1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Những thay đổi của giai cấp công nhân hiện nay so với thời đại của C.Mac và PH.ĂNGGHEN. Liên hệ với giai cấp công nhân Việt Nam

31 60 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 31
Dung lượng 93,59 KB

Cấu trúc

  • LỜI MỞ ĐẦU

  • PHẦN NỘI DUNG

  • Chương 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT

  • 1. Một số khái niệm cơ bản

  • 1.1. Quan niềm về dân chủ

  • 1.2. Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

  • Chương 2: PHÊ PHÁN MỘT SỐ LUẬN ĐIỂM PHỦ NHẬN NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

  • A – NHẬN BIẾT MỘT SỐ LUẬN ĐIỂM PHỦ NHẬN NHẬN NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

  • 1. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

  • 2. Những quan điểm phủ định của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

  • 1. Dân chủ không mang bản chất giai cấp

  • 1.1. Khái quát thực tiễn quá trình xuất hiện, tồn tại và phát triển của nền dân chủ

  • 1.2. So sánh bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa với các nền dân chủ khác

  • 2. Muốn dân chủ thực sự phải thực hiện chế độ đa nguyên, đa đảng

  • 3. Phê phán các quan điểm phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

  • 4. Sự phát triển về nhận thức của Đảng và nhà nước về nền dân chủ Việt Nam

  • PHẦN KẾT LUẬN

  • TÀI LIỆU THAM KHẢO

Nội dung

Những thay đổi của giai cấp công nhân hiện nay so với thời đại của C.Mac và PH.ĂNGGHEN. Liên hệ với giai cấp công nhân Việt Nam Những thay đổi của giai cấp công nhân hiện nay so với thời đại của C.Mac và PH.ĂNGGHEN. Liên hệ với giai cấp công nhân Việt Nam Những thay đổi của giai cấp công nhân hiện nay so với thời đại của C.Mac và PH.ĂNGGHEN. Liên hệ với giai cấp công nhân Việt Nam Những thay đổi của giai cấp công nhân hiện nay so với thời đại của C.Mac và PH.ĂNGGHEN. Liên hệ với giai cấp công nhân Việt Nam Những thay đổi của giai cấp công nhân hiện nay so với thời đại của C.Mac và PH.ĂNGGHEN. Liên hệ với giai cấp công nhân Việt Nam Những thay đổi của giai cấp công nhân hiện nay so với thời đại của C.Mac và PH.ĂNGGHEN. Liên hệ với giai cấp công nhân Việt Nam Những thay đổi của giai cấp công nhân hiện nay so với thời đại của C.Mac và PH.ĂNGGHEN. Liên hệ với giai cấp công nhân Việt Nam

CƠ SỞ LÝ THUYẾT

Một số khái niệm cơ bản

1.1 Quan niềm về dân chủ

 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin

- Về phương diện quyền lực: dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân

Dân chủ, dưới góc độ chế độ xã hội và chính trị, được xem là một hình thức nhà nước phản ánh bản chất của giai cấp cầm quyền và mang tính chất lịch sử.

- Về phương diện tổ chức và quản lý xã hội: dân chủ là một nguyên tắc kết hợp với nguyên tắc tập trung.

 Quan điểm của Hồ Chí Minh

(1) Dân chủ trước hết là một giá trị nhân loại chung

(2) Dân chủ là một thể chế chính trị, một chế độ xã hội.

Dân chủ được hiểu là một giá trị xã hội thể hiện quyền cơ bản của con người, đồng thời là khái niệm chính trị liên quan đến các hình thức tổ chức nhà nước của giai cấp cầm quyền Nó cũng là nguyên tắc hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội và gắn liền với quá trình lịch sử phát triển của xã hội nhân loại.

1.2 Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

Bản chất chính trị của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua đảng của họ, nhằm phục vụ lợi ích chung của toàn xã hội, không chỉ riêng cho giai cấp công nhân Điều này thể hiện quyền lực và lợi ích của toàn thể nhân dân, bao gồm cả giai cấp công nhân.

Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân lao động giữ vai trò làm chủ các quan hệ chính trị, có quyền giới thiệu đại biểu vào bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương Họ tham gia đóng góp ý kiến xây dựng chính sách, pháp luật, và phát triển bộ máy nhà nước Quyền tham gia quản lý nhà nước của nhân dân thể hiện rõ nét nội dung dân chủ trong lĩnh vực chính trị.

Dân chủ xã hội chủ nghĩa có bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc, khác biệt rõ rệt so với dân chủ tư sản Sự khác biệt này thể hiện ở bản chất giai cấp giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản, cơ chế nhất nguyên so với đa nguyên, cũng như sự tồn tại của một đảng hoặc nhiều đảng Ngoài ra, bản chất nhà nước cũng khác, với nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền tư bản.

Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên cơ sở sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm đáp ứng sự phát triển của lực lượng sản xuất Điều này dựa vào khoa học – công nghệ hiện đại, với mục tiêu thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần ngày càng cao của toàn thể nhân dân lao động.

Bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa khác biệt so với các chế độ tư hữu, với mục tiêu loại bỏ áp bức, bóc lột và bất công Kinh tế xã hội chủ nghĩa không chỉ kế thừa và phát triển những thành tựu của nhân loại trong lịch sử mà còn loại bỏ những yếu tố lạc hậu và tiêu cực từ các chế độ kinh tế trước đó Điều này đặc biệt nhấn mạnh việc xóa bỏ bản chất tư hữu, áp bức và bất công đối với đa số nhân dân.

- Bản chất tư tưởng văn hoá – xã hội

Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên hệ tư tưởng Mác – Lênin, đại diện cho giai cấp công nhân, và điều này ảnh hưởng đến mọi hình thái ý thức xã hội trong xã hội mới Nó không chỉ kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc mà còn tiếp thu những tiến bộ văn minh từ nhân loại Trong nền dân chủ này, nhân dân là chủ thể của các giá trị văn hóa tinh thần, có cơ hội nâng cao trình độ văn hóa và phát triển bản thân Như vậy, dân chủ được xem như một thành tựu văn hóa, thể hiện khát vọng tự do sáng tạo và phát triển của con người.

Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, lợi ích cá nhân, tập thể và toàn xã hội được kết hợp hài hòa Nền dân chủ này khuyến khích và thu hút mọi tiềm năng sáng tạo cùng sự tích cực xã hội của nhân dân, góp phần vào sự nghiệp xây dựng xã hội mới.

Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một hình thức dân chủ vượt trội so với dân chủ tư sản, nơi quyền lực thuộc về nhân dân Trong nền dân chủ này, dân là chủ và thực hiện quyền làm chủ thông qua nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng Dân chủ và pháp luật được thực hiện một cách thống nhất, đảm bảo quyền lợi của mọi công dân.

PHÊ PHÁN MỘT SỐ LUẬN ĐIỂM PHỦ NHẬN NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vượt trội hơn nền dân chủ tư sản, nơi quyền lực hoàn toàn thuộc về nhân dân Dân chủ và pháp luật được thực hiện một cách thống nhất thông qua nhà nước pháp quyền XHCN, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

 Thực tiễn quá trình xuất hiện, tồn tại và phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong lịch sử

Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa bắt nguồn từ Công xã Paris năm 1871 và chính thức được xác lập sau Cách mạng tháng Mười Nga, khi Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên ra đời Sự hình thành này đánh dấu một bước phát triển mới về chất của dân chủ, với quá trình phát triển từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa kế thừa các giá trị của nền dân chủ trước đó, đồng thời bổ sung và làm sâu sắc thêm các giá trị mới.

Theo chủ nghĩa Mác – Lênin, giai cấp vô sản cần được chuẩn bị cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa thông qua cuộc đấu tranh cho dân chủ Điều này cho thấy rằng chủ nghĩa xã hội không thể tồn tại và phát triển bền vững nếu không thực hiện đầy đủ các nguyên tắc dân chủ.

Quá trình phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa diễn ra từ thấp tới cao, kế thừa có chọn lọc giá trị từ nền dân chủ tư sản Nguyên tắc cơ bản là mở rộng dân chủ, nâng cao mức độ giải phóng cho người lao động, khuyến khích họ tham gia vào quản lý nhà nước và xã hội Khi nền dân chủ xã hội chủ nghĩa hoàn thiện hơn, nó sẽ dần tự tiêu vong, theo V.I.Lênin, do tính chính trị của nền dân chủ mất đi khi quyền lực thuộc về nhân dân Quá trình này giúp dân chủ trở thành thói quen trong sinh hoạt xã hội, đến mức không còn tồn tại như một thể chế nhà nước hay chế độ, tức là mất đi tính chính trị của nó.

Chủ nghĩa Mác – Lênin nhấn mạnh rằng trong quá trình phát triển xã hội, khi đạt đến trình độ cao và không còn sự phân chia giai cấp, xã hội chủ nghĩa sẽ đạt đến mức hoàn thiện Ở giai đoạn này, dân chủ xã hội chủ nghĩa với tư cách là một chế độ nhà nước cũng sẽ không còn tồn tại.

Sự ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa còn mới mẻ và gặp nhiều khó khăn, đặc biệt ở những quốc gia có nền tảng kinh tế, xã hội thấp và thường xuyên bị tấn công Do đó, mức độ dân chủ ở các nước này hiện còn hạn chế trong nhiều lĩnh vực Ngược lại, nền dân chủ tư sản đã phát triển qua hàng trăm năm tại các quốc gia phát triển Để tồn tại và thích nghi, chủ nghĩa tư bản đã điều chỉnh nhiều khía cạnh xã hội, trong đó quyền con người được quan tâm hơn Mặc dù nền dân chủ tư sản có nhiều tiến bộ, nhưng nó vẫn bị giới hạn bởi bản chất của chủ nghĩa tư bản.

 Những đặc điểm của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

Chủ nghĩa xã hội được coi là giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, với những khác biệt rõ rệt về chất và nguyên tắc so với Chủ nghĩa tư bản Dựa trên lý luận khoa học từ các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin cùng với thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, ta có thể xác định những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội.

Cơ sở vật chất – kỹ thuật của Chủ nghĩa xã hội phụ thuộc vào nền sản xuất công nghiệp hiện đại, giúp nâng cao năng suất lao động và tạo ra của cải vật chất cho xã hội Điều này không chỉ đáp ứng nhu cầu vật chất và văn hóa của nhân dân mà còn nâng cao phúc lợi xã hội Để phát triển nền công nghiệp hiện đại, các nước như Việt Nam cần trải qua quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa, nhằm xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật tiên tiến cho Chủ nghĩa xã hội.

Chủ nghĩa xã hội đã xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu.

Thủ tiêu chế độ tư hữu là cách diễn đạt ngắn gọn về cải tạo xã hội theo lập trường giai cấp công nhân, nhưng chỉ xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa Chủ nghĩa xã hội hình thành từ việc từng bước thiết lập sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể Chế độ sở hữu này được củng cố và hoàn thiện để thích ứng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, mở đường cho sự phát triển này, đồng thời giảm dần mâu thuẫn trong xã hội, tạo sự gắn bó giữa các thành viên vì lợi ích chung.

Chủ nghĩa xã hội tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới.

Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hoạt động tự giác của đại đa số nhân dân lao động, nhằm phục vụ lợi ích chung Để đạt được mục tiêu này, cần tổ chức lao động và kỷ luật lao động phù hợp với vai trò làm chủ của người lao động, đồng thời khắc phục những tàn dư của tình trạng lao động tha hóa trong xã hội cũ.

Chủ nghĩa xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động – nguyên tắc phân phối cơ bản nhất.

Chủ nghĩa xã hội đảm bảo quyền bình đẳng trong lao động sáng tạo và hưởng thụ cho tất cả mọi người Mọi cá nhân có sức lao động đều được tạo cơ hội việc làm và nhận thù lao dựa trên nguyên tắc “làm theo năng lực, hưởng theo lao động” Đây là một trong những nền tảng quan trọng của công bằng xã hội trong giai đoạn hiện nay.

Chủ nghĩa xã hội với Nhà nước xã hội chủ nghĩa đại diện cho một mô hình nhà nước mới, mang bản chất giai cấp công nhân, thể hiện tính nhân dân sâu rộng và tính dân tộc mạnh mẽ; đồng thời thực hiện quyền lực và bảo vệ lợi ích của nhân dân.

Nhà nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo, thể hiện sự quản lý toàn diện của Đảng đối với mọi mặt của xã hội Nhân dân lao động không chỉ thực hiện quyền lực mà còn tham gia tích cực vào công việc nhà nước, tạo nên một “nhà nước nửa nhà nước” với tính tự giác và tự quản cao Điều này cho thấy quyền dân chủ, làm chủ và lợi ích của nhân dân ngày càng được khẳng định rõ ràng hơn trong xã hội.

Chủ nghĩa xã hội đã mang lại sự giải phóng cho con người khỏi áp bức và bóc lột, đồng thời thực hiện công bằng và bình đẳng trong xã hội Nó góp phần tạo ra những điều kiện cơ bản cho sự phát triển toàn diện của con người, thúc đẩy tiến bộ xã hội.

Chủ nghĩa xã hội hướng tới việc giải phóng con người khỏi áp bức kinh tế và nô dịch tinh thần, đảm bảo phát triển toàn diện cá nhân và hình thành lối sống xã hội chủ nghĩa Bằng cách xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân tư bản, chủ nghĩa xã hội loại bỏ sự đối kháng giai cấp, tình trạng bóc lột và áp bức dân tộc, từ đó thực hiện công bằng và bình đẳng xã hội.

Những quan điểm phủ định của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, với bản chất tốt đẹp và ưu việt, đã được khẳng định qua lý luận và thực tiễn Tuy nhiên, các thế lực thù địch vẫn không ngừng đưa ra những luận điệu sai trái và phản động nhằm phủ nhận và chống phá nền dân chủ và Nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Chế độ dân chủ tư sản ở phương Tây được coi là hình mẫu lý tưởng, đại diện cho sự phát triển công nghệ và tương lai tươi sáng Tuy nhiên, hình ảnh này thường bị tô vẽ, trong khi chế độ cộng sản lại bị chỉ trích là “ngột ngạt” và hạn chế tự do Những luận điệu này thường xuyên bác bỏ lý tưởng xã hội chủ nghĩa và ca ngợi quá mức chủ nghĩa tư bản, đồng thời xuyên tạc bản chất của xã hội chủ nghĩa cả trên lý thuyết lẫn thực tiễn Sự nhầm lẫn giữa hiện tượng và bản chất, giữa tính đặc thù và tính phổ biến đã dẫn đến những quan điểm sai lệch này.

Họ tuyên truyền rằng chế độ dân chủ tư sản là con đường duy nhất cho sự phát triển, đồng thời cố tình biến những khuyết điểm thành ưu điểm và thần thánh hóa nó Bên cạnh đó, họ cũng chỉ ra những hạn chế và khuyết điểm trong quá trình phát triển theo chủ nghĩa xã hội, quy kết chúng thành bản chất của chủ nghĩa xã hội.

Để đạt được dân chủ thực sự, cần thiết phải thực hiện chế độ đa nguyên và đa đảng Nhiều người cổ súy mạnh mẽ cho rằng đa đảng là biểu hiện của dân chủ, trong khi độc đảng lại dẫn đến độc tài Họ cho rằng, chỉ khi có đa đảng đối lập thì mới có thể đạt được dân chủ thực sự và phát triển xã hội Tuy nhiên, các thế lực thù địch lại xuyên tạc và đồng nhất khái niệm “đa nguyên, đa đảng” với “đổi mới chính trị”, từ đó đưa ra những quan niệm sai lệch.

Độc tài và đảng trị là nguyên nhân chính dẫn đến sai lầm trong quản lý nhà nước, vì vậy cần thiết phải giới hạn vai trò lãnh đạo của Đảng chỉ trong lĩnh vực chính trị, không nên can thiệp toàn diện Ngoài ra, việc xử lý kỷ luật cán bộ và đảng viên, cùng với nỗ lực phòng chống tham nhũng, thường bị hiểu sai là thanh trừng nội bộ Nếu áp dụng mô hình chính thể theo thuyết “tam quyền phân lập”, tình trạng tham nhũng sẽ được giảm thiểu đáng kể.

 Dân chủ không mang bản chất giai cấp

- Chủ nghĩa xã hội là chuyên chính, không có dân chủ

Giai cấp tư sản khẳng định rằng nền dân chủ của họ là "dân chủ thuần tuý", không mang tính chất chuyên chính Họ cho rằng chỉ có nhà nước tư sản với cơ chế tam quyền phân lập mới có khả năng đảm bảo được sự dân chủ thực sự.

Các thế lực thù địch đã bác bỏ các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, cho rằng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội chỉ là lý thuyết dẫn đến chủ nghĩa xã hội không tưởng Họ cho rằng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ tập trung vào đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản, đề cao bạo lực và thiếu dân chủ Hơn nữa, họ phủ nhận tính hợp pháp của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, coi đó là bộ máy chuyên chính với cơ chế quyền lực thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, không thể đảm bảo dân chủ thực sự.

 Đặc trưng, điểm chung của những luận điểm trên đối với nền xã hội chủ nghĩa

Những quan điểm sai lệch trên xuất phát từ trình độ nhận thức chính trị hạn chế, dẫn đến việc hình thành những cái nhìn không đúng đắn và quan điểm sai lầm, đồng thời bị ảnh hưởng bởi tâm lý nghi kỵ và tư tưởng dân tộc hẹp hòi.

Các quan điểm này không chỉ làm suy yếu và tiêu diệt các giá trị tư tưởng của chủ nghĩa xã hội, mà còn thúc đẩy sự phát triển của các yếu tố phi xã hội chủ nghĩa trong nội bộ hệ thống xã hội chủ nghĩa.

Mục tiêu là tạo ra yếu tố “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” trong nội bộ, gây ra sự hoang mang trong xã hội, đồng thời kích động các hành vi chống đối, biểu tình, bạo loạn và lật đổ.

Các quan điểm nhằm hạ bệ sự lãnh đạo của Đảng, làm suy giảm vai trò và uy tín của Đảng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và chống xâm lược Những quan điểm này gây hoài nghi trong quần chúng nhân dân, dẫn đến mất niềm tin vào khả năng lãnh đạo của Đảng trong xây dựng kinh tế và phát triển đất nước Đồng thời, chúng còn nhằm phá vỡ nền tảng tư tưởng của Đảng, được coi là mục tiêu hàng đầu của các thế lực chống phá thông qua việc đưa ra các quan điểm sai lệch.

B – PHÊ PHÁN MỘT SỐ LUẬN ĐIỂM PHỦ NHẬN NỀN DÂN CHỦ XHCN

Trong bối cảnh các thế lực thù địch đang tung ra nhiều quan điểm và luận điệu nhằm xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lênin, việc kiên quyết và kiên trì đấu tranh để bảo vệ hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa trở nên cấp bách Những mưu đồ "giải trừ ý thức hệ" không chỉ nhằm làm suy yếu Đảng về mặt tư tưởng mà còn đe dọa đến sự lãnh đạo và tổ chức của Đảng Do đó, việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin trong điều kiện mới là nhiệm vụ quan trọng hiện nay.

Dân chủ không mang bản chất giai cấp

1.1 Khái quát thực tiễn quá trình xuất hiện, tồn tại và phát triển của nền dân chủ a Nền dân chủ chủ nô

Sự phát triển của lực lượng sản xuất đã dẫn đến chế độ tư hữu và sự hình thành giai cấp, làm tan rã “dân chủ nguyên thủy” và mở đường cho nền dân chủ chủ nô Nền dân chủ chủ nô được tổ chức với đặc trưng là do dân bầu ra nhà nước, nhưng thực chất “Dân là ai?” chỉ bao gồm giai cấp chủ nô và một phần công dân tự do như tăng lữ, thương gia, và một số trí thức, trong khi đa số còn lại là dân và nô lệ không có quyền tham gia công việc nhà nước Do đó, dân chủ chủ nô thực chất chỉ phục vụ lợi ích của thiểu số, quyền lực của dân bị giới hạn để bảo vệ lợi ích của “dân” mà thôi.

Cuối thế kỉ XIV - đầu XV, sự phát triển của giai cấp tư sản đã dẫn đến sự hình thành nền dân chủ tư sản, mang lại những giá trị quan trọng về tự do, bình đẳng và dân chủ Theo Chủ nghĩa Mác - Lênin, sự ra đời của dân chủ tư sản là một bước tiến lớn trong lịch sử nhân loại Tuy nhiên, nền dân chủ này được xây dựng trên nền tảng kinh tế của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, dẫn đến việc nó thực chất chỉ phục vụ cho thiểu số, những người sở hữu tư liệu sản xuất, trong khi đại đa số nhân dân lao động vẫn bị bỏ lại phía sau Trong bối cảnh đó, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (dân chủ vô sản) được hình thành như một giải pháp để đảm bảo quyền lợi cho toàn bộ nhân dân.

Dân chủ xã hội chủ nghĩa bắt nguồn từ cuộc đấu tranh giai cấp ở Pháp và Công xã Pari năm 1817, nhưng chỉ chính thức được xác lập sau Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, khi nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên ra đời Sự kiện này đánh dấu một bước phát triển quan trọng của nền dân chủ, với quá trình tiến hóa từ những giai đoạn chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa kế thừa các giá trị từ nền dân chủ trước đó, đồng thời bổ sung và làm sâu sắc thêm các giá trị mới.

Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, giai cấp vô sản cần được chuẩn bị kỹ lưỡng để tiến tới cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, bắt đầu từ cuộc đấu tranh cho dân chủ Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể tồn tại và phát triển mạnh mẽ khi thực hiện đầy đủ các nguyên tắc dân chủ.

Quá trình phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa diễn ra từ thấp đến cao, kế thừa chọn lọc giá trị từ nền dân chủ tư sản Nguyên tắc cơ bản là mở rộng dân chủ, nâng cao giải phóng cho người lao động và khuyến khích họ tham gia vào quản lý nhà nước Theo Lênin, sự tiêu vong của dân chủ bắt nguồn từ việc mở rộng quyền lực cho nhân dân, xác lập vị trí chủ thể quyền lực của họ, từ đó tạo điều kiện cho sự tham gia đông đảo và có ý nghĩa vào quản lý xã hội Quá trình này giúp dân chủ trở thành thói quen trong sinh hoạt xã hội, dẫn đến việc nó không còn tồn tại như một thể chế nhà nước, mất đi tính chính trị của mình.

Chủ nghĩa Mác - Lênin nhấn mạnh rằng quá trình phát triển xã hội là lâu dài và chỉ đạt được khi xã hội đạt đến trình độ phát triển cao, không còn phân chia giai cấp Khi đó, xã hội cộng sản chủ nghĩa sẽ xuất hiện, và chế độ nhà nước cũng sẽ tiêu vong, không còn tồn tại nữa.

Dân chủ xã hội chủ nghĩa được coi là hình thức dân chủ tiến bộ hơn trong lịch sử nhân loại, nơi quyền lực hoàn toàn thuộc về nhân dân Trong mô hình này, dân là chủ và thực hiện quyền lực của mình thông qua nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Dân chủ và pháp luật được thực hiện trong sự thống nhất biện chứng, đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của công dân.

Sự ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vẫn còn mới mẻ và gặp nhiều khó khăn do xuất phát điểm kinh tế, xã hội thấp và thường xuyên bị tấn công Trong khi đó, dân chủ tư sản đã phát triển qua hàng trăm năm tại các nước phát triển Chủ nghĩa tư bản, để tồn tại, đã điều chỉnh một số khía cạnh xã hội và chú trọng đến quyền con người, nhưng bản chất của nó vẫn không thay đổi Dân chủ tư sản có tiến bộ, nhưng vẫn bị hạn chế bởi chính bản chất của chủ nghĩa này Để dân chủ xã hội chủ nghĩa thực sự thuộc về nhân dân, cần có sự lãnh đạo của giai cấp công nhân qua Đảng Cộng sản, cùng với trình độ dân trí cao, xã hội công dân vững mạnh, cơ chế pháp luật bảo vệ quyền tự do cá nhân, quyền làm chủ nhà nước và điều kiện vật chất để thực thi dân chủ.

1.2 So sánh bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa với các nền dân chủ khác

Dân chủ xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc, tạo nên sự khác biệt rõ rệt so với dân chủ tư sản Nền dân chủ này được xây dựng trên cơ chế nhất nguyên, với sự lãnh đạo của một đảng, trái ngược với cơ chế đa nguyên và sự tồn tại của nhiều đảng trong dân chủ tư sản Hơn nữa, nhà nước trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phục vụ lợi ích của đại đa số, trong khi đó, dân chủ tư sản chỉ phục vụ cho thiểu số, cụ thể là giai cấp tư sản.

Khác với nền dân chủ tư sản, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu và phân phối lợi ích chủ yếu theo kết quả lao động Trong khi đó, nền dân chủ tư sản có nền tảng kinh tế là chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.

Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được lãnh đạo bởi Đảng Cộng sản và quản lý xã hội thông qua nhà nước xã hội chủ nghĩa, trong khi nền dân chủ tư sản do các đẳng tư sản lãnh đạo, đại diện cho lợi ích của các tập đoàn tư bản thông qua nhà nước tư sản với nhiều hình thức tổ chức khác nhau.

Muốn dân chủ thực sự phải thực hiện chế độ đa nguyên, đa đảng

 Thực chất của đa nguyên, đa đảng

Sau Cách mạng Tháng Mười Nga, khi chính quyền vô sản ra đời, Đảng Cộng sản đã nắm quyền lãnh đạo ở một số quốc gia Trong bối cảnh này, một số học giả và chính trị gia tư sản đã kêu gọi về đa nguyên chính trị và đa đảng đối lập, cho rằng điều này sẽ mang lại sự phong phú cho ý thức hệ và đảm bảo cho một nền dân chủ thực sự Tuy nhiên, đa nguyên và đa đảng chỉ là một trong những yếu tố quan trọng trong việc xây dựng một quốc gia dân chủ; bản chất của dân chủ thực sự là quyền lực thuộc về nhân dân Dân chủ không chỉ là một giá trị xã hội mà còn được hình thành và bảo đảm bởi nhiều yếu tố khác nhau, bao gồm lực lượng cầm quyền, cơ chế quản lý xã hội và trình độ làm chủ của người dân.

Các quốc gia áp dụng hình thức quản lý đa nguyên, đa đảng nổi bật trên thế giới:

Ba Lan, Tiệp Khắc, Hungari, Rumani và Cộng hòa liên bang Đức đã trải qua chế độ độc tài, tương tự như một số quốc gia ở Châu Phi, Mỹ Latinh như Somali, Ethiopia, Bolivia, Chile, cũng như một số nước ở khu vực Châu Á như Pakistan, Miến Điện và Thái Lan.

 Đa nguyên, đa đảng có phù hợp với Việt Nam không?

Thực hiện đa nguyên, đa đảng có thể dẫn đến tình trạng tranh giành quyền lực giữa các đảng phái đối lập, gây ly tán trong nhân dân và làm mất ổn định chính trị Hệ quả là đất nước rơi vào hỗn loạn, khối đại đoàn kết dân tộc bị phá vỡ, kinh tế lâm vào khủng hoảng, và đời sống của người dân bị đe dọa Điều này tạo cơ hội cho các thế lực nước ngoài can thiệp, thực hiện các mưu đồ chính trị nhằm phá hoại đất nước.

Các bằng chứng rõ ràng cho thấy các thế lực thù địch đã thực hiện âm mưu của họ, đồng thời phản ánh quá trình mà các nước phương Tây đã trải qua trong giai đoạn này.

Các thế lực thù địch đang gia tăng các luận điểm yêu cầu thực hiện đa đảng đối lập, đồng thời chỉ trích Đảng Cộng sản Việt Nam vì không chịu đổi mới về mặt chính trị.

“không chịu thực hiện đa nguyên chính trị, giữ độc quyền lãnh đạo”; rằng ở Việt Nam

“không có đa nguyên, đa đảng thì không bao giờ có dân chủ”;

Các thế lực thù địch đang yêu cầu sửa đổi Hiến pháp và xóa bỏ quy định về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Nhà nước và xã hội.

Sửa đổi các thể chế Nhà nước xã hội chủ nghĩa theo mô hình tam quyền phân lập như ở các Nhà nước tư bản hiện đại, yêu cầu Đảng Cộng sản từ bỏ vai trò lãnh đạo xã hội, và công khai xây dựng các tổ chức đảng đối lập như “Đảng Dân chủ” và “Đảng Dân chủ xã hội” đang là xu hướng đáng chú ý hiện nay.

Các tổ chức như “Đảng Dân chủ tự do Thiên chúa giáo” và “Đảng Dân chủ tự do Phật giáo” thực chất chỉ là chiêu trò nhằm phá hoại và làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam Mục tiêu chính của chúng là loại bỏ Đảng Cộng sản ra khỏi quá trình phát triển của dân tộc, thể hiện âm mưu thâm độc và trắng trợn của các thế lực thù địch.

Lịch sử cho thấy rằng Liên Xô đã rơi vào hỗn loạn trong quá trình cải cách do thiếu kiên định trong mục tiêu và thực hiện đa nguyên đa đảng Sự tranh giành quyền lực giữa các đảng phái dẫn đến việc người dân mất niềm tin vào Đảng và Nhà nước Đồng thời, các thế lực bên ngoài gia tăng hoạt động chống phá, kết quả là sự sụp đổ của chế độ nhà nước trở thành điều không thể tránh khỏi.

Mỹ thường chỉ trích Việt Nam, Cuba, Trung Quốc và Nga về vi phạm dân chủ và nhân quyền, đồng thời kêu gọi can thiệp vào nội bộ các nước này để "xây dựng nhân quyền" Tuy nhiên, tại các nước đa nguyên, đa đảng như Mỹ và phương Tây, cũng xảy ra nhiều vụ vi phạm nhân quyền nghiêm trọng, như tình trạng tại nhà tù Guantanamo và vụ Edward Snowden tiết lộ các hoạt động nghe lén toàn cầu của Cơ quan an ninh quốc gia Mỹ Sự can thiệp của Mỹ vào các cuộc tranh giành quyền lực ở Ba Lan, Tiệp Khắc, Hungari, Rumania và một số nước châu Á như Pakistan, Myanmar, Thái Lan đã kéo dài hàng chục năm, dẫn đến hàng triệu người thiệt mạng và hàng chục triệu người rơi vào cảnh đói nghèo, cho thấy thực chất của đa nguyên, đa đảng là sự phân chia, tranh giành và kiểm soát xã hội.

Đòi hỏi đa nguyên, đa đảng là mưu đồ xấu của một số người nhằm thực hiện tham vọng quyền lực cá nhân Họ mong muốn lợi dụng tình hình đất nước để lật đổ các lãnh đạo hiện tại, với sự hỗ trợ từ bên ngoài Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn, chúng ta khẳng định rằng Việt Nam không cần đa nguyên, đa đảng, đó là lựa chọn đúng đắn của Đảng và nhà nước.

Việt Nam đã từng trải qua chế độ đa đảng, nhưng lịch sử và nhân dân đã phủ định điều đó Đảng Cộng sản Việt Nam không tự ban cho mình quyền lãnh đạo, mà đó là nhiệm vụ thiêng liêng do nhân dân giao phó Từ khi thành lập đến nay, Đảng luôn là đội tiên phong, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân lao động, trung thành với lợi ích của cả dân tộc Đây là sự lựa chọn của lịch sử.

Phê phán các quan điểm phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

Dân chủ tư sản không phải là hình thức dân chủ tối thượng trong lịch sử Chủ nghĩa Mác - Lênin ghi nhận sự chuyển biến quan trọng từ chế độ chuyên chế của vua chúa sang nhà nước pháp quyền tư sản, đồng thời chuyển đổi xã hội thần dân phong kiến thành xã hội công dân tư sản.

Khi chủ nghĩa tư bản đạt đến giai đoạn đại công nghiệp, sự can thiệp của Nhà nước tư sản đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của lực lượng sản xuất Chỉ trong vòng 100 năm, lực lượng sản xuất mới này đã vượt qua tổng lực lượng sản xuất của tất cả các thời kỳ trước cộng lại.

Chủ nghĩa Mác - Lênin không phủ định sạch trơn chủ nghĩa tư bản nói chung và dân chủ tư sản - cốt lõi là nhà nước tư sản nói riêng.

Quan điểm cho rằng dân chủ tư sản đã thay đổi bản chất và không cần nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thay thế, hoặc rằng dân chủ tư sản sẽ tự dẫn đến dân chủ xã hội chủ nghĩa mà không cần cách mạng, là sai lầm cả về lý luận lẫn thực tiễn lịch sử.

Nền dân chủ tư sản chỉ có thể hình thành thông qua cách mạng tư sản, điển hình là cuộc cách mạng tư sản Pháp năm 1789, khi Hoàng đế Lui XVI bị xử tử và Cộng hòa I được thành lập Tuy nhiên, quyền lực lại rơi vào tay hai dòng họ quý tộc Buốc bông và Oacleang từ năm 1815 đến 1848, kéo dài 33 năm Do đó, giai cấp tư sản buộc phải tiến hành cuộc cách mạng lần thứ hai vào tháng 2 năm 1848 để khôi phục Cộng hòa II.

Bài viết phê phán quan điểm cho rằng dân chủ và chuyên chính là hai khái niệm mâu thuẫn Theo đó, dân chủ không thể tồn tại trong bối cảnh chuyên chính, và ngược lại, chuyên chính không thể có trong một xã hội dân chủ Điều này đặt ra câu hỏi về sự tương thích giữa hai hình thức quản lý xã hội này.

Những người xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng chỉ có chế độ tư sản mới thực sự có dân chủ, trong khi chế độ xã hội chủ nghĩa chỉ mang lại chuyên chính và độc tài của giai cấp vô sản và Đảng Cộng sản Họ cho rằng từ chuyên chính, nhân loại đã đấu tranh để đạt được dân chủ, nhưng những người cộng sản lại đẩy xã hội trở lại chuyên chính Đồng thời, họ thường phủ nhận thành quả của các nhà nước xã hội chủ nghĩa và phóng đại những khuyết điểm của chúng, như việc “chống sùng bái cá nhân Stalin” ở Liên Xô hay những vấn đề trong cải cách ruộng đất ở Việt Nam vào năm 1956.

Bốn là, cần phê phán quan điểm phủ nhận khả năng tổ chức và xây dựng của nhà nước xã hội chủ nghĩa trong thực tiễn Ví dụ, trong chủ nghĩa tư bản, Anh đã trải qua 100 năm công nghiệp hóa, Nhật Bản 60 năm, Hàn Quốc 40 năm và Singapore chỉ 30 năm, cho thấy sự khác biệt rõ rệt trong quá trình phát triển và tổ chức của từng quốc gia.

Trong chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, năm 1925 công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa đến 1941 (sau 16 năm) Liên Xô thành nước công nghiệp hàng đầu châu Âu Năm 1949

Trong suốt 24 năm, bao gồm 4 năm chiến tranh, Liên Xô đã thành công trong việc thử nghiệm bom nguyên tử, qua đó phá vỡ thế độc quyền vũ khí nguyên tử của Mỹ Đến năm 1957, Liên Xô trở thành quốc gia đầu tiên phóng thành công vệ tinh nhân tạo vào quỹ đạo trái đất Tiếp theo, vào năm 1961, Liên Xô đã đưa con người vào vũ trụ, khẳng định vị thế của mình như một trong hai siêu cường thế giới Trong khi đó, Singapore trải qua 30 năm cuối thế kỷ XX với dân số từ 3-5 triệu, thì Liên Xô trong 30 năm đầu thế kỷ XX có dân số từ 125 triệu đến 175 triệu.

Bên cạnh phát triển lực lượng sản xuất (khoa học, kỹ thuật), Liên Xô thành công trên các lĩnh vực:

(1) Giải quyết việc làm, xóa nạn thất nghiệp;

(2) Thực hiện mọi người có nhà ở, phát triển giáo dục, chăm sóc y tế không mất tiền

(3) Người già, trẻ em, phụ nữ, dân tộc thiểu số được quan tâm;

(4) Bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, độc lập dân tộc chủ quyền quốc gia và bảo vệ hòa bình thế giới;

(5) Giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc (trong đó có Việt Nam).

Bài viết phê phán quan điểm cho rằng việc xây dựng chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa phải gắn liền với việc thực thi nhân quyền, mà theo quan điểm tư sản, nhân quyền chỉ là “quyền tự do cá nhân tư sản” Nó chỉ ra rằng quan niệm cho rằng nhân quyền cao hơn chủ quyền, tức quyền cá nhân vượt trội hơn quyền quốc gia dân tộc, là điều phi lý Từ đó, bài viết cho rằng điều này có thể dẫn đến sự can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia dưới danh nghĩa “bảo vệ những người bất đồng chính kiến”.

Sự phát triển về nhận thức của Đảng và nhà nước về nền dân chủ Việt Nam23 PHẦN KẾT LUẬN

Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ quan trọng và lâu dài nhằm bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân Trong hơn 30 năm qua, việc thực hiện và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa đã được tiến hành đồng bộ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, bao gồm kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội, cả trong Đảng lẫn ngoài xã hội.

Thứ nhất, dân chủ trong lĩnh vực kinh tế.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đã chuyển mình từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với sự đa dạng về hình thức sở hữu và thành phần kinh tế Các thành phần kinh tế được pháp luật công nhận và tạo điều kiện để cùng tồn tại, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, góp phần hình thành nền kinh tế quốc dân Nhà nước đã ban hành Hiến pháp và các luật liên quan như Luật Đầu tư, Luật Hợp tác xã, Luật Doanh nghiệp, và Luật Đất đai, tạo cơ sở pháp lý cho sự phát triển kinh tế Việc cho phép các chủ thể kinh tế tự do sản xuất, kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, giúp Việt Nam vượt qua khủng hoảng và đạt được mức thu nhập trung bình.

Đảng và Nhà nước ta đã thừa nhận sự tồn tại lâu dài của các thành phần kinh tế, đồng thời tạo điều kiện pháp lý và chính sách để phát triển kinh tế tư nhân Đại hội XII đã chỉ đạo phát triển đồng bộ các loại thị trường, tạo môi trường thực hiện dân chủ trong kinh tế Nhà nước cũng nâng cao vai trò quản lý, nhằm tạo thuận lợi cho các chủ thể kinh tế, đặc biệt là xây dựng nhà nước kiến tạo phát triển Mô hình này tập trung vào việc đề ra chính sách định hướng phát triển, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát huy tiềm năng trong môi trường cạnh tranh và hội nhập quốc tế, đồng thời tăng cường giám sát để đảm bảo sự ổn định và phát triển kinh tế vĩ mô.

Thứ hai, dân chủ trong lĩnh vực chính trị.

Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay là đảng duy nhất đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân và toàn dân tộc, với chế độ một đảng lãnh đạo phù hợp với điều kiện lịch sử và tình hình đất nước, đảm bảo ổn định chính trị cho sự phát triển bền vững Việc lãnh đạo bởi một đảng không ảnh hưởng đến việc thực hiện dân chủ, và trong hơn 30 năm đổi mới, dân chủ ở Việt Nam đã có những bước tiến rõ rệt, đặc biệt trong lĩnh vực chính trị Hệ thống chính trị đang được đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động, góp phần phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa Đảng liên tục cải cách để trở nên trong sạch và vững mạnh hơn, với phương thức lãnh đạo thường xuyên được đổi mới Công tác cán bộ được chú trọng, từ phát hiện đến đào tạo và sử dụng, đảm bảo tính công khai và minh bạch Bên cạnh đó, việc thực hiện bầu cử có số dư và Quy chế chất vấn trong Đảng cùng sự tham gia ngày càng rộng rãi của các tổ chức cơ sở và đảng viên vào hoạch định chính sách cũng thể hiện sự tiến bộ trong công tác đảng.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân đang được xây dựng và hoàn thiện với hệ thống văn bản pháp luật cụ thể hóa tổ chức và hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước Quốc hội ngày càng hoạt động dân chủ hơn, với việc tăng cường chất vấn và cải tiến công tác bầu cử, đồng thời chú trọng đến sự tham gia của nhân dân trong việc góp ý các dự án luật và chính sách Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đang từng bước đổi mới, nâng cao vai trò giám sát và phản biện xã hội Bộ Chính trị đã ban hành quy chế giám sát và quy định về sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc và nhân dân trong xây dựng Đảng và chính quyền Các hình thức dân chủ, bao gồm dân chủ đại diện và trực tiếp, được coi trọng, với kết quả đáng ghi nhận từ việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh tại Hội nghị toàn quốc rằng bầu không khí dân chủ trong Đảng và xã hội đã được mở rộng hơn.

Thứ ba, dân chủ trong lĩnh vực văn hóa và xã hội.

Trong quá trình đổi mới, Nhà nước đã bảo đảm cho nhân dân các quyền cơ bản như quyền thông tin, tự do ngôn luận, tự do báo chí, và quyền tham gia ý kiến xây dựng Đảng và chính quyền Hệ thống pháp luật, bao gồm Luật Báo chí, Luật Xuất bản và Luật Sở hữu trí tuệ, đã được ban hành để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực văn hóa và xã hội Nhờ đó, quyền làm chủ của nhân dân trong các vấn đề văn hóa và xã hội được tôn trọng và phát huy Đặc biệt, dân chủ trong hoạt động lý luận khoa học đã có những bước tiến, tạo điều kiện cho các nhà khoa học phát huy năng lực sáng tạo và tham gia thảo luận.

Với quan điểm “Dân chủ không mang bản chất giai cấp” :

Dân chủ xã hội chủ nghĩa là kết quả của một quá trình lịch sử dài lâu, không phải là sản phẩm tự nhiên hay mong muốn của cá nhân hay giai cấp nào Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, dân chủ tồn tại dưới dạng các quan hệ vật chất có thể kiểm chứng và cũng thể hiện qua các giá trị tinh thần trong tư tưởng Nó là sự phát triển theo các quy luật khách quan, phản ánh sự tiến hóa của xã hội và kinh tế, dẫn đến nhiều “kiểu” dân chủ khác nhau trong lịch sử loài người.

Dân chủ XHCN không phải là hiện tượng ngẫu nhiên, mà là kết quả của sự phát triển nhân loại Nó chỉ có thể tồn tại khi các nguyên tắc được hình thành từ thực tiễn xã hội, không chỉ từ lý thuyết của những nhà tư tưởng Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và quá trình xã hội hóa chế độ chiếm hữu tư liệu sản xuất đã dẫn đến sự ra đời của dân chủ XHCN, phản ánh trình độ phát triển của phương thức sản xuất trong xã hội.

Bản chất tốt đẹp của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đã được khẳng định qua lý luận và thực tiễn, nhưng các thế lực thù địch vẫn cố gắng phủ nhận và chống phá bằng những luận điệu sai trái Họ cho rằng chế độ dân chủ tư sản ở phương Tây là hình mẫu cao nhất và khẳng định rằng chỉ có đa nguyên, đa đảng mới mang lại dân chủ thực sự Những tuyên bố này cho rằng đa đảng là yếu tố quan trọng nhất để xây dựng một quốc gia dân chủ và sẽ bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân Đồng thời, họ còn yêu cầu sửa đổi Hiến pháp và thể chế của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo mô hình tam quyền phân lập, đồng thời yêu cầu Đảng Cộng sản Việt Nam từ bỏ vai trò lãnh đạo.

Với quan điểm “Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập mới có dân chủ”:

Kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin nhấn mạnh rằng dân chủ XHCN là quyền lực thuộc về nhân dân, cho phép họ quản lý công việc nhà nước Nhân dân có quyền làm chủ trong mọi lĩnh vực xã hội, bao gồm kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội Lênin khẳng định rằng “Toàn bộ quyền lực tối cao trong nước phải thuộc về các đại biểu của nhân dân, do nhân dân bầu ra, có thể bị nhân dân bãi chức bất cứ lúc nào” Để thực hiện nền dân chủ này, nhân dân cần tích cực tham gia vào quản lý nhà nước, trong khi nhà nước cũng phải mở rộng các quyền tự do và dân chủ cho nhân dân.

Dựa vào sáng kiến của quần chúng và sự tham gia tích cực của họ trong mọi hoạt động của nhà nước, việc quần chúng chủ động, mạnh dạn đóng góp ý kiến và thể hiện tinh thần sáng tạo trong công việc sẽ mang lại hiệu quả cao hơn.

Sự ra đời của dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn liền với quá trình phát triển của chủ nghĩa xã hội, thực hiện qua nhiều hình thức trong các lĩnh vực đời sống xã hội, được pháp luật xã hội chủ nghĩa bảo đảm Dân chủ không chỉ phụ thuộc vào chế độ một đảng hay đa đảng, mà quan trọng hơn là quyền lực và quyền lợi có thuộc về nhân dân hay không Để phát huy quyền làm chủ của công dân, cần nâng cao đồng bộ nhiều yếu tố, trong đó có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, công cụ thực thi quyền làm chủ của người dân Trong bối cảnh phức tạp hiện nay, các thế lực thù địch đang tìm cách lợi dụng dân chủ để gây bất ổn cho chế độ Chủ nghĩa Mác - Lênin và lý luận về dân chủ xã hội chủ nghĩa vẫn chứng minh tính đúng đắn và khoa học của mình qua thực tiễn thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong hơn 80 năm qua.

Ngày đăng: 29/08/2021, 21:31

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w