NÓI THƠ - NHỮNG VẤN ĐỀ DIỄN XƯỚNG VÀ VĂN BẢN
NÓI THƠ - MỘT LOẠI HÌNH DIỄN XƯỚNG DÂN GIAN
1.1.1 Cơ sở xã hội và sự ra đời hình thức Nói thơ Nam Bộ
Vào cuối thế kỷ XVII, người Việt đầu tiên đã đến Nam Bộ để khai phá và lập nghiệp, chủ yếu là nông dân nghèo trốn tránh chiến tranh và áp bức từ chế độ phong kiến Họ di cư bằng ghe bầu, mang theo những vật dụng đơn giản như cuốc, rựa và lương thực, thậm chí có người chỉ với hai bàn tay trắng Tuy nhiên, hành trang tinh thần của họ lại rất quý giá, bao gồm vốn văn hóa truyền thống và kinh nghiệm lâu đời từ quê hương Trong cộng đồng mới, họ đã tái tạo và sáng tạo nền văn hóa, phong tục và nghệ thuật của mình Từ đây, một loại hình văn nghệ dân gian độc đáo mang tên "nói thơ Nam Bộ" đã ra đời, thể hiện cách thưởng thức thơ đặc biệt của người miền Nam.
Văn bản cung cấp cho nói thơ Nam Bộ ban đầu là những truyện thơ Nôm bình dân, phát triển mạnh vào cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX Đến nửa sau thế kỷ XIX, chữ Quốc ngữ trở nên thông dụng ở miền Nam, dần thay thế chữ Hán và chữ Nôm Tuy nhiên, các sáng tác bằng chữ Quốc ngữ lại thưa thớt, không đáp ứng nhu cầu người dân Do đó, việc phiên âm và dịch các truyện thơ Nôm cùng truyện văn xuôi chữ Hán sang chữ Quốc ngữ trở thành cần thiết Thời kỳ này chứng kiến sự thịnh hành của truyện thơ Nôm Quốc ngữ ở Nam Bộ, với hình thức nói thơ được phổ biến rộng rãi nhờ vào tâm lý thưởng thức thơ ca của người dân Nam Bộ thông qua diễn xướng.
Truyện thơ Nôm Quốc ngữ trong dân gian ra đời đa dạng và phong phú, thường được sáng tác qua hình thức ứng khẩu Tác giả có thể tự mình ngâm thơ hoặc giao cho người khác "nói" cho cộng đồng nghe Nếu được đón nhận, họ sẽ tiếp tục sáng tác cho đến khi hoàn chỉnh tác phẩm Đôi khi, thơ được ghi lại bằng chữ Nôm và truyền dạy cho những người có giọng hay để phổ biến Vào đầu thế kỷ XX, khi phong trào nói thơ bùng nổ, nhiều người đã thu thập và chuyển thể thơ từ khẩu truyền sang chữ Quốc ngữ, đồng thời đứng tên xuất bản Điều này dẫn đến việc một tác phẩm có thể có nhiều phiên bản do nhiều tác giả khác nhau soạn lại Nhạc sĩ Lư Nhất Vũ và nhà thơ Lê Giang nhận định rằng hình thức nói thơ
Nam Bộ có nguồn gốc từ các hình thức thơ ca như hát sắc bùa, hô bài chòi và thơ quân phường của những người ăn xin, được mang theo bởi các làn sóng di dân từ Trung Bộ xuống miền Nam.
Hằng ngày, những người mù lòa và tàn tật hành nghề khất thực phải rèn giũa giọng nói thơ để thu hút sự chú ý của mọi người Tại các đầu đường, hè phố và bến đò ngang, họ đã chạm đến trái tim của nhiều người với tiếng đàn độc huyền hòa quyện cùng giọng thơ lảnh lót, tạo nên những khoảnh khắc cảm động.
Phong trào nói thơ đã trở thành một hoạt động phổ biến tại Nam Bộ, thu hút sự tham gia nhiệt tình của người dân Vào những giờ rảnh rỗi, đặc biệt là sau bữa cơm, âm thanh của những câu thơ vang lên khắp thôn xóm, tạo nên một không khí ấm cúng và gần gũi Người nghe, từ đàn ông, phụ nữ đến trẻ nhỏ, thường quây quần bên những người nói thơ, thường là những người lớn tuổi có giọng nói hay Họ không chỉ thuộc lòng hàng ngàn câu thơ mà còn có thể tham khảo từ sách để đảm bảo chính xác Trong quá trình nói thơ, người diễn thuyết thường dừng lại để uống nước, giải thích và tạo cơ hội cho khán giả thể hiện sự cảm thán trước những đoạn thơ kịch tính.
Nói thơ xuất hiện từ rất lâu, chủ yếu được lưu truyền tại các tỉnh Nam Bộ, mang trong mình một ma lực hoài cổ thu hút và khó quên Tuy nhiên, ngày nay, Nói thơ chỉ còn là dư âm của quá khứ, khi mà ít ai còn thực hành nghệ thuật này và số lượng bổn thơ Nôm Quốc ngữ còn lại cũng rất hạn chế.
1.1.2 Sự hình thành và phát triển các điệu nói thơ Nam Bộ
Điệu nói thơ Lạc Nô, xuất phát từ lối nói thơ của những người ăn xin, được người dân Nam Bộ sáng tạo ra từ các đợt sóng di dân từ Nam Trung Bộ Theo nhạc sĩ Lư Nhất Vũ, tên gọi của điệu thơ này có nguồn gốc từ những người nô lệ, nhưng cũng có giả thuyết cho rằng nó được đặt theo tên địa danh nơi cư dân định cư Vào thời Lê, ở huyện Kim Trà có một làng cổ bên bờ sông Kim Long, nơi cư dân vừa sống trên đất liền vừa cư trú trên thuyền, đó chính là làng Lạc Nô.
Nhạc sĩ Lư Nhất Vũ nhận định rằng điệu Nói thơ Lạc Nô, xuất hiện tại huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long, là một lối nói thơ cổ xưa, gần gũi với lối nói thơ quân phường Đây được xem là điệu nói thơ sớm nhất ở Nam Bộ, vẫn còn được lưu truyền trong dân gian Mặc dù chưa có phát hiện nào khác, nhưng có thể khẳng định rằng Nói thơ Lạc Nô là lối nói thơ cổ xưa nhất ở khu vực này Ban đầu, nội dung của Nói thơ Lạc Nô chủ yếu là những truyện thơ Nôm bình dân, nhưng sau này, khi các truyện thơ Nôm Quốc ngữ được xuất bản nhiều, người nói thơ Lạc Nô đã sử dụng cả những truyện thơ Quốc ngữ mới để làm phong phú thêm nội dung.
Thơ Lạc Nô thường được các nghệ sĩ hát rong sử dụng như một phương tiện hành nghề Họ thường trình diễn tại các địa điểm đông người như bến phà, bến xe, và chợ, vừa đệm đàn độc huyền vừa nói thơ Lạc Nô với giọng to và dõng dạc, thu hút sự chú ý của hàng chục khán giả.
Theo nhạc sỹ Lư Nhất Vũ, giai điệu của thơ Lạc Nô mang sắc thái Oán, tạo cảm giác lâm ly, nẫu ruột với nhịp điệu gãy gọn và cấu trúc gồm nhiều khúc nhạc, mỗi khúc chứa bốn câu thơ sáu tám Điệu nói thơ này ra đời khá sớm và đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người nghe về nhân tình thế thái Tuy nhiên, khi điệu nói thơ Vân Tiên xuất hiện và trở thành phong trào sôi nổi ở Nam Bộ, thơ Lạc Nô dần bị lãng quên.
Ví dụ: NÓI THƠ LẠC NÔ
Dựa vào các lối nói thơ truyền thống như hát sắc bùa, hô bài chòi và thơ quân phường, người dân Nam Bộ đã sáng tạo ra điệu nói thơ Vân Tiên để thưởng thức tác phẩm Nôm Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu Nhờ đó, điệu nói thơ Vân Tiên đã trở nên phổ biến rộng rãi khắp Nam Kỳ lục tỉnh vào thời điểm đó.
Nói thơ Vân Tiên là hình thức ngâm thơ đặc trưng, phù hợp với giọng nói nam giới Nội dung của thể loại này xoay quanh truyện thơ Nôm, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.
Luùc Vaõn Tieõn cuỷa Nguyeón ẹỡnh Chieồu
Nói thơ Vân Tiên không tuân theo nhịp điệu đều đặn như trong hát sắc bùa hay hô bài chòi, mà có sự thay đổi từ khoan thai đến dồn dập Theo nhạc sỹ Lư Nhất Vũ, cấu trúc âm nhạc của nói thơ Vân Tiên bao gồm nhiều khúc nhạc, mỗi khúc chứa hai cặp lục bát Mỗi khúc bắt đầu với giai điệu từ âm khu cao, sau đó lượn xuống âm khu trung và âm khu trầm Sau mỗi khúc, nhịp điệu chậm dần để lấy hơi vài giây trước khi tiếp tục diễn xướng.
Ví dụ: NÓI THƠ VÂN TIÊN
Sau đó, hàng loạt các truyện thơ như thơ Sáu Trọng, thơ Thầy Thông
Chánh, thơ Cậu Hai Miêng và các tác phẩm như Thoại Khanh Châu Tuấn, Trần Sanh Ngọc Anh, Trần Minh khố chuối đã được ấn hành liên tục bằng chữ Quốc ngữ, góp phần làm phong phú thêm phong trào nói thơ.
Người dân Nam Bộ khi nói thơ đã “dựa vào khung giai điệu của nói thơ
NGUỒN GỐC CÁC TRUYỆN THƠ NÔM QUỐC NGỮ XUẤT BẢN Ở NAM BỘ CUỐI THẾ KỶ XIX - ĐẦU THẾ KỶ XX
Vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, truyện thơ Nôm Quốc ngữ trở thành thể loại sách phổ biến trong giới bình dân Các văn bản thơ này được trình bày đơn giản và giữ nguyên hình thức truyền thống với kích thước 16cm x 24cm từ khi ra đời cho đến các tác phẩm "hậu".
Trang bìa sách được thiết kế với giấy mỏng, góc trên bên phải ghi giá cuốn thơ và góc trên bên trái ghi số lần in Tên tác phẩm xuất hiện bằng hai loại chữ là Nôm và Quốc ngữ, với thông tin "bổn cũ soạn lại" và tên người soạn, người chịu trách nhiệm xuất bản ở ngay dưới tên thơ Tên người soạn và nhà xuất bản được ghi bằng chữ Quốc ngữ và Pháp Ở giữa trang bìa, có hình minh họa cho nội dung tác phẩm, với sự kết hợp màu sắc giữa hình vẽ và tên thơ Cuối trang bìa, thông tin về nhà in và năm xuất bản được trình bày bằng hai loại chữ Quốc ngữ và Pháp.
Sách dày, bao gồm cả bìa, thường có từ 16 đến 30 trang, nhưng nếu có thêm hát Nam hoặc hát Khách, có thể dày lên đến 100 trang Bìa sau của sách thường in danh mục các quyển thơ đã được xuất bản Vào năm 1907, giá trung bình cho một quyển sách là 35 xu, và điều này kéo dài đến thập niên sau đó.
50, giá 2 đồng, đến thập niên 70 giá 10 đồng đến 20 đồng tùy sách dày hay mỏng
Trong cách trình bày nội dung, hầu hết các hàng đều in cả hai câu Lục và Bát mà không có sự phân đoạn hay mục lục Một số quyển do độ ngắn nên được bổ sung hình vẽ để đủ 16 trang cho tập thơ.
Trong cuốn "Văn học Quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865-1930", Bằng Giang đã giới thiệu thư mục của một số tác giả nổi bật ở Nam Kỳ Thư mục này bao gồm các tác phẩm "bổn cũ soạn lại", được các tác giả như Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Trương Minh Ký, Trần Phong Sắc và Đặng Lễ Nghi phiên âm, biên tập và xuất bản.
(1) TRƯƠNG VĨNH KÝ phiên âm, biên tập:
1 Luùc suực tranh coõng, 1887, 43 tr
(2) HUỲNH TỊNH CỦA phiên âm, biên tập:
1 Quan AÂm dieón ca / Huyứnh Tũnh Paulus Cuỷa, S : Xửa Nay, 1928 -
32tr; S : Ed Phạm Văn Thình, Imp Xưa Nay, 1930
2 Trần Sanh diễn ca : Bổn cũ dọn lại [par] Huỳnh Tịnh Paulus Của,
Chevalier de la Légion d'Honneur et Officier d'Académie Đốc phủ sứ (TDR) -S : Imp Commerciale, 1905 -In-8, pp.61
3 Lang Châu toàn truyện: Bổn cũ soạn lại, Huỳnh Tịnh Paulus Của, Chevalier de la Légion d'Honneur et Officier d'Académie Đốc phủ sứ (TDR) -S : Imp Commerciale Meùnard et Rey, 1905 2 e eùdition
4 Văn Doan diễn ca: Bổn cũ, thứ nhứt Thứ nhì sửa lại xuôi câu xuôi vaàn Huyứnh Tũnh Paulus Cuỷa, Chevalier de la Leựgion d'Honneur et Officier d'Académie Đốc phủ sứ (TDR) In lần thứ ba -S.: Coudurier et Môntégut, Imprimeurs - Editeurs, 1906 - In-8, pp.100
5 Bạch Viên Tôn Các truyện: Phụ chinh phụ ngâm Bổn cũ dọn lại Đốc phuû Paulus Cuûa Chevalier de la Leùgion d'Honneur et Officier d'Acadeùmie (TDR) -S : Imp Commerciale, 1906 - In-8, pp.36
6 Chiêu Quân cống Hồ: Bổn cũ dọn lại Par Huỳnh Tịnh Paulus Của, Chevalier de la Légion d'Honneur et Officier d'Académie Đốc phủ sứ (TDR) -S : Imp Commerciale, 1906 -In-8, pp.40
7 Thoại Khanh Châu Tuấn truyện : Bổn cũ dọn lại par Paulus Của,
Chevalier de la Leùgion d'Honneur et Officier d'Acadeùmie (TDR).- S : Imp Commerciale, 1906.- In-8, pp 28
8 Tống Tử Vưu truyện: Bổn cũ dọn lại par Đốc phủ Paulus Của, Chevalier de la Leùgion d'Honneur et Officier d'Acadeùmie (TDR) -S : Imp Commerciale, Marcellin Rey, Imp.- eùditeur, C Ardin, Directeur, 1907.- In-8, pp.32
9 Trần Sanh Ngọc Anh / Huỳnh Tịnh Paulus Của (Histoire d'un jêun couple).- S.: Imp Thạnh Thị Mậu, 1928.- 25/16, 30p Prix 0$35
(3) TRƯƠNG MINH KÝ phiên âm, biên tập
1 Lục súc tranh công - Phiên âm nôm ra quốc ngữ, khởi đăng trên Gia Định báo từ số 2 năm 27, ngày 13.1.1891
2 Nhị thập tứ hiếu (phiên âm chữ Nôm ra chữ Quốc ngữ), khởi đăng trên Gia Định báo từ số 49 năm 32, ngày 8.12.1896
(4) TRẦN PHONG SẮC phiên âm, biên tập
1 Nữ tú tài / Trần Phong Sắc.- S.: Imp Commerciale Marcellin Rey,
2 Hậu Vân Tiên diễn ca / Trần Phong Sắc dịch - S : Impr J Viết,
3 Thơ Phạm Công / Trần Phong Sắc sưu tầm - In lần thứ 3 - S : Imp
(5) ĐẶNG LỄ NGHI phiên âm, biên tập
1 Thơ Lý Công / Transcrit en quốc ngữ par Đặng Lễ Nghi et ĐTS - s.:
Imp Et Lib Nouvelles Claude et C ie , 1905 -In-8, pp.56
2 Nam Kinh, Bắc Kinh / Transcrit en Quốc ngữ par Đặng Lễ Nghi
Publíc par Đinh Thái Sơn- Phát Toán (TDR) -S.: Imp Commerciale, 1906 In-8, pp.39
3 Thơ Mục Liên, Thanh Đề : Bổn cũ soạn lại par Đặng Lễ Nghi
Publié par Đinh Thái Sơn TDR In lần thứ nhứt - S.: Coudurier et Monteùguot, Imp.- Ed., 1906.- In-8, pp.47
4 Lục Vân Tiên : Bổn cũ soạn lại và thêm Nam Khách par Đặng Lễ
Nghi Publié par Đinh Thái Sơn In lần thứ nhứt (TDR).-S.: Nam Tải, 1907.- In-8, pp.72
5 Lâm Sanh Xuân Nương thơ : Bổn cũ soạn lại par Đặng Lễ Nghi
Publié par Đinh Thái Sơn- Phát Toán, VR In lần thứ nhứt (TDR) - S : Phát Toán, Imp.-Ed., 1907.- In-8, pp.42
6 Phạm Công Cúc Hoa : Bổn cũ soạn lại đủ toàn Chủ bút Đặng Lễ
Nghi Publié par Đinh Thái Sơn- Phát Toán, VR In lần thứ nhứt (TDR) - S : Imp Saigonnaise, 1907.- In-8, pp.52
7 Trần Đại Lang thơ : Bổn cũ soạn lại par Đặng Lễ Nghi Publié par Đinh Thái Sơn In lần thứ nhứt TDR-.- S : Imp De l'Opinion, 1907.- In-8, pp.48
8 Thạch Sanh Lý Thông : Bổn cũ diễn Chánh par Đặng Lễ Nghi,
Publié par Đinh Thái Sơn In lần thứ nhứt (TDR).-S.: Nam Tải, 1907.- In-8, pp.47
9 Tứ đại kỳ thơ : Bổn cũ diễn chánh có soạn thêm par Đặng Lễ Nghi
Publié par Đinh Thái Sơn- Phát Toán, VR In lần thứ nhứt (TDR) - S : Phát Toán, Imp Ed., 1907.- In-8, pp.24
10 Tiên Bửu thơ tuồng (có hình): Bổn cũ soạn lại par Đặng Lễ Nghi
Publié par Đinh Thái Sơn- Phát Toán, VR In lần thứ nhứt TDR - S : Phát Toán, Lip- Imp., 55-57, Rue d'Ormay,1908.- In-8, pp.30
11 Nữ trung báo oán thơ : Chủ bút Đặng Lễ Nghi; Publié par Đinh Thái
Sơn- Phát Toán, VR In lần thứ nhứt (TDR) - S : Phát Toán, Lip- Imp., 55-
12 Trò Đông thơ : Soạn ra par Đặng Lễ Nghi Publié par Đinh Thái Sơn,
In lần thứ nhứt - S : Phát Toán, Lip- Imp., 55-57, Rue d'Ormay,1909.- In-
13 Nàng Út thơ: Soạn ra par Đặng Lễ Nghi Publié par Đinh Thái Sơn,
In lần thứ nhứt - S : Phát Toán, Lip- Imp., 55-57, Rue d'Ormay,1909.- In-
14 Đỗ Thập Nương thơ : Tân soạn par Đặng Lễ Nghi In lần thứ nhứt -
S : Phát Toán, Lip- Imp., 55-57, Rue d'Ormay,1910.- In-8, pp.40
15 Nhị thập tứ hiếu : Soạn ra par Đặng Lễ Nghi Editéù par Đinh Thái
Sơn, In lần thứ nhứt.- S : Phát Toán, Lip- Imp., 55-57, Rue d'Ormay,1910.- In-8, pp.32
16 Chàng Nhái Kiển Tiên thơ : Bổn cũ soạn lại par Đặng Lễ Nghi Ed
Par Đinh Thái Sơn In lần thứ nhứt.- S : Phát Toán, Lip- Imp., 55-57-59, Rue d'Ormay,1910.- In-8, pp.49
17 Con Tấm con Cám thơ : Bổn cũ soạn lại par Đặng Lễ Nghi Ed Par Đinh Thái Sơn In lần thứ nhứt.- S : Phát Toán, Lip- Imp., 55-57-59, Rue d'Ormay,1911.- In-8, pp.49
18 Tống Tử Vưu thơ : par Đặng Lễ Nghi Ed Par Đinh Thái Sơn S.: Phát Toán, 1911.- In-8, pp.48
19 Bạch Viên Tôn Các thơ : Bổn cũ soạn lại par Đặng Lễ Nghi Ed Par Đinh Thái Sơn.- S : Phát Toán, 1911.- In-8, pp.30-111
20 Thơ Hoàng Trừu: Bổn cũ soạn lại par Đặng Lễ Nghi Ed Par Đinh
Thái Sơn In lần thứ nhứt, TDR.- S : Phát Toán, Lib- Imp., 55-57-59, Rue d'Ormay,1911.- In-8, pp.22
21 Mài gươm dạy vợ : Thơ / Đặng Lễ Nghi - S : Nhà in Xưa nay, 1928
22 Văn Doan thơ : Bổn cũ soạn lại / Đặng Lễ Nghi - S : Impr Bảo Tồn,
23 Chiêu Quân cống Hồ : Thơ / Đặng Lễ Nghi.- S : Imp Xưa nay,
24 Lâm Sanh Lâm Thoại : Thơ / Đặng Lễ Nghi.- S : Imp Xưa nay,
25 Ngọc cam ngọc khổ : Thơ/ Đặng Lễ Nghi - S : Imp Xưa nay, 1929 - 24p
26 Đào Trinh Lương Sanh: Bổn cũ soạn lại, Thơ/ Đặng Lễ Nghi Et
Phạm Văn Thình.-.: Imp Xưa nay, 1929 - 30p
27 Tam Nương thơ : Bổn cũ soạn lại / Đặng Lễ Nghi.- S.: Ed Phạm Văn
28 Lang Châu thơ / Đặng Lễ Nghi.- S.: Ed Phạm Văn Thình Imp Xưa nay, 1931 21p
29 Phạm Công Thơ / Traduit par Cao Minh Chánh, revu et augmenté par Đặng Lễ Nghi 5 e éd - S.: Ed Phạm Văn Thình Impr Bảo tồn, 1931 - 40p
30 Thơ Mụ Đội : Traduit par Phụng Hoàng San et Đặng Lễ Nghi.- S :
Ed LVT - LPT Imp Đức Lưu Phương, 1931 - Facs.1 à 4, 62p
Nguyễn Văn Hầu trong cuốn "Diện mạo văn học dân gian Nam Bộ" đã giới thiệu một số tác phẩm truyện thơ Nôm Quốc ngữ, được biên tập và xuất bản bởi các tác giả như Phạm Văn Thình, Nguyễn Bá Thời, Nguyễn Văn Khỏe, Nguyễn Văn Cường, Nguyễn Kim Đính, Huỳnh Kim Danh, Đặng Lễ Nghi, Cử Hoành Sơn, Khấu Võ Nghi, và Lê Duy Thiện.
Nguyễn Hữu Hiệp và Lê Minh Quốc đã sưu tầm ba bản thơ được giới thiệu trong cuốn "Thơ thầy Thông Chánh, Sáu Trọng, Hai Miêng" lưu hành tại Nam Kỳ đầu thế kỷ XX Họ cam kết in đúng nguyên văn các tác phẩm, chỉ điều chỉnh một vài lỗi chính tả để bảo đảm tính chính xác và nguyên bản của thơ.
Thơ Thầy Thông Chánh là do Nguyễn Hữu Hiệp sưu tầm được - do bà Đào Thị Mười ở Thủ Thừa (Long An) nói thơ, gồm 262 câu
Thơ Sáu Trọng là do Lê Minh Quốc tìm mua được bổn in cũ tại nhà sách cũ trên đường Nguyễn Thị Minh Khai (quận 3)
Thơ cậu Hai Miêng thì tình cờ Ông xem trong tủ sách gia đình của ông
Nguyễn Q Thắng đã phát hiện một tác phẩm thơ dày 18 trang với 564 câu, nhưng không rõ năm xuất bản do mất bìa Trong quá trình nghiên cứu, tác giả gặp nhiều khó khăn trong việc sưu tầm và xử lý tư liệu Dù đã tìm kiếm tại các thư viện ở Thành phố Hồ Chí Minh và một số thư viện khác, kết quả thu được rất hạn chế Tuy nhiên, nhờ sự hỗ trợ của thầy hướng dẫn PGS, tác giả đã có thêm tư liệu quý giá cho nghiên cứu.
TS Đoàn Lê Giang, hiện nay, chúng tôi có được một số tác phẩm sau:
1 Cậu Hai Miêng ( 19 ) , /k.đ./, Tân Sơn, 16tr
2 Chiêu Quân cống Hồ ( 1906 ), Hoàng Tịnh Paulus Của, Đốc phủ sứ Bổn cũ soạn lại, S , Nhà in Imprimerie Commerciale, 40 tr
3 Lang Châu toàn truyện ( 1905), bổn cũ dọn lại, Hoàng Tịnh Paulus Của, S.Imp Commerciale Mánard et Rey, 38 tr
4 Lục Vân Tiên : Thơ và có hát nam khách (1919), Bổn cũ soạn lại của
Corrigé par Đặng Lễ Nghi ; Publíc par Đinh Thái Sơn - 6è éd – S.: Impr de l’Union Ng.V.Cua, 37tr
5 Nam Kinh, Bắc Kinh ( 1915 ) , Traduit par Đặng Lễ Nghi; Publíc par Đinh Thái Sơn, Bổn cũ soạn lại, In lần thứ 2, S.: Impr de l’'Union, 23tr
6 Quan Âm diễn ca ( 1928 ) , Hoàng Tịnh Paulus Của, Đốc phủ sứ - In lần 3 - S : Nhà in Xưa Nay, 32tr: minh hoạ
7 Thoại Khanh Châu Tuấn : Thơ (1929), Paulus Của soạn - In lần thứ
6 - S : Nhà in Xưa Nay, 22tr, 25cm
8 Thơ Chiêu Quân cống Hồ ( 1913 ), Bổn cũ soạn lại có thêm hát nam hát khách, in lần thứ nhất, S.: - imprimerie Nguyễn Văn Viết, 23tr
9 Thơ Sáu Trọng ( _? ) , bổn cũ soạn lại, Nguyễn Bá Thời, Sài Gòn,
10 Thơ Thầy Thông Chánh, Sáu Trọng, Hai Miêng lưu hành tại Nam kỳ đầu thế kỷ XX ( 1998 ), Nguyễn Hữu Hiệp, Lê Minh Quốc sưu tầm và giới thiệu, TPHCM, Trẻ, 117tr
11 Tống Tử Vưu truyện ( 1904 ), bổn cũ soạn lại, nhà in Commerciale, S.1904; SG, Imp.Commerciale, 32 tr
12 Trần Sanh Ngọc Anh (1928), Bổn cũ soạn lại, Soạn: Hoàng Tịnh
Paulus Của - In lần thứ 4 - S : Nhà in Thạnh Thị Mau, 30tr ; 26cm
13 Trần Minh khố chuối ( 1928 ), Bổn cũ soạn lại, soạn: Đinh Thái Sơn, in lần thứ tư, nhà in xưa nay, 20tr
14 Văn Doan diễn ca ( 1906 ), Hoàng Tịnh Paulus Của, Đốc phủ sứ, In laàn 2, S : Coudurier& Monteùgout, Imprimeurs - EÙditeurs, 100 tr
Bài viết tổng hợp và khảo sát 13 truyện thơ Nôm Quốc ngữ được xuất bản ở Nam Bộ vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX Mặc dù số lượng này không nhiều so với tổng số tác phẩm phát hành trong giai đoạn này, nhưng tác giả đã sưu tầm hầu hết các tác phẩm còn lưu giữ, từ đó đưa ra những nhận xét bước đầu giúp người đọc có cái nhìn tổng quát hơn về truyện thơ Nôm Quốc ngữ trong thời kỳ này.
1.2.2.1 Từ truyện cổ dân gian Việt Nam