1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Các biểu hiện của bẫy thu nhập trung bình đối với việt nam giai đoạn 2008 2018

106 49 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 106
Dung lượng 1,99 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: GIỚI TIHIỆU NGHIÊN CỨU (16)
    • 1.1 Mục tiêu nghiên cứu (17)
    • 1.2 Câu hỏi nghiên cứu (18)
    • 1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (18)
    • 1.4. Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu (18)
    • 1.5. Nội dung nghiên cứu (19)
    • 1.6. Đóng góp của đề tài (19)
    • 1.7. Kết cấu dự kiến của đề tài (20)
  • CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH (22)
    • 2.1. Khái niệm về bẫy thu nhập trung bình (22)
      • 2.1.1. Các nhóm thu nhập (22)
      • 2.1.2. Sự dịch chuyển giữa các mức thu nhập (23)
      • 2.1.3. Khái niệm bẫy thu nhập trung bình (25)
    • 2.2. Các biểu hiện của quốc gia rơi vào bẫy thu nhập trung bình (31)
      • 2.2.1. Tăng trưởng chậm (32)
      • 2.2.2. Năng suất lao động thấp (32)
      • 2.2.3. Thiếu hụt chuyển dịch cơ cấu (33)
    • 2.3. Nguyên nhân rơi vào tinh trạng bẫy thu nhập trung bình (35)
      • 2.3.1. Sự suy giảm hiệu quả vốn đầu tư (35)
      • 2.3.2. Tình trạng một nền kinh tế gia công tiếp tục hiện hữu (36)
    • 2.4. Tổng quan về các nghiên cứu liên quan đến bẫy thu nhập trung bình (37)
  • CHƯƠNG 3: BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA CÁC QUỐC GIA TRÁNH HOẶC THOÁT BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH THÀNH CÔNG (20)
    • 3.1. Kinh nghiệm của Hàn Quốc (46)
      • 3.1.1. Quá trình Hàn Quốc thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình (46)
      • 3.1.2. Giải pháp thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình (48)
    • 3.2. Kinh nghiệm của Singapore (54)
      • 3.2.1 Quá trình Singapore thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình (54)
      • 3.2.2. Giải pháp thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình (55)
    • 3.3. Kinh nghiệm Nhật Bản (58)
      • 3.3.1. Quá trình thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình (58)
      • 3.3.2. Giải pháp Nhật Bản để thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình (60)
    • 3.4. Kinh nghiệm của Chile (62)
      • 3.4.1. Quá trình Chile thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình (62)
      • 3.4.2. Giải pháp thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình (64)
    • 3.5. Kinh nghiệm của Uruguay (66)
      • 3.5.1. Quá trình Uruguay thoát bẫy thu nhập trung bình (66)
      • 3.5.2. Giải pháp thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình (67)
    • 3.6. Các bài học kinh nghiệm chung (68)
  • CHƯƠNG 4: CÁC BIỂU HIỆN CỦA BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH TẠI VIỆT NAM (20)
    • 4.1. Tổng quan nền kinh tế Việt Nam sau năm 2008 (71)
    • 4.2. Các dấu hiệu của bẫy thu nhập trung bình sau khi gia nhập các quốc gia có (73)
      • 4.2.1 Tăng trưởng chậm (73)
      • 4.2.2. Năng suất lao động thấp (78)
      • 4.2.3. Thiếu hụt trong thay đổi cấu trúc (82)
    • 4.3. Các nguyên nhân làm phát sinh các biểu hiện của bẫy thu nhập trung bình ở Việt Nam (88)
      • 4.3.1. Suy giảm trong hiệu quả sử dụng vốn (88)
      • 4.3.2. Tình trạng của một nền kinh tế gia công tiếp tục tồn tại (92)
  • CHƯƠNG 5: MỘT SỐ KHUYẾN NGHN TRÁNH BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH Ở VIỆT NAM (96)
    • 5.1. Kết luận (96)
    • 5.2. Khuyến nghị (96)
      • 5.2.1. Khuyến nghị đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế (97)
      • 5.2.2. Khuyến nghị nhằm tăng NSLĐ (99)
      • 5.2.3. Khuyến nghị đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu (100)
    • 5.3. Hạn chế của nghiên cứu và hướng nghiên cứu mở rộng (0)
      • 5.3.1. Hạn chế của nghiên cứu (101)
      • 5.3.2. Hướng nghiên cứu mở rộng (102)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (105)

Nội dung

GIỚI TIHIỆU NGHIÊN CỨU

Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu chính của nghiên cứu này là phân tích các biểu hiện của bẫy thu nhập trung bình tại Việt Nam, đồng thời đề xuất những giải pháp hiệu quả nhằm giúp đất nước vượt qua tình trạng này và đạt được sự phát triển bền vững.

+ Tổng hợp cơ sở lý thuyết về bẫy thu nhập trung bình

+ Phân tích các biểu hiện có khả năng vướng vào bẫy thu nhập trung bình của Việt Nam

Để hạn chế tình trạng bẫy thu nhập trung bình ở Việt Nam, cần áp dụng một số giải pháp hiệu quả dựa trên kinh nghiệm của các quốc gia khác Trước tiên, cần tập trung vào việc cải thiện chất lượng giáo dục và đào tạo nghề, giúp người lao động nâng cao kỹ năng Thứ hai, khuyến khích đổi mới sáng tạo và phát triển công nghệ để tăng cường năng suất lao động Thứ ba, cần xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi, thu hút đầu tư nước ngoài và hỗ trợ doanh nghiệp trong nước Cuối cùng, chính phủ nên thực hiện các chính sách xã hội nhằm giảm bất bình đẳng và tạo điều kiện cho mọi tầng lớp tham gia vào quá trình phát triển kinh tế.

Câu hỏi nghiên cứu

Nhằm đạt được mục tiêu nghiên cứu đã đặt ra, nội dung đề tài tìm câu trả lời cho các câu hỏi sau:

1 Việt Nam có những biểu hiện rơi vào bẫy thu nhập trung bình hay không?

2 Giải pháp thoát bẫy hoặc tránh bẫy là như thế nào?

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

• Đối tượng nghiên cứu của đề tài là bẫy thu nhập trung bình

Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu, khóa luận đã áp dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học như phân tích, so sánh và tổng hợp để làm rõ lý thuyết về bẫy thu nhập trung bình Qua việc rút ra bài học kinh nghiệm từ một số quốc gia khác, khóa luận đã tìm hiểu các biểu hiện của bẫy thu nhập trung bình tại Việt Nam và đưa ra các kiến nghị nhằm giúp Việt Nam tránh những biểu hiện này.

Phương pháp thống kê mô tả được áp dụng để thu thập và phân tích số liệu của Việt Nam cùng với một số quốc gia khác Qua việc sử dụng bảng biểu và đồ thị, bài viết sẽ làm rõ các biểu hiện của bẫy thu nhập trung bình trong giai đoạn nghiên cứu.

• Dữ liệu thu thập: thông tin và dữ liệu chủ yếu ở giai đoạn 2008-2018; đồng thời thông tin giai đoạn trước 2008 cũng được sử dụng cho nghiên cứu

• Nguồn dữ liệu: Worldbank, Tradingeconomics và các trang báo như Vietstock, Dân Trí, Tạp chí Ngân hang, Tổng cục thống kê.

Nội dung nghiên cứu

Bẫy thu nhập trung bình là một khái niệm quan trọng trong kinh tế, thể hiện tình trạng các quốc gia có thu nhập trung bình gặp khó khăn trong việc chuyển mình lên mức thu nhập cao hơn Các quốc gia này thường đối mặt với những biểu hiện cụ thể của bẫy thu nhập trung bình, như sự thiếu hụt đổi mới, năng suất lao động thấp và hạn chế trong đầu tư Việc hiểu rõ cơ sở lý thuyết về bẫy thu nhập trung bình giúp các quốc gia nhận diện và vượt qua những thách thức này để phát triển bền vững.

Hai là tìm hiểu và rút ra bài học kinh nghiệm thoát bẫy thu nhập trung bình của một số quốc gia khác

Bài viết phân tích các dấu hiệu của bẫy thu nhập trung bình tại Việt Nam thông qua việc so sánh GDP, năng suất lao động, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và các yếu tố khác Kết quả cho thấy Việt Nam có thể đang đối mặt với các biểu hiện của bẫy thu nhập trung bình.

Bốn là đề xuất các kiến nghị nhằm giúp Việt Nam tránh khỏi các biểu hiện của bẫy thu nhập trung bình.

Đóng góp của đề tài

• Về lý luận, khóa luận đã hệ thống hóa được những nội dung cơ bản về bẫy thu nhập trung bình

Khóa luận đã giải đáp câu hỏi về việc liệu Việt Nam có rơi vào bẫy thu nhập trung bình hay không, thông qua việc phân tích các biểu hiện của bẫy thu nhập trung bình tại Việt Nam từ năm 2008 đến 2018.

Khóa luận hệ thống hóa các bài học kinh nghiệm từ những quốc gia đã thành công trong việc tránh bẫy thu nhập trung bình, từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm giúp Việt Nam tránh khỏi các biểu hiện của tình trạng này.

Kết cấu dự kiến của đề tài

Kết cấu nội dung khóa luận được chia làm năm chương:

Chương 1: Tổng quan về đề tài nghiên cứu

Chương 1 mang đến một cái nhìn tổng quan về nghiên cứu, đưa ra lý do lựa chọn vấn đề thực tế này Giới thiệu nghiên cứu sẽ lấy từ đề cương khóa luận với các mục sau: Lý do chọn đề tài; Mục tiêu nghên cứu; Câu hỏi nghiên cứu; Đối tượng và phạm vi nghiên cứu; Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu; Nội dung nghiên cứu; Bố cục của nghiên cứu

Chương 2: Cơ sở lý luận về bẫy thu nhập trung bình

Chương 2 trước tiên chỉ ra một số biểu hiện của bẫy thu nhập trung bình và đưa ra các định nghĩa về bẫy thu nhập trung bình của nhiều nhà nghiên cứu sau đó đưa ra một định nghĩa chung theo người viết Thứ hai, một số quan điểm nghiên cứu được đưa ra để đóng góp cho ý tưởng của chủ đề Ngoài ra, trong chương này, một số quan điểm đóng góp trong các nghiên cứu của cả các tác giả trong nước và quốc tế cũng được thể hiện làm nền tảng cho nghiên cứu

Chương 3: Bài học kinh nghiệm của các quốc gia tránh hoặc thoát bẫy thu nhập trung bình thành công

Chương này cung cấp cái nhìn tổng quan về các quốc gia có khả năng thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, với bài học từ Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore và một số nước Mỹ Latin Việt Nam có thể học hỏi từ những kinh nghiệm này để tìm ra giải pháp cho vấn đề phát triển kinh tế của mình.

Chương 4: Các biểu hiện của bẫy thu nhập trung bình tại Việt Nam

Chương thứ tư phân tích các dấu hiệu của bẫy thu nhập trung bình tại Việt Nam, làm nổi bật những đặc điểm và biểu hiện cụ thể của nền kinh tế trong bối cảnh này.

Chương 5: Một số kiến nghị nhằm giúp Việt Nam tránh các biểu hiện của bẫy thu nhập trung bình

Chương cuối đưa ra các giải pháp cho Việt Nam nhằm tránh bẫy thu nhập trung bình, bao gồm khuyến nghị cho Chính phủ và Doanh nghiệp Ngoài ra, chương này còn chỉ ra những hạn chế của đề tài và thiết lập cơ sở cho các nghiên cứu mở rộng trong tương lai.

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH

Khái niệm về bẫy thu nhập trung bình

Nhóm thu nhập là cách phân loại các quốc gia dựa trên thu nhập, theo Ngân hàng Thế giới (2014) gồm bốn nhóm: thu nhập thấp, thu nhập trung bình thấp, thu nhập trung bình cao và thu nhập cao Phân loại này dựa vào GNI bình quân đầu người và có thể thay đổi hàng năm do các yếu tố như tăng trưởng thu nhập, lạm phát và tỷ giá hối đoái Ngoài ra, ngưỡng USD cũng ảnh hưởng đến các chỉ số vì tất cả đều sử dụng đồng USD làm đơn vị tính.

Bảng 2.1 Phân loại theo thu nhập Ngưỡng thu nhập GNI/Capita (USD)

Thu nhập trung bình thấp 1.006 – 3.955

Thu nhập trung bình cao 3.956 – 12.235

Theo bảng xếp hạng, Việt Nam thuộc nhóm thu nhập trung bình thấp với mức thu nhập khoảng 2.000 USD Trần Văn Thọ (2013) phân chia thế giới thành bốn nhóm dựa trên trình độ phát triển: Nhóm thứ nhất là các nước thu nhập thấp, đối mặt với cái bẫy nghèo; Nhóm thứ hai là những nước đã đạt trình độ phát triển trung bình nhưng trì trệ; Nhóm thứ ba là các nước mới phát triển trong vài chục năm qua, như Trung Quốc và một số nước ASEAN; Nhóm thứ tư bao gồm các nước tiên tiến với thu nhập cao như Mỹ, Nhật Bản và các nước Tây Âu.

2.1.2 Sự dịch chuyển giữa các mức thu nhập

Phát triển kinh tế là một quá trình phức tạp, bao gồm việc chuyển đổi nguồn lực từ các hoạt động năng suất thấp sang các hoạt động có năng suất cao hơn, tích lũy vốn, công nghiệp hóa và đô thị hóa, cùng với những thay đổi trong thể chế xã hội (Kuznets, 1971) Các nhà kinh tế học luôn tìm hiểu về chuỗi phát triển kinh tế của các quốc gia, thường thấy rằng nền kinh tế phát triển từ thu nhập thấp lên thu nhập trung bình, và sau đó là thu nhập cao Tuy nhiên, một số quốc gia có thể bị kẹt ở nhóm thu nhập thấp hoặc trung bình trong thời gian dài, hoặc thậm chí quay trở lại nhóm thu nhập thấp do các cú sốc kinh tế, chiến tranh hoặc sụt giảm giá hàng hóa (Spence, 2011) Sự chuyển đổi từ thu nhập thấp sang thu nhập trung bình là bước nhảy quan trọng để đạt được thu nhập cao trong tương lai Theo nghiên cứu của Francis E Hutchinson và Sanchita Basu Das (2016), ba sự chuyển đổi chính ảnh hưởng đến thu nhập và nền kinh tế là điểm ngoặt Lewis, công nghệ tân tiến và chế độ nhà nước, cho thấy sự chuyển đổi lên mức thu nhập cao.

Điểm ngoặt Lewis đánh dấu sự chuyển đổi đầu tiên trong nền kinh tế, khi tiền lương bắt đầu tăng nhanh do nguồn lao động giá rẻ từ di cư nông thôn đến đô thị cạn kiệt Hiện tượng này dẫn đến việc tăng lương, nhưng đồng thời cũng làm chậm lại tốc độ tăng trưởng năng suất Các quốc gia có thu nhập trung bình gặp khó khăn trong việc cạnh tranh với các nền kinh tế thu nhập thấp trong lĩnh vực sản phẩm thâm dụng lao động, nơi cần nhiều lao động phổ thông.

Trong quá trình chuyển đổi kinh tế, các quốc gia cần tránh xa các ngành công nghiệp thâm dụng lao động Đồng thời, việc tăng năng suất do phân bổ lại các yếu tố liên ngành đang diễn ra chậm lại Nhiều quốc gia gặp phải điểm ngoặt của Lewis khi đạt đến mức thu nhập trung bình.

Sự chuyển đổi thứ hai liên quan đến việc nâng cấp công nghệ, trong đó tái phân bổ nguồn lực trong ngành trở thành một yếu tố quan trọng ở mức thu nhập trung bình Rajan và Zingales (1998) chỉ ra rằng các lĩnh vực có nhu cầu tài chính bên ngoài tăng trưởng nhanh hơn ở các quốc gia có thị trường tài chính phát triển tốt hơn.

Sự chuyển đổi từ chế độ độc đoán sang chế độ dân chủ là một yếu tố quan trọng đối với các quốc gia đang hướng tới mục tiêu trở thành nước thu nhập cao Trong quá trình này, vai trò của các nhà lãnh đạo tại các quốc gia có thu nhập trung bình trở nên đặc biệt quan trọng.

2.1.3 Khái niệm bẫy thu nhập trung bình

Khi nói đến một quốc gia phát triển, yếu tố như trình độ chuyên môn cao của lực lượng lao động và công nghệ hiện đại thường quan trọng hơn sự may mắn từ nguồn tài nguyên tự nhiên và vị trí địa lý Sự phụ thuộc quá mức vào những lợi thế này có thể dẫn đến phát triển tiêu cực, khiến quốc gia đó mắc kẹt trong ngưỡng thu nhập trung bình Bẫy thu nhập trung bình diễn ra khi các quốc gia có thu nhập trung bình không thể vươn lên thành quốc gia có thu nhập cao, mặc dù đã có thành công trong việc nâng cao mức thu nhập từ thấp lên trung bình Những quốc gia này thường gặp khó khăn trong việc vượt qua rào cản trì trệ và duy trì mức thu nhập bình quân đầu người trong thời gian dài Nguyên nhân chính của bẫy thu nhập trung bình bao gồm sự thiếu năng động trong khu vực kinh tế tư nhân, khả năng cạnh tranh và đổi mới yếu kém, cũng như không đủ năng lực giải quyết các vấn đề phát sinh từ tăng trưởng cao như khoảng cách giàu nghèo và bong bóng bất động sản Giáo sư Trần Văn Thọ (2009) đã minh họa rõ ràng quá trình và giai đoạn của bẫy thu nhập trung bình qua một biểu đồ.

Hình 2.1 Các giai đoạn của nền kinh tế

A - B: Xã hội truyền thống, kém phát triển, phải đối mặt với bẫy nghèo

B - C: Giai đoạn phát triển ban đầu, thoát khỏi bẫy nghèo, phát triển ban đầu của thị trường

C: Mức thu nhập trung bình

C - D: Tiếp tục tăng trưởng bền vững đến mức thu nhập cao (D)

C - E: đình trệ hoặc tăng trưởng thấp, bẫy thu nhập trung bình

Theo Trần Văn Thọ (2012), để đạt được tiền lương thực chất cao hơn, năng suất lao động cần phải được nâng cao từ điểm C Đồng thời, chất lượng lao động cũng phải cải thiện để chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ lao động giản đơn sang công nghiệp có tay nghề cao Giáo dục trong giai đoạn này đóng vai trò quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng và hiệu quả Tuy nhiên, nếu không thể tiến lên điểm D, việc chuyển sang điểm E cho thấy nền kinh tế sẽ gặp khó khăn, dẫn đến tình trạng tăng trưởng thấp hoặc không tăng trong thời gian dài, rơi vào bẫy thu nhập trung bình.

Tác giả Garrett (2004) nhấn mạnh tầm quan trọng của tiến bộ công nghệ và những thách thức mà toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại đặt ra cho các nước có thu nhập trung bình trong việc phát triển chuỗi giá trị Các đặc điểm cấu trúc của nền kinh tế được coi là yếu tố then chốt thúc đẩy tăng trưởng năng suất tổng yếu tố, và khi các nước này chuyển đổi cơ cấu, họ có thể thu được lợi ích ban đầu đáng kể.

Thời gian chuyển đổi lực lượng lao động từ nông nghiệp năng suất thấp sang sản xuất và dịch vụ năng suất cao đã diễn ra, tuy nhiên, cần tìm kiếm các nguồn tăng trưởng mới để đảm bảo sự phát triển bền vững.

Kenichi Ohno (2009) nhấn mạnh tầm quan trọng của các nước thu nhập trung bình trong việc nâng cao chuỗi giá trị, đồng thời mô tả bẫy thu nhập trung bình là sự phụ thuộc vào các chiến lược tăng trưởng có giới hạn, như khai thác tài nguyên thiên nhiên hoặc dòng vốn FDI Ông khuyến nghị áp dụng chính sách công nghiệp chủ động, với sự tham gia của các nhóm chính phủ có chuyên môn trong lĩnh vực khoa học và kỹ thuật, cùng với các liên minh chiến lược nhằm thúc đẩy kinh doanh Tác giả đã minh họa bẫy thu nhập trung bình qua hình 2.2 và cung cấp một mô hình trực quan về các giai đoạn công nghiệp hóa của Hàn Quốc và các quốc gia châu Á khác, chỉ ra rằng hầu hết các quốc gia châu Á đều có dấu hiệu hoặc thực sự đã rơi vào bẫy thu nhập trung bình, chủ yếu ở giai đoạn hai.

Hình 2.2 Mô tả về bẫy thu nhập trung bình

Sản xuất giản đơn dưới sự hướng dẫn của nước ngoài

Giai đoạn 3 Làm chủ công nghệ & quản lý, có khả năng sản xuất hàng chất lượng cao

Trần thuỷ tinh vô hình

Nội địa hoá công nghệ

Giai đoạn 4 Đủ năng lực sáng chế & thiết kế, đứng đầu thế giới

Giai đoạn 2 Công nghiệp phụ trợ hình thành, những vẫn cần nước ngoài hướng dẫn

Theo giáo sư Kenichi Ohno (2009), bẫy thu nhập trung bình được ví như "trần thủy tinh vô hình" cản trở sự phát triển của các quốc gia từ giai đoạn thứ hai đến giai đoạn thứ ba Ẩn dụ này thể hiện rằng mặc dù trần thủy tinh trong suốt, nhưng nó là một rào cản lớn đối với sự phát triển kinh tế Kenichi phân chia quá trình phát triển thành bốn giai đoạn, bắt đầu với giai đoạn 1, nơi có sự gia tăng mạnh mẽ của FDI, công nghệ tiên tiến được thiết lập, và sản xuất cũng như tiếp thị được định hướng bởi quốc gia Trong giai đoạn này, nguyên liệu thô và các thành phần quan trọng phải được nhập khẩu, trong khi nguồn lực nội địa chủ yếu là lao động tay nghề thấp và cao, tạo ra việc làm cho người nghèo nhưng giá trị nội tại lại thấp Hiện nay, Việt Nam đang ở giai đoạn này và đã bộc lộ những dấu hiệu rơi vào bẫy thu nhập trung bình.

Giai đoạn 2 của quá trình tích lũy và sản xuất FDI mở rộng cung cấp nền tảng cho sự phát triển kinh tế trong nước Trong giai đoạn này, ngành công nghiệp lắp ráp trở thành một lợi thế quan trọng, với mối liên kết chặt chẽ giữa các nhà lắp ráp và nhà cung cấp Sự phát triển của ngành công nghiệp được thúc đẩy bởi các nguồn lực nội địa, mặc dù sản xuất cơ bản vẫn chịu sự quản lý và hướng dẫn từ nước ngoài Thái Lan và Malaysia đã thành công trong việc đạt được giai đoạn này.

Giai đoạn ba tập trung vào nội địa hóa kỹ năng và kiến thức thông qua phát triển nguồn lực, bắt đầu từ việc thay thế lao động nước ngoài bằng nguồn lực lao động trong nước ở mọi giai đoạn sản xuất Ngoài ra, các nguồn lực xuất khẩu như quản lý, công nghệ, thiết kế, vận hành nhà máy, hậu cần, quản lý chất lượng và tiếp thị cũng là những thách thức lớn cho nền kinh tế Khi mức độ phụ thuộc vào nước ngoài giảm, giá trị nội tại gia tăng mạnh mẽ, giúp nền kinh tế trở thành một nhà xuất khẩu năng động các sản phẩm chất lượng cao và cạnh tranh hiệu quả với các đối thủ toàn cầu trong bối cảnh công nghiệp đang thay đổi liên tục Hiện nay, Hàn Quốc và Đài Loan đang ở giai đoạn này.

Các biểu hiện của quốc gia rơi vào bẫy thu nhập trung bình

Chuyển từ quốc gia có thu nhập trung bình sang quốc gia có thu nhập cao là một quá trình phức tạp và không thể thực hiện trong thời gian ngắn Quá trình này cần diễn ra từ từ, từ thu nhập trung bình thấp lên thu nhập trung bình cao, và cuối cùng là thu nhập cao Nhiều quốc gia đã rơi vào tình trạng trì trệ trong mức thu nhập trung bình, trong khi một số khác đã thành công và có triển vọng trở thành quốc gia có thu nhập cao Nghiên cứu cho thấy có nhiều nguyên nhân khiến một số quốc gia không thể vượt qua giai đoạn này, trong đó Trần Văn Thọ (2009) chỉ ra rằng các quốc gia có thu nhập trung bình đang mất dần lợi thế cạnh tranh trong các ngành thâm dụng lao động và thiếu hụt trong các ngành công nghiệp đòi hỏi kỹ năng cao Do đó, việc thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình là rất cần thiết, và các quốc gia mắc kẹt trong bẫy này thường có những đặc điểm chung.

• Đánh mất lợi thế lao động chi phí thấp và gặp khó khăn trong việc thích ứng công nghệ cao

• Tỷ lệ đầu tư thấp và tăng trưởng sản xuất thấp

• Đa dạng hóa công nghiệp còn hạn chế

• Điều kiện thị trường lao động kém

Các quốc gia mắc bẫy thu nhập trung bình thường gặp tình trạng tăng trưởng chậm, năng suất lao động thấp và thiếu sự chuyển dịch cơ cấu.

Tăng trưởng kinh tế luôn là kỳ vọng hàng đầu của mỗi quốc gia, đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển bền vững Khi một nền kinh tế ghi nhận mức tăng trưởng chậm, điều này có thể dẫn đến nhiều hệ lụy nghiêm trọng Nghiên cứu về bẫy thu nhập trung bình cho thấy, tăng trưởng chậm là dấu hiệu rõ rệt nhất của vấn đề này, đặc biệt ở các nước thu nhập trung bình Sau khi thoát khỏi nhóm thu nhập thấp, nhiều quốc gia lại rơi vào tình trạng trì trệ trong nhóm thu nhập trung bình Nguyên nhân chính bao gồm sự thỏa mãn khi sản xuất và xuất khẩu đạt kết quả tốt, cùng với sự xuất hiện của công nghệ hiện đại mới, khiến việc thích ứng trở nên khó khăn và làm chậm lại quá trình tăng trưởng kinh tế.

Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là chỉ số quan trọng để đánh giá sự tăng trưởng kinh tế Sự tăng trưởng chậm chạp của một quốc gia thường liên quan đến sự giảm tốc của GDP Nhiều quốc gia mắc bẫy thu nhập trung bình gặp khó khăn trong việc tăng trưởng GDP do sự suy giảm năng suất yếu tố tổng hợp (TFP).

2.2.2 Năng suất lao động thấp

Năng suất lao động là sản lượng kinh tế thực tế trên mỗi giờ lao động, và tăng trưởng năng suất được đo bằng sự thay đổi này trong một khoảng thời gian xác định Cần phân biệt năng suất lao động với năng suất của nhân viên, mà chỉ đo lường sản lượng của một cá nhân Khi năng suất cao, kết quả thường tích cực, trong khi năng suất thấp có thể dẫn đến trì trệ trong công ty và ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế Các quốc gia rơi vào bẫy thu nhập trung bình cần chú ý đến năng suất thấp, vì đây là yếu tố quan trọng quyết định khả năng đạt được mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập cao trong tương lai.

Năng suất lao động thấp có thể dẫn đến một thị trường lao động kém năng động, với lực lượng lao động chủ yếu có chất lượng thấp Điều này tạo ra khó khăn cho các ngành yêu cầu lao động chất lượng cao như công nghệ thông tin, dịch vụ tài chính, ngân hàng và bảo hiểm, khi nguồn nhân lực có kỹ năng trong các lĩnh vực hiện đại như công nghệ cao, phân tích dữ liệu và công nghệ sinh học còn yếu hoặc không đủ Khi các nhà đầu tư nước ngoài muốn đầu tư và sử dụng nguồn nhân lực trong nước để giảm chi phí, họ thường không thể tìm được lao động phù hợp và buộc phải thuê các chuyên gia, đặc biệt là quản lý cấp cao từ nước ngoài, với chi phí cao, điều này không khuyến khích đầu tư nước ngoài vào thị trường lao động nội địa.

2.2.3 Thiếu hụt chuyển dịch cơ cấu

Cấu trúc kinh tế đang thay đổi được coi là lợi thế cạnh tranh quan trọng, khi lao động di chuyển từ khu vực truyền thống sang khu vực hiện đại với năng suất cao Sự chuyển dịch này có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đáng kể, nhưng nếu không được quản lý tốt, có thể dẫn đến thu hẹp hệ thống công nghiệp, đặc biệt ở khu vực MENA, nơi lợi thế so sánh vẫn còn tồn tại McMillan và Rodrick (2011) cho rằng sự chuyển đổi này có thể bị hạn chế ở các nước giàu tài nguyên, nơi xuất khẩu tài nguyên vẫn chiếm ưu thế trong bối cảnh toàn cầu hóa Các quốc gia trong bẫy thu nhập trung bình, như một số nước MENA, gặp khó khăn trong việc cạnh tranh với các nền kinh tế thu nhập thấp và tiên tiến, dẫn đến mô hình thương mại bị phân biệt Nghiên cứu của Felipe, Galope và Kumar (2017) cho thấy sự khác biệt trong năng lực sản xuất giữa các quốc gia này, trong khi Kumagai (2015) chỉ ra rằng Malaysia đang bị kẹt trong bẫy thu nhập trung bình với mô hình xuất khẩu tập trung vào hàng hóa cơ bản Việc chuyển từ ngành công nghiệp thâm dụng lao động sang ngành thâm dụng vốn đòi hỏi kỹ năng cao hơn và sự đa dạng hóa trong các ngành công nghiệp là rất cần thiết để phát triển bền vững.

Sự thiếu hụt trong thay đổi cơ cấu kinh tế chủ yếu xuất phát từ việc thiếu kỹ năng và kỹ thuật cần thiết để chuyển đổi từ sản xuất nguyên liệu thô sang việc áp dụng máy móc công nghệ cao.

Nguyên nhân rơi vào tinh trạng bẫy thu nhập trung bình

2.3.1 Sự suy giảm hiệu quả vốn đầu tư

Hệ số ICOR, hay hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, thể hiện mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng Đây là tỷ lệ giữa vốn đầu tư và tốc độ tăng trưởng, cho biết cần bao nhiêu đồng vốn đầu tư để đạt được một đồng tăng trưởng Hệ số ICOR thấp cho thấy đầu tư hiệu quả cao, trong khi hệ số cao chỉ ra hiệu quả đầu tư kém.

Hệ số ICOR được tính bằng công thức:

ICOR: Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư

V1: Vốn đầu tư thực hiện của năm nghiên cứu

G1: Tổng sản phẩm trong nước của năm nghiên cứu

Mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế thường diễn ra theo chiều thuận, tức là đầu tư cao sẽ dẫn đến tăng trưởng lớn Tuy nhiên, có những trường hợp mà hiệu quả của vốn đầu tư giảm sút, dẫn đến tình trạng đầu tư lớn nhưng không mang lại hiệu quả kinh tế như mong đợi.

Quá trình phát triển kinh tế khởi đầu khi có đủ đầu tư để đạt được mức tăng trưởng vượt trội so với mức tăng dân số, từ đó duy trì sự phát triển liên tục.

Vào năm 1961, sử gia kinh tế Rostow đã phát triển thuyết “giai đoạn” phát triển kinh tế, trong đó giai đoạn “cất cánh” được coi là điểm khởi đầu quan trọng Mặc dù thuật ngữ “cất cánh” đã trở nên phổ biến, Rostow cho rằng quá trình phát triển kinh tế sẽ tiếp tục diễn ra sau giai đoạn này, cho thấy rằng từ “cất cánh” không hoàn toàn phản ánh thực tế lịch sử Một nhà kinh tế khác đã gọi giai đoạn này là “sự đâm chồi”, biểu hiện cho những dấu hiệu tăng trưởng ban đầu Điều này cũng lý giải vì sao đầu tư từ bên ngoài thường thiếu hụt Chất lượng phát triển liên quan đến việc đầu tư hiệu quả và năng suất lao động, được thể hiện qua chỉ báo ICOR Tỷ lệ sản lượng vốn gia tăng (ICOR) đánh giá lượng vốn đầu tư cần thiết để tạo ra một đơn vị sản xuất tiếp theo; giá trị ICOR cao hơn thường không được ưa chuộng vì cho thấy sự không hiệu quả trong sản xuất của quốc gia Biện pháp này chủ yếu được sử dụng để xác định mức độ hiệu quả sản xuất của các quốc gia.

2.3.2 Tình trạng một nền kinh tế gia công tiếp tục hiện hữu

Nền kinh tế gia công tập trung vào xuất khẩu, dựa vào nhu cầu nước ngoài để phát triển nông nghiệp và công nghiệp nội địa nhằm sản xuất nguyên liệu xuất khẩu Với sự chú trọng vào xuất khẩu hơn nhập khẩu, nền kinh tế này tạo ra vốn và dự trữ ngoại tệ lớn Tuy nhiên, việc duy trì mô hình này có thể gây khó khăn cho sự phát triển bứt phá Một số quốc gia sở hữu tài nguyên thiên nhiên dồi dào, nhưng mô hình kinh tế gia công có thể làm chậm sự tăng trưởng Việt Nam, mặc dù đã chuyển sang nhóm thu nhập trung bình, vẫn gặp khó khăn trong việc thoát khỏi mức này để tiến lên.

Nền kinh tế gia công có những tác động tiêu cực đến sự phát triển do thiếu công nghệ mới, dễ dàng trở thành nơi tiếp nhận công nghệ lạc hậu Quốc gia này thường nhập khẩu máy móc dùng một lần, dẫn đến ô nhiễm và chi phí môi trường cao Hơn nữa, nền kinh tế gia công yêu cầu đầu tư lớn vào cơ sở hạ tầng, không chỉ bao gồm máy móc và nhà máy mà còn cần lượng lớn tài nguyên để phục vụ cho sản xuất và phân phối Do đó, sản phẩm của nền kinh tế gia công chủ yếu được sản xuất bằng sức lao động thay vì sử dụng máy móc để nâng cao năng suất.

Sự tồn tại của nền kinh tế gia công gây ra tác động tiêu cực và cản trở sự phát triển của quốc gia, đặc biệt là trong việc thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình Để khắc phục tình trạng này, việc áp dụng công nghệ mới và liên tục cập nhật, nâng cấp công nghệ hiện tại là giải pháp cần thiết.

BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA CÁC QUỐC GIA TRÁNH HOẶC THOÁT BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH THÀNH CÔNG

Kinh nghiệm của Hàn Quốc

3.1.1 Quá trình Hàn Quốc thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình

Sau chiến tranh Triều Tiên, Hàn Quốc đã tận dụng cơ hội để phát triển kinh tế, đặc biệt trong những năm 1960, mặc dù vẫn chủ yếu dựa vào nông nghiệp và chưa áp dụng công nghệ mới hiệu quả Quốc gia này được biết đến với tốc độ tăng trưởng cao nhờ vào việc chuyển đổi lực lượng lao động từ nông nghiệp sang xuất khẩu năng suất cao, duy trì sự phát triển này trong hơn 25 năm Tuy nhiên, vào năm 1960, Hàn Quốc bắt đầu rơi vào bẫy thu nhập trung bình, nhưng đến năm 1980, quốc gia này đã phục hồi và tiếp tục tăng trưởng Đến năm 2000, Hàn Quốc đã hoàn toàn thoát khỏi bẫy thu nhập và trở thành một nước có thu nhập cao.

Biểu đồ 3.1: GDP bình quân của Hàn Quốc giai đoạn 1960-2000

Từ những năm 1960 đến trước năm 1995, Hàn Quốc đã trải qua một quá trình phát triển ấn tượng, với GDP bình quân có xu hướng tăng liên tục Đặc biệt, sau năm 1963, Hàn Quốc đã vươn lên mạnh mẽ, từ mức thu nhập trung bình thấp năm 1969 đến mức thu nhập cao vào năm 1995 Trong hơn ba thập kỷ, quốc gia này đã thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, với tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 1962-1996 đạt 8,9% GDP của Hàn Quốc đã tăng từ 2,75 tỷ USD năm 1962 lên 603,4 tỷ USD năm 1996, đánh dấu giai đoạn phát triển rực rỡ nhất Kể từ năm 1996, mặc dù phải đối mặt với hai cuộc khủng hoảng kinh tế lớn, Hàn Quốc vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng trên 4% mỗi năm, chỉ có hai năm 1980 và 1998 là nền kinh tế trải qua suy thoái.

Hàn Quốc đã thoát khỏi mức thu nhập trung bình chỉ trong 25 năm (1970-1995), với thu nhập bình quân đầu người tăng từ 2.500 USD lên 12.600 USD, theo phân tích của Cơ quan nghiên cứu McKinsey Trong khi đó, Đức, Pháp và Mỹ mất lần lượt 80, 89 và 97 năm để đạt được điều tương tự Quốc gia này đã thực hiện một chiến lược hiệu quả để thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, với tăng trưởng nhanh và bền vững từ 1960 đến 1996, cùng với sự chuyển đổi mạnh mẽ trong cấu trúc kinh tế Từ một nền kinh tế nông nghiệp, Hàn Quốc đã tiến tới một nền kinh tế công nghiệp hiện đại Mặc dù gặp khó khăn ở ngưỡng thu nhập trung bình cao trong hơn 15 năm, từ giữa thập kỷ 90 đến năm 2000, Hàn Quốc đã thành công trong việc đạt mức thu nhập cao và hoàn toàn thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình.

Biểu đồ 3.2: GDP bình quân đầu người của Hàn Quốc trong giai đoạn 2009-2017

Hàn Quốc đã nổi bật như một trong những nền kinh tế hàng đầu châu Á, với GDP bình quân đầu người đạt khoảng 20.000 USD vào năm 2007 và tăng lên 25.000 USD vào năm 2017 Quốc gia này cũng ghi nhận chỉ số phát triển con người cao thứ hai châu Á, chỉ sau Nhật Bản Giai đoạn gần đây, Hàn Quốc đã tiến bộ vượt bậc, phát triển mạnh mẽ và đạt được nhiều thành tựu đáng kể.

3.1.2 Giải pháp thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình

Vật lộn hơn 25 năm để thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, trong đó khoảng

Sau 15 năm đối mặt với tình trạng kẹt ở ngưỡng thu nhập trung bình cao, Hàn Quốc đã triển khai nhiều giải pháp nhằm cải thiện tình hình kinh tế Những biện pháp này tập trung vào việc nâng cao dân trí và tăng cường khả năng áp dụng công nghệ cao trong sản xuất và xuất khẩu, góp phần đưa đất nước đạt được thành công như hiện nay.

Hàn Quốc đã chú trọng vào công nghiệp hóa xuất khẩu, với nghiên cứu của Byung-Nak Song (2002) cho thấy rằng trong giai đoạn 1963 đến 1973, xuất khẩu đóng góp 33% vào lĩnh vực sản xuất, trong khi nhu cầu trong nước chỉ chiếm 31%.

Từ năm 1980 đến 1983, xuất khẩu đã đóng góp 23,9% vào sản lượng công nghiệp chế tạo, vượt qua mức đóng góp của đầu tư là 19,8% Bên cạnh đó, lao động là nguồn lực quan trọng cho sự tăng trưởng của Hàn Quốc trong cả hai giai đoạn 1963-1983.

Trong giai đoạn 1973 và 1973-1986, sự tăng trưởng năng suất đóng góp tương đối ít vào sự gia tăng GDP của Hàn Quốc Tuy nhiên, vai trò của năng suất ngày càng trở nên quan trọng khi nền kinh tế Hàn Quốc tiếp tục phát triển Các doanh nghiệp Hàn Quốc đã tập trung vào chiến lược xuất khẩu công nghiệp hóa, và sau đó áp dụng mô hình ELI (công nghiệp hóa dẫn đầu xuất khẩu) Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Byung-Nak Song (2002) và các tính toán từ cơ quan nghiên cứu McKinsey.

Tăng trưởng kinh tế của Hàn Quốc giai đoạn 1970-1982 chủ yếu nhờ vào lao động và vốn, với tỷ lệ đóng góp lần lượt là 31% và 75% Tuy nhiên, vai trò của những yếu tố này đã giảm dần, nhường chỗ cho sự gia tăng của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) Điều này cho thấy rằng, trong giai đoạn đầu phát triển, Hàn Quốc phụ thuộc vào xuất khẩu và các yếu tố đầu vào, trong khi giai đoạn sau, công nghệ trở thành yếu tố đóng góp ngày càng quan trọng Chính sách định hướng xuất khẩu và đầu tư vào giáo dục cũng như khoa học công nghệ đã góp phần lớn vào thành tựu tăng trưởng của quốc gia này.

Hàn Quốc đã chú trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua dự án "Phong trào làng mới", nhằm giảm chênh lệch giữa nông thôn và thành thị, bắt đầu từ những năm 1970 dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Park Chung-hee Dự án này khuyến khích cộng đồng tham gia vào phát triển với các khẩu hiệu “siêng năng, tự giúp đỡ và cộng tác”, tập trung vào cải thiện môi trường sống và cơ sở hạ tầng nông thôn Kết quả là thu nhập của nông dân tăng trưởng mạnh mẽ, và tỷ lệ đô thị hóa đạt hơn 70% vào những năm 1990, trong khi dân số nông thôn giảm xuống dưới 10% Ngoài ra, chính phủ cũng chú trọng đến việc bảo vệ những người thu nhập thấp trong mạng lưới an toàn xã hội để giảm nghèo Song song với việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, Hàn Quốc đã cải thiện trình độ khoa học công nghệ, với tỷ lệ nhập học giáo dục bậc cao sau trung học tăng gấp đôi từ 14,7% năm 1980 lên 34,1% năm 1985, vượt xa so với các nước đang phát triển khác Giai đoạn 1986 - 1990, số lượng sinh viên đại học cũng tăng gấp đôi, phản ánh sự gia tăng tích cực về trình độ học vấn của lao động Hàn Quốc.

Biểu đồ 3.3: Tỷ trọng trình độ người lao động giai đoạn 1980-1995

Nguồn: McKinsey Seoul Office, 1998, Productivity-led Growth for Korea

Theo nghiên cứu của ủy ban McKinsey, Hàn Quốc có tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp ngành kỹ thuật cao hơn so với ngành khoa học xã hội, với 35% vào năm 1999, trong khi các nước thu nhập trung bình khác như Malaysia, Thái Lan và Indonesia có tỷ lệ thấp hơn Giáo dục bậc cao đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển bền vững của Hàn Quốc, nơi mà giáo dục nghề cũng được chú trọng, với khoảng 38% - 41% lao động được đào tạo từ các trường dạy nghề Giai đoạn 1980 - 1995, lao động có trình độ cao hơn đã thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp điện tử và công nghệ cao Hàn Quốc cũng xây dựng thành công hệ thống đào tạo nghề và kỹ thuật (TVET) với nhiều trường dạy nghề và trung tâm đào tạo việc làm Đặc biệt, Hàn Quốc nổi bật với nền khoa học công nghệ hiện đại, đứng thứ năm thế giới về số lượng bằng sáng chế, chủ yếu trong lĩnh vực điện tử, ICT và phần mềm.

Vai trò của Chính phủ Hàn Quốc trong việc thực hiện các chính sách vĩ mô đã mang lại kết quả tích cực, đặc biệt trong việc phục hồi nền kinh tế sau khủng hoảng vào cuối những năm 1970 Các chính sách này được thiết kế để đối phó với nhiều thách thức như khủng hoảng dầu mỏ, lãi suất tăng cao, và bất ổn chính trị, đồng thời nhằm giảm lạm phát vượt tầm kiểm soát và khắc phục thâm hụt cán cân thanh toán Chính phủ đã liên tục điều chỉnh các mục tiêu kinh tế để phù hợp với sự chuyển dịch trong cơ cấu kinh tế, gia tăng thu nhập và thay đổi trong các vấn đề kinh tế ưu tiên, điều này được thể hiện qua 7 kế hoạch kinh tế 5 năm từ 1961 đến 1996.

Trong 5 năm qua, các kế hoạch phát triển của Hàn Quốc đã thể hiện sự linh hoạt trong việc kết hợp giữa thị trường và định hướng chính sách Chính phủ Hàn Quốc nổi bật với khả năng điều tiết nền kinh tế mạnh mẽ, áp dụng các biện pháp can thiệp khi thị trường không thể tự vận hành để đạt được mục tiêu Ngược lại, khi thị trường hoạt động hiệu quả, chính phủ giảm can thiệp và thậm chí tiến hành tư nhân hóa các đơn vị nhà nước.

Trong giai đoạn 1962-1996, Chính phủ Hàn Quốc đã điều hành nền kinh tế dựa trên triết lý phát triển thông qua công nghiệp hóa dưới sự kiểm soát chặt chẽ Chính phủ áp dụng các chính sách can thiệp trực tiếp như kiểm soát giá, đầu tư vào các ngành công nghiệp ưu tiên như thép và cung cấp hỗ trợ tài chính Các vấn đề như tạo việc làm, thanh toán nợ nước ngoài và thúc đẩy xuất khẩu được đặt lên hàng đầu trong chính sách kinh tế Mặc dù sự công bằng trong phân phối thu nhập và phát triển công nghiệp giữa các vùng không được ưu tiên, nhưng Chính phủ tin rằng tăng trưởng sẽ giải quyết những vấn đề này sau này Nhờ áp dụng triết lý này, Hàn Quốc đã đạt được nhiều mục tiêu trong các kế hoạch phát triển kinh tế Sự phát triển mạnh mẽ còn đến từ quyết định đúng đắn trong việc theo đuổi chiến lược hướng ngoại dựa vào xuất khẩu công nghiệp, giúp Hàn Quốc đồng thời hiện đại hóa, công nghiệp hóa và quốc tế hóa.

Hàn Quốc, với tài nguyên hạn chế và thị trường nội địa nhỏ, không thể áp dụng chiến lược phát triển dựa vào khai thác tài nguyên hay thay thế nhập khẩu như nhiều quốc gia đang phát triển khác Để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu thực phẩm và nguyên liệu, Hàn Quốc cần xuất khẩu hàng chế tạo để thu ngoại tệ Chính phủ Hàn Quốc đã nhất quán trong việc hoạch định chính sách với mục tiêu nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế, từ những ngày đầu thực hiện chiến lược định hướng xuất khẩu nhằm củng cố vị thế cạnh tranh của đất nước trên thị trường toàn cầu.

Kinh nghiệm của Singapore

3.2.1 Quá trình Singapore thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình

Singapore nổi bật với sự phát triển ấn tượng của Châu Á, nhờ vào những chính sách sáng tạo Quốc gia này đã thành công trong việc tránh bẫy thu nhập trung bình và đạt được tăng trưởng mạnh mẽ Đầu tư vào con người, đặc biệt là lực lượng lao động, là yếu tố then chốt góp phần vào thành công rực rỡ của Singapore.

Từ năm 1965, Singapore đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển, bắt đầu với công nghiệp hóa (1960-1970), tiếp theo là tái cấu trúc nền kinh tế (1970-1980) và phát triển công nghệ cao để xây dựng nền kinh tế tri thức từ năm 1990 đến nay Trong giai đoạn 1960-1980, Singapore gặp nhiều khó khăn và rơi vào bẫy thu nhập trung bình, đặc biệt sau khi tách khỏi Malaysia, khi GDP chỉ đạt 500 USD/người Thời kỳ này chứng kiến sự trì trệ kéo dài, với sự tăng trưởng chậm chạp của GDP và xã hội Tuy nhiên, nhờ vào quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, đến năm 1980, Singapore đã hoàn toàn thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình.

Biểu đồ 3.4: GDP bình quân đầu người của Singapore trong giai đoạn 1962-1980

Từ năm 1980, Singapore đã chú trọng đầu tư phát triển xã hội với tầng lớp trung lưu chiếm đa số, nhờ vào việc đầu tư mạnh mẽ vào giáo dục Giáo dục đại học và đào tạo nghề đã giúp người dân nâng cao tay nghề và chuyên môn, mở ra nhiều cơ hội việc làm và gia tăng thu nhập Những cá nhân này đã trở thành lực lượng nòng cốt cho sự hình thành tầng lớp trung lưu, góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng GDP của quốc gia Từ 2008 đến 2017, GDP bình quân đầu người của Singapore tăng từ 42.650 USD lên 55.235 USD, giúp quốc gia này trở thành một trong những nước có thu nhập cao Mặc dù chịu tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu vào năm 2009 với GDP bình quân đầu người giảm xuống còn 41.133 USD, Singapore đã nhanh chóng phục hồi và vào năm 2011, GDP bình quân đầu người chính thức vượt mốc 50.000 USD.

3.2.2 Giải pháp thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình

Giống như nhiều quốc gia đang phát triển khác, Singapore từng rơi vào giai đoạn trì trệ kinh tế và mắc phải bẫy thu nhập trung bình Để thoát khỏi tình trạng này, Singapore đã áp dụng chương trình tài năng của người Hồi giáo, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng Dự án này tập trung vào việc đào tạo con người, coi đây là yếu tố then chốt để phát triển bền vững và tránh rơi vào bẫy thu nhập trung bình.

Thứ nhất, chú trọng giáo dục đặc biệt là giáo dục bậc cao Từ trước những năm

Từ năm 1980, Singapore đã phát triển một xã hội trung lưu đa số, với giáo dục là yếu tố then chốt trong thành công, được biết đến qua "Chương trình nhân tài" Chính phủ Singapore ưu tiên giáo dục, đầu tư ít nhất 12% ngân sách nhà nước hàng năm vào lĩnh vực này, có khi lên tới 35%, đứng thứ hai trong chi tiêu chính phủ Các cấp giáo dục phổ thông, trung học và đại học chủ yếu được nhà nước hỗ trợ, với sự chú trọng vào giáo dục cơ bản, giáo dục tiên tiến và đào tạo nghề Điều này khuyến khích tư duy sáng tạo và phê phán của học sinh, cho phép các trường tự chủ xây dựng chương trình giảng dạy Qua giáo dục đại học và đào tạo nghề, người Singapore trở nên khéo léo và chuyên nghiệp hơn, từ đó nâng cao cơ hội việc làm và thu nhập, góp phần làm tăng GDP bình quân đầu người của đất nước.

Chính phủ Singapore đã đầu tư mạnh mẽ vào giáo dục, với mức chiếm khoảng 3% GDP trong những năm qua, nhằm nâng cao chất lượng và phát triển hệ thống giáo dục quốc gia.

Từ năm 1990, chi tiêu cho giáo dục tại Singapore đã tăng từ 3,6% lên 5% trong những thập niên đầu thế kỷ XXI, với ngân sách giáo dục tài khóa 2007 – 2008 là 6,796 tỷ SGD, 2008 – 2009 là 8,22 tỷ SGD và 2009 – 2010 là 8,7 tỷ SGD Để phát triển nguồn nhân lực phục vụ kinh tế, Singapore đã xây dựng hệ thống trường cao đẳng nghề và đại học lớn, đồng thời khuyến khích doanh nghiệp tham gia đào tạo Quốc gia này cũng nổi bật với chính sách thu hút nhân lực chất lượng cao, coi việc tuyển dụng nhân tài là ưu tiên hàng đầu Chính phủ đã áp dụng chính sách tuyển mộ nhân tài nước ngoài để bù đắp thiếu hụt lao động bản địa, tích cực tuyển dụng nguồn nhân lực có kinh nghiệm từ nước ngoài và hỗ trợ họ cư trú tại Singapore Chính sách miễn thị thực cho du học sinh quốc tế, chi phí học tập hợp lý và môi trường học hiện đại đã tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên quốc tế Singapore đã xây dựng thương hiệu quốc gia từ việc trọng dụng nhân tài, tạo động lực thu hút và giữ chân người tài phục vụ cho sự phát triển đất nước, trở thành hình mẫu cho nhiều quốc gia khác.

Singapore, mặc dù có diện tích nhỏ và tài nguyên thiên nhiên hạn chế, đã đạt GDP bình quân đầu người 59.711 USD vào năm 2011 nhờ vào chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao Chính phủ Singapore coi giáo dục và đào tạo là chìa khóa để củng cố nhân lực và phát triển kinh tế, với quan điểm rằng thắng trong giáo dục sẽ dẫn đến thắng trong phát triển kinh tế Để thu hút nhân tài từ nước ngoài, chính phủ đã thực hiện các chính sách ưu đãi nhằm tạo điều kiện cho các chuyên gia nước ngoài làm việc và sinh sống tại đây Những đóng góp của họ, cùng với các biện pháp phát triển kinh tế như giáo dục, thương mại, đầu tư và đổi mới, đã giúp tăng thu nhập và giảm khoảng cách giàu nghèo, đưa Singapore vào nhóm thu nhập cao với sự hỗ trợ từ tầng lớp trung lưu ổn định.

Singapore đã thành công trong việc thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình nhờ vào chiến lược giáo dục vượt trội Phương án này không chỉ giúp đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao mà còn thu hút thêm nhiều nhân tài, đóng góp vào sự phát triển kinh tế bền vững của quốc gia.

Kinh nghiệm Nhật Bản

3.3.1 Quá trình thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình

Nhật Bản đã chuyển từ quốc gia có thu nhập trung bình thấp sang quốc gia có thu nhập cao từ những năm 1970 đến 1986, với sự thay đổi đáng kể về lợi thế so sánh và cấu trúc kinh tế Sau cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị và quân sự lớn sau năm 1929, đặc biệt là thất bại trong Thế chiến II, nền kinh tế Nhật Bản đã phục hồi nhanh chóng với tốc độ tăng trưởng GDP thực tế trung bình hàng năm đạt 9,9% Tuy nhiên, sau khi vượt qua bẫy thu nhập trung bình, Nhật Bản đã đạt được sự tăng trưởng cao thông qua việc nâng cấp công nghệ và tái phân bổ nguồn lực Từ giữa những năm 1950 đến đầu những năm 1970, Nhật Bản duy trì tốc độ tăng trưởng khoảng 10% mỗi năm, mặc dù sau cú sốc dầu, tăng trưởng chậm lại nhưng vẫn duy trì ở mức 4-5% cho đến đầu những năm 1990 Thập kỷ 1970 đánh dấu một kỷ nguyên quan trọng với sự thay đổi cơ cấu, khi tỷ lệ công nhân trong ngành nông nghiệp giảm mạnh, trong khi ngành công nghiệp máy móc phát triển mạnh mẽ, thay thế cho các ngành công nghiệp dệt may và khai thác trước kia.

Biểu đồ 3.5: GDP bình quân đầu người của Nhật Bản trong giai đoạn 1970-1986

Sự tăng trưởng kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh được đặc trưng bởi sự chuyển mình của các ngành công nghiệp hàng đầu, cho thấy Nhật Bản là một trong số ít nền kinh tế thành công thoát khỏi bẫy thu nhập thấp và trung bình Nền kinh tế này đã trải qua ba giai đoạn phát triển tuần tự theo mô hình nâng cấp công nghiệp tương tự như Trung Quốc, bắt đầu từ giai đoạn công nghiệp hóa.

1970 1974 1978 1982 1986 nguyên sinh nông thôn, giai đoạn sản xuất hàng loạt các mặt hàng công nghiệp nhẹ, và giai đoạn sản xuất hàng loạt các mặt hàng công nghiệp nặng

3.3.2 Giải pháp Nhật Bản để thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình

Nhật Bản, được biết đến như “Con hổ của Châu Á”, nổi bật với sự phát triển kinh tế và cách tiếp cận độc đáo để thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình Khác với Hàn Quốc tập trung vào xuất khẩu và Singapore chú trọng vào nguồn nhân lực, Nhật Bản tập trung nâng cao thu nhập cho người dân thông qua cải thiện chất lượng ngành nghề Vào năm 1960, Thủ tướng Hayato Ikeda đã đưa ra "kế hoạch tăng gấp đôi thu nhập" đầy tham vọng, với mục tiêu tăng gấp đôi thu nhập bình quân đầu người trong vòng 10 năm.

1961, Chính phủ Nhật Bản đã triển khai nhiều chính sách và thu được nhiều kết quả

Nhật Bản đang chuyển các ngành thâm dụng lao động sang các quốc gia có chi phí lao động thấp hơn, đặc biệt là Hàn Quốc, để đối phó với chi phí lao động tăng cao và chủ nghĩa bảo hộ từ Mỹ Sau giai đoạn tăng trưởng nhanh chóng vào cuối những năm 1950 và đầu 1960, Nhật Bản đã phải đối mặt với tình trạng thặng dư lao động giảm và tiền lương tăng Điều này buộc các doanh nghiệp Nhật Bản phải tìm kiếm cơ hội đầu tư ra nước ngoài, chủ yếu thông qua đầu tư trực tiếp và liên doanh, nhằm chuyển dịch các ngành sản xuất nhẹ như dệt may sang Hàn Quốc Sự chuyển đổi này cho phép Nhật Bản tập trung vào các ngành công nghiệp ít thâm dụng lao động và thâm dụng vốn hơn, như ngành công nghiệp nặng.

Cả hai bên đều được hưởng lợi từ việc tăng đầu tư của Nhật Bản vào Hàn Quốc Nhật

Hàn Quốc đã giảm tải các ngành công nghiệp quan trọng nhưng không bền vững trong nước, đồng thời nhận được đầu tư vốn và công nghệ từ Nhật Bản để phát triển các ngành công nghiệp nội địa.

Vào tháng 12 năm 1960, Nhật Bản đã triển khai kế hoạch tăng gấp đôi thu nhập cho người Hồi giáo, do Thủ tướng Hayato Ikeda đề xuất.

Kế hoạch tăng gấp đôi thu nhập bình quân đầu người trong 10 năm của Nhật Bản, bắt đầu từ năm 1961, đã đối mặt với nhiều hoài nghi về khả năng thực hiện Chính phủ đã triển khai nhiều biện pháp như tăng giá nông sản, khuyến khích hiệu quả sản xuất trong nông nghiệp, cắt giảm thuế và hạ lãi suất trong ngành công nghiệp để giảm chi phí sản xuất Ngoài ra, các biện pháp thúc đẩy tự do hóa thương mại và đầu tư vào cơ sở hạ tầng, truyền thông, công nghệ cũng được thực hiện nhằm thu hẹp khoảng cách thu nhập Những năm 1960 được xem là "thập niên vàng" của Nhật Bản khi nền kinh tế phục hồi mạnh mẽ từ hậu quả của Thế chiến II, với tổng sản phẩm quốc dân tăng gấp đôi chỉ sau sáu năm và thu nhập bình quân đầu người cũng tăng gấp đôi sau bảy năm.

Nhật Bản đã thành công trong việc thúc đẩy nền kinh tế thông qua con người, với các biện pháp như giáo dục, thương mại, đầu tư và đổi mới Những chiến lược này không chỉ tăng thu nhập cho người dân mà còn giúp tái cân bằng tài sản xã hội, giảm khoảng cách giàu nghèo Sự hỗ trợ từ tầng lớp trung lưu ổn định và chiếm đa số đã góp phần quan trọng giúp Nhật Bản trở thành một xã hội có mức thu nhập cao.

Kinh nghiệm của Chile

3.4.1 Quá trình Chile thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình

Trong số 101 quốc gia có thu nhập trung bình vào thập niên 1960, chỉ 13 quốc gia đã vươn lên thành nền kinh tế có thu nhập cao gần 50 năm sau, chủ yếu là các nền kinh tế châu Á như Hàn Quốc và Singapore Chỉ có Chile và Uruguay từ Mỹ Latinh lọt vào danh sách này, trong khi phần lớn các quốc gia còn lại vẫn bị kẹt trong nhóm thu nhập trung bình, với một số quốc gia không thay đổi trong nhiều thập kỷ Hiện tại, Chile đang được xếp hạng là quốc gia có tính cạnh tranh cao.

Chile, xếp hạng 33 toàn cầu, là quốc gia cạnh tranh nhất ở Nam Mỹ và nằm trong số những quốc gia có thu nhập cao nhất trên lục địa Mỹ Quốc gia này đã đạt được thành công kinh tế thông qua các cải cách chính trị, giúp kết nối với thị trường toàn cầu một cách hiệu quả Hơn nữa, chiến lược theo hướng thị trường đã thúc đẩy xuất khẩu của Chile và thiết lập các biện pháp ứng phó với khủng hoảng kinh tế, đặc biệt là trong bối cảnh khủng hoảng năm 2008.

Chile, mặc dù không phải là một quốc gia giàu có ở Mỹ Latinh, đã thành công trong việc thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình nhờ vào nền kinh tế thị trường mở và chính sách thương mại thông thoáng Trước năm 1973, thuế nhập khẩu của Chile cao tới 200%, gây cản trở sản xuất và gia tăng buôn lậu Tuy nhiên, từ năm 1995, Chile đã giảm dần thuế nhập khẩu xuống còn 12% và duy trì mức 6% từ năm 2003, với kế hoạch tiếp tục giảm xuống 4% Chính sách thuế nhập khẩu thấp đã giúp giảm buôn lậu và thúc đẩy doanh nghiệp trong nước nâng cao chất lượng sản phẩm để cạnh tranh, mang lại lợi ích cho người tiêu dùng với hàng hóa chất lượng cao và giá cả hợp lý Mặc dù nhiều doanh nghiệp không thể thích nghi và phá sản, chính phủ đã chấp nhận tỷ lệ thất nghiệp cao để đạt được sự phát triển hiện tại Để mở rộng thị trường, Chile đã triển khai ProChile nhằm thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm ra thế giới.

Trong những năm 70, GDP bình quân đầu người của Chile chỉ đạt 400 USD Tuy nhiên, nhờ vào các cải cách kinh tế và mở cửa thị trường, cùng với việc ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA), đến năm 2006, thu nhập quốc dân của người dân Chile đã tăng lên 9.000 USD/người Từ năm 1978 đến 2014, GDP bình quân đầu người của Chile đã tăng từ 1.415 USD lên 14.000 USD Nhờ những nỗ lực này, Chile đã thành công trong việc tránh bẫy thu nhập trung bình và được công nhận là một quốc gia có thu nhập cao.

Biểu đồ 3.6: GDP bình quân đầu người của Chile trong giai đoạn 1993-2014

Từ năm 2008 đến 2016, GDP bình quân đầu người của Chile đã tăng từ 12.588 USD lên 14.958 USD, giúp quốc gia này trở thành một nước có thu nhập trung bình trước khi trải qua suy thoái kinh tế toàn cầu Năm 2009, Chile ghi nhận mức GDP bình quân đầu người thấp nhất, chỉ đạt 12.268 USD.

- giảm 320 USD Mỹ so với năm suy thoái kinh tế toàn cầu Năm 2013 Chile chính thức thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình

3.4.2 Giải pháp thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình

Chile đang đối mặt với bẫy thu nhập trung bình, nhưng thông qua cải cách thị trường và quản lý hiệu quả của chính phủ, quốc gia này đã đạt được nhiều thành tựu Hệ thống hành chính và tư pháp minh bạch, an sinh xã hội hiệu quả, cùng với sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) và thương mại nước ngoài đã giúp Chile trở thành quốc gia đầu tiên ở Nam Mỹ gia nhập Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế Các chỉ số như thu nhập bình quân đầu người, tuổi thọ và tỷ lệ tử vong trẻ em của Chile đang tiệm cận với các nước phát triển Thành công của Chile chủ yếu đến từ sự cân bằng giữa cải cách và kiểm soát kinh tế vĩ mô của chính phủ.

Chính phủ Chile đã thành công trong việc thực hiện các cải cách định hướng thị trường, nhấn mạnh chính sách mở để nâng cấp mô hình phát triển từ những năm 1980 Đất nước này đã chuyển đổi thành công từ nền kinh tế có kiểm soát sang nền kinh tế thị trường, đồng thời hợp nhất tài chính, trở thành một trong những nền kinh tế có thị trường cởi mở nhất ở Mỹ Latinh với hệ thống tài chính tiên tiến.

Vào thứ hai, chính phủ Chile đã tiếp tục thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô phù hợp, giúp kiểm soát tốc độ cải cách và đảm bảo tính liên tục trong chính sách tài khóa và tiền tệ Sự can thiệp của nhà nước đã đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng nền kinh tế quốc gia mạnh mẽ Chile cũng đã thúc đẩy tự do hóa thương mại và ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do với các nền kinh tế lớn trên thế giới, nhằm khuyến khích doanh nghiệp Chile cạnh tranh quốc tế Chính phủ đã giảm thuế để giảm gánh nặng cho doanh nghiệp, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua các chính sách hỗ trợ Năm 2010, Chile đã triển khai nhiều chương trình nhằm hoàn thiện mua sắm công và cải thiện môi trường tài chính cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Chile đã xây dựng một hệ thống chống tham nhũng hiệu quả và thiết lập an sinh xã hội, rút ra bài học từ những vụ tham nhũng trước đây Hệ thống này bao gồm các cơ quan kiểm toán độc lập và chính sách trả lương cao cho công chức và cảnh sát, kèm theo các điều kiện nghiêm ngặt đối với hành vi nhận hối lộ Nhờ vào các chính sách quản trị xã hội hiệu quả, Chile đã đạt được kết quả tích cực, bao gồm sự gia tăng số lượng người có thu nhập trung bình và giảm tỷ lệ người nghèo.

Chile đã thành công trong việc tránh bẫy thu nhập trung bình nhờ vào các chính sách thể chế thông minh và sự kiểm soát hiệu quả nền kinh tế Quốc gia này đã xây dựng chuỗi giá trị xuất khẩu thông qua việc tiếp cận và thâm nhập vào thị trường quốc tế Tuy nhiên, Chile cũng chứng minh rằng thu nhập cao không đảm bảo miễn nhiễm với bẫy thu nhập trung bình Sự tăng trưởng kinh tế bền vững cần có sự ổn định chính trị, chính sách kinh tế lành mạnh, tài khóa cân bằng và cam kết dài hạn từ chính phủ, kết hợp với ngoại giao thương mại hiệu quả Môi trường này tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế và nâng cao giá trị cho các ngành công nghiệp truyền thống.

Kinh nghiệm của Uruguay

3.5.1 Quá trình Uruguay thoát bẫy thu nhập trung bình

Uruguay đã chuyển mình từ một quốc gia có thu nhập trung bình thấp vào những năm 1880 thành một quốc gia có thu nhập trung bình cao vào năm 1994 Nổi bật trong khu vực Mỹ Latinh, Uruguay được biết đến với xã hội bình đẳng, thu nhập bình quân đầu người cao, và mức độ bất bình đẳng cùng nghèo đói thấp, gần như không có bẫy nghèo đói Tuy nhiên, giống như nhiều quốc gia khác ở Mỹ Latinh, Uruguay cũng gặp khó khăn trong việc thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình Đến năm 2013, Uruguay đã cùng với Chile, Latvia, Litva và Liên bang Nga nâng cấp vị thế từ quốc gia có thu nhập trung bình cao lên thành quốc gia có thu nhập cao.

Biểu đồ 3.7: GDP bình quân đầu người của Uruguay trong giai đoạn 2002-2017

Kể từ năm 2002, nền kinh tế Uruguay đã ghi nhận mức tăng trưởng tích cực với tỷ lệ trung bình 4,1% từ năm 2003 đến 2018 Sự tăng trưởng này tiếp tục duy trì ngay cả trong các năm 2017 và 2018, bất chấp tình hình suy thoái kinh tế tại Argentina và Brazil Điều này có được là nhờ vào việc thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô thận trọng và cam kết đa dạng hóa thị trường cũng như sản phẩm trong các ngành nông lâm nghiệp chủ chốt.

Uruguay đã tăng cường khả năng nội sinh để đối phó với các cú sốc khủng hoảng khu vực từ năm 2002 đến 2017 nhờ vào ba yếu tố chính: chất lượng thể chế dân chủ, xúc tiến xuất khẩu và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài Để thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, sự hiệu quả trong quản lý của chính phủ là rất quan trọng, đòi hỏi một chính phủ nhỏ và hiệu quả Ngoài ra, Uruguay cũng phát triển các thể chế dân chủ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực tư nhân phát triển Vào tháng 7 năm 2013, Ngân hàng Thế giới đã công nhận Uruguay là quốc gia có thu nhập cao, với GDP bình quân đầu người đạt hơn 16.000 USD vào năm 2017.

3.5.2 Giải pháp thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình

Chiến lược cải cách công nghiệp của Uruguay đã thành công trong việc thu hút đầu tư, tăng xuất khẩu và tạo ra các cụm công nghệ nhờ vào sự ổn định chính trị và kinh tế vĩ mô Chiến lược này bao gồm nhiều chính sách công nghiệp mới nhằm thúc đẩy đổi mới và phát triển các cụm công nghệ, đồng thời phối hợp với khu vực tư nhân thông qua các hội đồng điều phối và mạng nghiên cứu Mức độ phối hợp và hợp tác cao giữa khu vực tư nhân và nhà nước là yếu tố quan trọng nền tảng cho chiến lược công nghiệp của Uruguay.

Uruguay đã triển khai chính sách xã hội nhằm khuyến khích sự tiến bộ và bảo đảm an sinh cho tất cả các nhóm xã hội Các chính sách này đã giúp giảm bất bình đẳng và nghèo đói, với chi tiêu xã hội đạt 21,1% GDP vào năm 2009 Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế để giải quyết các vấn đề xã hội thông qua hợp tác với khu vực tư nhân Chính quyền cũng gia tăng chi phí công, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục và y tế, đồng thời cung cấp hỗ trợ cho các nhóm nghèo nhất trong xã hội.

Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, chịu trách nhiệm cung cấp dịch vụ công cộng Từ năm 2006 đến 2018, tỷ lệ nghèo đói trung bình giảm từ 32,5% xuống 8,1%, trong khi nghèo đói cực đoan giảm từ 2,5% xuống 0,1% Mức thu nhập của 40% dân số nghèo nhất ở Uruguay tăng nhanh hơn so với mức tăng trưởng trung bình của toàn dân Hiệu suất thể chế mạnh mẽ, bao gồm niềm tin của công chúng vào chính phủ, mức độ tham nhũng thấp, và sự đồng thuận chính trị, cùng với cam kết tăng cường thiết lập thể chế, đã tạo điều kiện cho đất nước tiếp tục đổi mới hợp đồng xã hội và triển khai các chính sách giải quyết các hạn chế hiện tại.

CÁC BIỂU HIỆN CỦA BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH TẠI VIỆT NAM

MỘT SỐ KHUYẾN NGHN TRÁNH BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH Ở VIỆT NAM

Ngày đăng: 29/08/2021, 21:19

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 2.1. Phân loại theo thu nhập - Các biểu hiện của bẫy thu nhập trung bình đối với việt nam giai đoạn 2008   2018
Bảng 2.1. Phân loại theo thu nhập (Trang 22)
Hình 2.1 Các giai đoạn của nền kinh tế - Các biểu hiện của bẫy thu nhập trung bình đối với việt nam giai đoạn 2008   2018
Hình 2.1 Các giai đoạn của nền kinh tế (Trang 26)
Hình 2.2. Mô tả về bẫy thu nhập trung bình - Các biểu hiện của bẫy thu nhập trung bình đối với việt nam giai đoạn 2008   2018
Hình 2.2. Mô tả về bẫy thu nhập trung bình (Trang 28)
Bảng 4.1: Tăng trưởng GDP (%) của Việt Nam và các nước Châ uá lân cận giai đoạn 2008-2018  - Các biểu hiện của bẫy thu nhập trung bình đối với việt nam giai đoạn 2008   2018
Bảng 4.1 Tăng trưởng GDP (%) của Việt Nam và các nước Châ uá lân cận giai đoạn 2008-2018 (Trang 75)
Bảng 4.2: Tăng trưởng GDP của Việt Nam so với Thế giới và khu vực Châ uá Thái bình dương giai đoạn 2008-2016  - Các biểu hiện của bẫy thu nhập trung bình đối với việt nam giai đoạn 2008   2018
Bảng 4.2 Tăng trưởng GDP của Việt Nam so với Thế giới và khu vực Châ uá Thái bình dương giai đoạn 2008-2016 (Trang 76)
Bảng 4.3: GDP bình quân đầu người của Việt Nam (USD) giai đoạn 2008-2018 - Các biểu hiện của bẫy thu nhập trung bình đối với việt nam giai đoạn 2008   2018
Bảng 4.3 GDP bình quân đầu người của Việt Nam (USD) giai đoạn 2008-2018 (Trang 77)
Bảng 4.5: NSLĐ của một sốn ước trong khu vực giai đoạn 2008-2017 - Các biểu hiện của bẫy thu nhập trung bình đối với việt nam giai đoạn 2008   2018
Bảng 4.5 NSLĐ của một sốn ước trong khu vực giai đoạn 2008-2017 (Trang 80)
Bảng 4.6: Tốc đột ăng GDP (%) trong nước theo cơ cấu ngành giai đoạn 2008-2018   - Các biểu hiện của bẫy thu nhập trung bình đối với việt nam giai đoạn 2008   2018
Bảng 4.6 Tốc đột ăng GDP (%) trong nước theo cơ cấu ngành giai đoạn 2008-2018 (Trang 83)
Bảng 4.8: Tỷ trọng GDP ngành năm 2008 vàn ăm 2018 2008 2018  - Các biểu hiện của bẫy thu nhập trung bình đối với việt nam giai đoạn 2008   2018
Bảng 4.8 Tỷ trọng GDP ngành năm 2008 vàn ăm 2018 2008 2018 (Trang 85)
Bảng 4.9: Tỷ trọng cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế (%) - Các biểu hiện của bẫy thu nhập trung bình đối với việt nam giai đoạn 2008   2018
Bảng 4.9 Tỷ trọng cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế (%) (Trang 87)
Bảng 4.11: Hệ số ICOR một số quốc gia Đôn gÁ trước năm 2008 - Các biểu hiện của bẫy thu nhập trung bình đối với việt nam giai đoạn 2008   2018
Bảng 4.11 Hệ số ICOR một số quốc gia Đôn gÁ trước năm 2008 (Trang 90)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w