MỘT SÔ VẤN ĐÈ CHUNG VÈ HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI Tự DO VÀ TỔNG QUAN VÈ HIỆP ĐỊNH ĐÔI TÁC KINH TẾ
Một số vấn đề chung về hiệp định thương mại tự do
Hiệp định thương mại tự do (FTA) là thỏa thuận giữa các quốc gia nhằm loại bỏ hàng rào thương mại, bao gồm thuế quan và phi thuế quan, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi hàng hóa Mặc dù các nước thành viên cam kết ưu đãi lẫn nhau, mỗi quốc gia vẫn giữ quyền tự quyết về chính sách thương mại đối với các nước không tham gia hiệp định.
Có hai loại FTA là:
- FTA song phương là hiệp định thương mại tự do giữa hai nước, ví dụ như FTA Việt Nam - Nhật Bản, FTA Việt Nam - Hàn Quốc.
- FTA đa phương là hiệp định thương mại giữa nhiều quốc gia với nhau, ví dụ như FTA ASEAN - Trung Quốc, FTA ASEAN - Nhật Bản.
FTA, dù là song phương hay đa phương, mang lại lợi ích lớn cho các nước thành viên trong việc thúc đẩy thương mại và tận dụng lợi thế so sánh Ngoài ra, với phạm vi hợp tác rộng, FTA còn thúc đẩy tự do hóa đầu tư, hợp tác chuyển giao công nghệ, tối ưu hóa thủ tục hải quan và nhiều dịch vụ khác.
1.1.3 Tình hình kỷ kết các Hiệp định Thương Mại tự do của Việt Nam hiện nay Đen nay Việt Nam đã tham gia ký kết 14 Hiệp định Thương Mại tự do, đang tham gia đàm phán 4 Hiệp định Thương Mại tự do và trong tương lai không xa sẽ tiến hành đàm phán một Hiệp định Thương mại tự do quan trọng Hiệp địnhThương mại tự do Việt Nam ký gần đây nhất là Hiệp định Thương mại tự do ViệtNam - Hàn Quốc được ký ngày 05 tháng 05 năm 2015 Cụ thể các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương mà Việt Nam đã, đang và sẽ ký kết.
Bảng 1.1: Toàn cảnh các Hiệp định thương mại tự do của Việt Nam
Tên các FTA Hiện trạng
1 FTA ASEAN Ký năm 1995, đang được thực thi
2 FTA ASEAN - Trung Quốc Ký năm 2002, đang được thực thi
3 FTA ASEAN - Ấn Độ Ký năm 2003, đang được thực thi
4 FTA ASEAN - Nhật Bản Ký năm 2005, đang được thực thi
5 FTA ASEAN - Hàn Quốc Ký năm 2006, đang được thực thi
Ký năm 2009, đang được thực thi
(ASEAN + 6) Đang tham gia đàm phán
8 FTA ASEAN - EU Đang tham gia đàm phán
9 TPP Đang tham gia đàm phán
10 FTA ASEAN - Canada Đang xem xét
11 FTA Việt Nam- Myanmar Ký năm 1994, đang được thực thi
12 FTA Việt Nam - Hoa Kỳ Ký năm 2000, đang được thực thi
13 FTA Việt Nam - Trung Quốc Ký năm 2002, đang được thực thi
14 FTA Việt Nam - Nhật Bản Ký năm 2008, đang được thực thi
15 FTA Việt Nam - Ấn Độ Ký năm 2010, đang được thực thi
16 FTA Việt Nam - Chile Ký năm 2011, có hiệu lực vào năm
17 FTA Việt Nam - Lào Ký ngày 03- 03 -2015
18 FTA Việt Nam - Hàn Quốc Được ký ngày 05 - 05 - 2015
18 FTA Việt Nam - EU Đang tham gia đàm phán
Việc ký kết các hiệp định thương mại tự do đa phương và song phương, cùng với việc tham gia các diễn đàn kinh tế quan trọng như AFTA, ACFTA, AKFTA, AJCEP, đã đóng góp lớn vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của Việt Nam Cụ thể, hiệp định ACFTA đã thúc đẩy xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam sang Trung Quốc, thị trường xuất khẩu lớn thứ tư của Việt Nam Đồng thời, Trung Quốc cũng là một trong những nhà đầu tư lớn vào Việt Nam, giúp ACFTA mang lại lợi thế cạnh tranh trong việc thu hút FDI từ nước này.
1.1.4 Những lợi ích và hạn chế, yếu kém của Việt Nam trong qua trình tham gia các FTA a Những lợi ích Việt Nam đạt được trong tham gia các FTA
Các hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam đã ký kết đã thúc đẩy nhanh chóng giá trị thương mại hai chiều với các đối tác Những FTA này có tác động tích cực trong việc mở rộng thị phần hàng xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt tại các thị trường ASEAN, Hàn Quốc, Nhật Bản và Trung Quốc.
Việc tham gia và ký kết các FTA đã tạo ra hiệu ứng tích cực cho việc đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt là sang các thị trường như ASEAN, Ấn Độ và Nhật Bản Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đều có khả năng tận dụng lợi ích từ các FTA khu vực Hơn nữa, việc ký kết và thực hiện FTA với các nước phát triển đã thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và ngành sản xuất trong nước theo hướng hiệu quả hơn.
Các hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam tham gia đã thúc đẩy cải cách và tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng thị trường, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển thương mại song phương Những FTA này mang lại lợi ích thương mại từ các đối tác, giúp Việt Nam khai thác hiệu quả hơn lợi thế so sánh của mình, đồng thời tạo ra những tác động tích cực đối với nền kinh tế.
Nam trong cải cách và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, hoàn thiện môi trường kinh doanh để phát triển nhanh và bền vững.
Bốn là, các FTA đã ký kết có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế của
Việt Nam đang thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), điều này không chỉ giúp cải thiện nền kinh tế mà còn tạo ra nhiều cơ hội việc làm và tăng thu nhập cho người lao động.
Các hiệp định thương mại tự do (FTA) đã đóng góp tích cực vào việc nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa và doanh nghiệp, cũng như nền kinh tế Nhờ vào việc tiếp cận thị trường xuất khẩu với ưu đãi thuế quan, doanh nghiệp có thể giảm chi phí đầu vào thông qua chuyển giao công nghệ và nhập khẩu nguyên liệu với giá ưu đãi.
Sáu là, sự tham gia các FTA khu vực là một nấc thang quan trọng để Việt
Việt Nam đang tiến bước mạnh mẽ trong việc nâng cao mức độ liên kết và hội nhập quốc tế, đặc biệt là hoàn thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào năm 2015 Tuy nhiên, đất nước vẫn phải đối mặt với nhiều hạn chế, yếu kém và bất lợi trong việc tham gia các Hiệp định Thương mại Tự do (FTA), điều này cần được khắc phục để tối ưu hóa lợi ích từ các cơ hội hội nhập.
Việc tham gia các FTA hiện nay còn mang tính bị động, thiếu sự chuẩn bị và chiến lược rõ ràng, dẫn đến việc chưa tận dụng tối đa các ưu đãi và cơ hội từ các hiệp định này Chúng ta chưa nỗ lực đủ để duy trì mức tăng trưởng xuất khẩu cao, đồng thời cũng chưa chủ động hạn chế các tác động tiêu cực của tự do hóa thương mại, đặc biệt trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu Ngoài ra, điều kiện cơ bản trong nước chưa được chuẩn bị tốt, khiến cho việc cải thiện cán cân thương mại và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng bền vững trở nên khó khăn.
Hai là, cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang các thị trường đã ký
FTA vẫn chưa có sự chuyển biến mạnh mẽ, chủ yếu tập trung vào nông sản, hàng hóa công nghiệp sử dụng nhiều lao động và nguyên liệu Đặc biệt, một số mặt hàng như cao su, dừa, rau quả, than đá đã phụ thuộc quá lớn vào thị trường Trung Quốc, với hơn 70% tổng kim ngạch xuất khẩu, điều này cho thấy sự cần thiết phải đa dạng hóa thị trường xuất khẩu.
Tình hình hiện tại đã tạo ra sự phụ thuộc quá mức vào một thị trường duy nhất, và khi đối tác giảm nhập khẩu, chúng ta đã phải đối mặt với những hậu quả nghiêm trọng.
Việt Nam tham gia nhiều FTA, tạo điều kiện thuận lợi cho đối tác tiếp cận thị trường và thúc đẩy xuất khẩu vào Việt Nam, nhưng cũng gây ra tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế Cụ thể, năng lực cạnh tranh của sản phẩm và doanh nghiệp Việt Nam bị ảnh hưởng trong ngắn và trung hạn Việc thực hiện FTA với Trung Quốc, một quốc gia có sức cạnh tranh cao và hàng hóa tương đồng, đã dẫn đến sự xâm nhập mạnh mẽ của hàng Trung Quốc vào thị trường Việt Nam qua cả con đường chính ngạch và thương mại biên giới Nhiều ngành sản xuất trong nước đang đối mặt với nguy cơ thu hẹp hoặc đóng cửa do không thể cạnh tranh với hàng hóa Trung Quốc, trong khi chúng ta chưa xây dựng và sử dụng hiệu quả các hàng rào thương mại để bảo vệ thị trường nội địa theo quy định của WTO.
Tổng quan về Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực
- 1.2.1 Khái niệm và lịch sử hình thành của Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực
RCEP, viết tắt của Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực, được khởi xướng bởi ASEAN tại Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á năm 2012, nhằm thay thế TPP và tối ưu hóa lợi ích từ các FTA hiện có Nếu được thông qua, RCEP sẽ tạo ra một khối kinh tế lớn nhất thế giới, tích hợp toàn bộ khu vực Châu Á.
- Ý tuởng về RCEP lần đầu tiên đuợc giới thiệu vào tháng 11 năm 2011 tạiHội nghị Thuợng đỉnh Lãnh đạo ASEAN ở Bali, các quan chức đã cố gắng để hài
- hòa hai kiến trúc thương mại khu vực hiện có Trung Quốc ủng hộ Hiệp định
Thương mại Tự do Đông Á, trong đó hạn chế chỉ gồm các nước ASEAN, Trung
Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc Nhật Bản lại ủng hộ Quan hệ Đối tác Kinh tế
Toàn diện ở Đông Á, với thêm ba nước: An Độ, Australia và New Zealand.
Các lãnh đạo ASEAN đã tạo ra sự cân bằng với RCEP thông qua nguyên tắc gia nhập mở, cho phép các quốc gia tham gia miễn là tuân thủ quy định của nhóm Hiện tại, chỉ có các nước ASEAN và đối tác FTA được tham gia đàm phán, trong khi Mỹ không tham gia nhưng vẫn có cơ hội cho các nước khác gia nhập.
Vào ngày 30 tháng 8 năm 2012, tại Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN ở Campuchia, các quan chức đã thông qua các nguyên tắc hướng dẫn cho Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Reginal (RCEP) Hiệp định này nhằm củng cố vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc kinh tế khu vực và hài hòa hóa các khác biệt giữa các hiệp định thương mại tự do (FTA) của ASEAN RCEP sẽ thúc đẩy hội nhập kinh tế khu vực mạnh mẽ hơn, dần dần loại bỏ thuế quan và các rào cản phi thuế quan, đồng thời đảm bảo tính nhất quán với các quy tắc của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
RCEP chính thức bắt đầu đàm phán vào ngày 20 tháng 11 năm 2012, dự kiến hoàn tất vào năm 2015 và sẽ được thực thi ngay sau đó Hiệp định này nhằm mở rộng thương mại hàng hóa và dịch vụ, loại bỏ rào cản thương mại và tự do hóa dịch vụ, đồng thời gia tăng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ASEAN và các đối tác thương mại khác Do đó, việc hiểu rõ về RCEP và tác động của nó đến Cộng đồng kinh tế ASEAN, đặc biệt là các nước CLMV, cũng như những chuẩn bị cần thiết của các nước ASEAN để tiếp nhận RCEP một cách hiệu quả là rất quan trọng.
RCEP, hay Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Regioanl, là một hiệp định thương mại tự do bao gồm 10 quốc gia thành viên ASEAN và 6 quốc gia đối tác gồm Australia, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc Hiệp định này được kỳ vọng sẽ hoàn tất ký kết vào năm 2015, nhằm hướng tới việc hình thành Hiệp định thương mại tự do Đông Á (EAFTA) và khởi đầu cho Đối tác kinh tế toàn diện Đông Á (CEPEA).
RCEP, hay Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Regioanl, khác biệt với các sáng kiến thương mại trước đây như Hiệp định thương mại tự do Đông Á, vì không dựa trên các mối quan hệ thành viên cố định Thay vào đó, RCEP cho phép sự tham gia công khai của bất kỳ đối tác nào trong ASEAN FTA, bao gồm Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ và Australia - New Zealand, ngay từ đầu hoặc khi các quốc gia sẵn sàng Hiệp định cũng mở rộng cho các đối tác kinh tế khác, bao gồm các nước Trung Á và các quốc gia còn lại ở Nam Á và Châu Đại Dương.
1.2.2 Quá trình đàm phán Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực
- Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực được chính thức ra mắt vào năm
Từ năm 2012 đến nay, đã có bảy cuộc đàm phán được thực hiện và dự kiến sẽ hoàn tất vào cuối năm 2015, với tiến trình đàm phán của Hiệp định được diễn ra như sau:
- Từ ngày 14 đến ngày 19 tháng 11 năm 2011: trong Hội nghị thượng đỉnh ASEAN 19 các đối tác kinh tế toàn diện khu vực đã được giới thiệu.
Từ ngày 25 tháng 8 đến 01 tháng 9 năm 2012, tại Hội nghị các Bộ trưởng kinh tế ASEAN lần thứ 44 ở Siem Reap, Campuchia, Bộ trưởng kinh tế của 10 quốc gia ASEAN và 6 đối tác đã thống nhất sẽ bắt đầu đàm phán vào cuối năm 2012 về một thỏa thuận thương mại tự do, được gọi là các đối tác kinh tế toàn diện khu vực.
Từ ngày 18 đến 20 tháng 11 năm 2012, tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN 21 diễn ra ở Phnom Penh, Campuchia, các nhà lãnh đạo đã thông qua khuôn khổ của Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) và công bố sự khởi đầu của các cuộc đàm phán liên quan.
Từ ngày 09 đến 13 tháng 5 năm 2013, các quan chức của 16 đối tác kinh tế khu vực, bao gồm 10 nước ASEAN và các đối tác FTA như Australia, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ và New Zealand, đã gặp nhau tại Bandar Seri Begawan, Brunei để khởi động cuộc đàm phán đầu tiên về RCEP Tại đây, ủy ban đàm phán đã thành lập 3 nhóm công tác về Thương mại hàng hóa, Thương mại dịch vụ và Đầu tư, với các cuộc họp diễn ra song song nhằm thống nhất nội dung tài liệu và trao đổi quan điểm về cấu trúc, phương thức cũng như các nội dung quan trọng khác trong các lĩnh vực cụ thể.
Đoàn Việt Nam tham gia thảo luận về khả năng đạt được một hiệp định toàn diện, với sự góp mặt của đại diện từ các bộ ngành như Bộ Công Thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Ngoại giao, Bộ Tài chính, và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Ngân hàng Nhà nước và Văn phòng ủy ban quốc gia về Họp tác kinh tế quốc tế.
Từ ngày 23 đến 27 tháng 9 năm 2013, vòng đàm phán thứ 2 của RCEP đã diễn ra thành công tại Australia, với sự tập trung vào thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư Ngoài ra, các lĩnh vực như kinh tế, hợp tác kỹ thuật, cạnh tranh, sở hữu trí tuệ, giải quyết tranh chấp và một số vấn đề khác cũng đã được thảo luận theo các nguyên tắc hướng dẫn của RCEP.
Từ ngày 20 đến 24 tháng 01 năm 2014, vòng đàm phán thứ 3 diễn ra tại Kyodo, Nhật Bản, với trọng tâm là các vấn đề thuế Trong bốn ngày làm việc, các nhà đàm phán từ 16 nước thành viên đã tổ chức các cuộc gặp nhóm chuyên viên để thảo luận về thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ và vấn đề đầu tư.
Từ ngày 31 tháng 3 đến ngày 04 tháng 4 năm 2014, vòng đàm phán thứ 4 đã diễn ra tại Quảng Tây, Trung Quốc, với sự tham gia của hơn 500 đại biểu từ các quốc gia thành viên ASEAN cùng Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, Australia và New Zealand Các nước tham gia đã thảo luận sâu về nhiều vấn đề nhằm thúc đẩy tiến trình đàm phán.
Từ ngày 21 đến 27 tháng 04 năm 2014, phiên đàm phán thứ 5 đã diễn ra tại Singapore, tập trung vào các lĩnh vực thương mại hàng hóa như thuế quan, quy tắc xuất xứ, thủ tục hải quan và thương mại dịch vụ Mười nước ASEAN và sáu đối tác đã thảo luận các vấn đề quan trọng như cấu trúc và phạm vi của Hiệp định, cùng với mô hình cắt giảm thuế quan và cách tiếp cận trong đầu tư Các bên đã trao đổi thẳng thắn về những nội dung có giá trị gia tăng so với các Hiệp định FTA ASEAN+1 hiện có Kết quả của phiên đàm phán sẽ được báo cáo tại Hội nghị, với mục tiêu thu hẹp sự khác biệt và làm rõ quan điểm của nhau.
- các nội dung đàm phán then chốt đồng thời xác định các vấn đề lớn cần được các