Dosch (2004), Nước Mỹ ở châu Á – Thái Bình Dương, Bản dịch của Lý Thuỵ Vi, Nghiên cứu quốc tế, số 6, ngày 20/05/2013. Nguyên bản: Dosch Jorn
Năm: 2004
5. Quỳnh Hải Hà và nhóm biên soạn (2004), Tìm hiểu nước Mỹ - Nước Mỹ ngày nay, Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tìm hiểu nước Mỹ - Nước Mỹ ngày nay
Tác giả: Quỳnh Hải Hà và nhóm biên soạn
Nhà XB: Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin
Năm: 2004
6. Trần Thị Hợi (2014), Những kinh nghiệm của Singapore trong việc thực hiện chính sách và các biện pháp phòng chống tham nhũng, Tạp chí Khoa học và Công nghệ trường Đại học Khoa học Huế, tập 1, số 2, tr.95-104 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tạp chí Khoa học vàCông nghệ trường Đại học Khoa học Huế
Tác giả: Trần Thị Hợi
Năm: 2014
7. Trung Hiếu (2016), Những điểm sáng trong di sản đối ngoại của Tổng thống Mỹ Obama, Báo điện tử của Đài tiếng nói Việt Nam, truy cập tạihttps://vov.vn/the- gioi/quan-sat/nhung-diem-sang-trong-di-san-doi-ngoai-cua-tong-thong-my-obama-512952.vov Link
44. Bộ Ngoại giao Singapore, Singapore Foreign Policy, truy cập tại https://www.mfa.gov.sg/SINGAPORES-FOREIGN-POLICY/Countries-and-Regions/Americas/The-United-States-Of-America Link
51. Sharon Chen và Haslinda Amin (2013), Singapore – U.S. Trade High to Persist on Record FDI Level, truy cập tại http://www.bloomberg.com/news/2013-08-25/singapore-u-s-trade-high-persists-on-record-fdi-southeast-asia.html Link
55. Jermyn Chow (2015), See P-8 deployment in perspective, The Straits Time, truy cập tại https://www.straitstimes.com/singapore/see-p-8-deployment-in-perspective, ngày 09/12/2015 Link
133. Tổng hợp các chuyến thăm của lãnh đạo Singapore đến Hoa Kỳ, truy cập tại Office of the Historian, Department of State,https://history.state.gov/departmenthistory/visits/singapore Link
143. Website của báo Đại đoàn kết http://daidoanket.vn/tin-tuc/singapore-cho-phep-my-su-dung-can-cu-quan-su-them-15-nam-tintuc448080] Link
144. Website của báo Singapore Business Review https://sbr.com.sg/economy/exclusive/foreign-direct-investments-us- singapore- hit-over-244b Link
145. Website của báo Straitstimes http://www.straitstimes.com/singapore146. Website của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳhttp://www.state.gov/secretary/rm/2010/11/150671.htm Link
147. Website của Bộ ngoại giao Singapore Bộ Ngoại giao Singapore https://www.mfa.gov.sg Link
148. Website của Cục thống kê Hoa Kỳ United States Census Bureau https://www.census.gov/foreign-trade/balance/c5590.html Link
149. Website của Cục Thống kê Singapore http://www.singstat.gov.sg/publications/publications-and-papers Link
150. Website của Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Singapore https://sg.usembassy.gov 151. Website của Đài Tiếng nói Việt Nam VOV https://vov.vn/the-gioi/quan-sat/nhung-diem-sang-trong-di-san-doi-ngoai-cua-tong-thong-my-obama-512952.vov Link
152. Website tài liệu số của Thư viện quốc gia Singapore https://www.nlb.gov.sg/static/digitalresources/ Link
153. Website thống kê của Quỹ Tiền tệ Quốc tế http://data.imf.org/?sk=abff6c02-73a8-475c-89cc-ad515033e662 Link

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w