1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại tại tòa án nhân dân huyện iagrai tỉnh gia lai

36 14 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 36
Dung lượng 776,9 KB

Cấu trúc

  • Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO YÊU CẦU CỦA NGƯỜI BỊ HẠI (10)
    • 1. Những vấn đề lý luận về khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại (10)
      • 1.1. Khái niệm “Khởi tố vụ án hình sự” (10)
      • 1.2. Khái niệm “Người bị hại” (10)
    • 2. Quy định của Bộ luật TTHS về khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại (12)
      • 2.2. Các trường hợp chỉ được khởi tố theo yêu cầu của bị hại (14)
  • CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO YÊU CẦU CỦA NGƯỜI BỊ HẠI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN IAGRAI 13 1. Giới thiệu về Tòa án nhân dân huyện IaGrai (15)
    • 1.1. Tòa án nhân dân Việt Nam (15)
    • 1.2. Tòa án nhân dân huyện IaGrai (15)
      • 1.2.1. Địa chỉ liên hệ (15)
      • 1.2.2. Quá trình thành lập và phát triển (15)
      • 1.2.3. Những đặc điểm chính của địa phương (16)
      • 1.2.4. Cơ cấu tổ chức (16)
      • 1.2.5. Về trình độ chuyên môn và trình độ chính trị (16)
      • 1.2.6. Về cơ sở vật chất (16)
      • 1.2.7. Tổ chức Đảng, tổ chức Công đoàn và tổ chức Đoàn (16)
      • 1.2.8. Chức năng, nhiệm vụ được giao (16)
      • 1.2.9. Thành tích đạt được trong năm 2017 (17)
    • 2. Giới thiệu về vị trí thực tập tại Tòa án nhân dân huyện IaGrai (18)
    • 3. Thực trạng công tác khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại tại (19)
      • 3.1. Thực trạng áp dụng quy định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại (20)
      • 3.3. Tiêu cực, sai sót cũng như vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật (26)
  • CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP (28)
  • CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN (31)

Nội dung

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO YÊU CẦU CỦA NGƯỜI BỊ HẠI

Những vấn đề lý luận về khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại

1.1 Khái niệm “Khởi tố vụ án hình sự”

Theo một số khái niệm trên các trang web tư vấn pháp luật 1 thì:

Khởi tố vụ án hình sự là hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng nhằm xác định sự việc phạm tội, từ đó tiến hành điều tra để phát hiện tội phạm Đây là giai đoạn tố tụng độc lập, đánh dấu sự khởi đầu cho các hoạt động điều tra tiếp theo.

Theo giáo trình Luật tố tụng hình sự - Trường đại học Luật Hà Nội thì:

Khởi tố vụ án hình sự đánh dấu giai đoạn đầu tiên trong tố tụng hình sự, nơi cơ quan có thẩm quyền sẽ xác định sự tồn tại của dấu hiệu tội phạm nhằm đưa ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án.

Khởi tố vụ án hình sự là hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng nhằm xác định sự tồn tại của dấu hiệu tội phạm, từ đó quyết định có khởi tố hay không Mục tiêu của quá trình này là phát hiện và điều tra tội phạm kịp thời, hạn chế tình trạng bỏ lọt tội phạm, đồng thời bảo đảm nguyên tắc không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người vô tội.

1.2 Khái niệm “Người bị hại”

Trong lĩnh vực tố tụng hình sự, thuật ngữ "người bị hại" không được thống nhất giữa các quốc gia Ví dụ, pháp luật tố tụng hình sự của Pháp, Nga và Việt Nam đều sử dụng thuật ngữ này, trong khi đó, Trung Quốc lại gọi là "người tố cáo" Thực tế này cho thấy sự khác biệt trong cách định nghĩa và nhận diện vai trò của người bị hại trong các hệ thống pháp luật khác nhau.

“người bị thiệt hại”, hay gọi là “nạn nhân”, hay “dân sự nguyên cáo”

Như vậy, ngay từ cách gọi đã có nhiều sự khác nhau dẫn đến nhận thức về khái niệm “người bị hại” không có sự thống nhất

1 Theo bài viết trên trang https://nganhangphapluat.thukyluat.vn

Trong bài viết “Người bị hại trong tố tụng hình sự” của Ths Lê Tiến Châu, được trích dẫn từ trang https://thegioiluat.vn, tác giả phân tích vai trò và quyền lợi của người bị hại trong quá trình tố tụng hình sự Theo Khoản 1 Điều 39 BLTTHS 1988, người bị hại có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại và tham gia vào các hoạt động tố tụng để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình Bài viết nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền lợi của người bị hại trong hệ thống pháp luật Việt Nam.

Bộ luật TTHS 1988 quy định về khái niệm “Người bị hại” tại Khoản 1 Điều 39 như sau:

Người bị hại là cá nhân chịu thiệt hại về thể chất, tinh thần hoặc tài sản do hành vi phạm tội gây ra Khi Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 được ban hành, khái niệm “Người bị hại” vẫn được giữ nguyên, chỉ khác biệt về cách diễn đạt Cụ thể, Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của người bị hại trong quá trình tố tụng.

“Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra.” 4

Bộ luật TTHS 2015, có hiệu lực từ ngày 1/7/2016, đã mang đến sự thay đổi quan trọng trong khái niệm về “Người bị hại”, chuyển sang sử dụng thuật ngữ “Bị hại” Theo khoản 1 Điều 62, khái niệm này được quy định rõ ràng, đánh dấu một bước tiến trong việc bảo vệ quyền lợi của các nạn nhân trong quá trình tố tụng hình sự.

Bị hại là cá nhân hoặc tổ chức trực tiếp chịu thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra hoặc bị đe dọa.

Theo quy định mới của BLTTHS 2015, "Người bị hại" không chỉ là cá nhân mà còn bao gồm cả cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản và uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa Đây là một bước tiến quan trọng, phản ánh sự thay đổi tích cực trong xã hội và xu hướng hội nhập toàn cầu Việc công nhận pháp nhân và tổ chức là người bị hại trong luật TTHS của Việt Nam phù hợp với quy định của nhiều nước phát triển trên thế giới.

Tóm lại, ngày nay khái niệm “Người bị hại” dễ hiểu và chính xác nhất được quy định tại Khoản 1 Điều 62 BLTTHS 2015 như sau:

Bị hại là cá nhân hoặc tổ chức chịu thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do hành vi phạm tội gây ra hoặc bị đe dọa.

1.3 “Khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại” được hiểu như thế nào?

Theo một số bài viết trên mạng “Khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại” được hiểu như sau: 7

3 Theo Khoản 1 Điều 39 BLTTHS 1988 ( trang http://moj.gov.vn )

4 Theo Khoản 1 Điều 51 BLTTHS 2003 ( trang http://moj.gov.vn )

5 Theo Khoản 1 Điều 62 BLTTHS 2015 ( trang https://thukyluat.vn )

6 Theo Khoản 1 Điều 62 BLTTHS 2015 ( trang https://thukyluat.vn )

7 Trích bài viết “Bình luận quy định về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại” trên trang http://tongdaituvanluat.vn

Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại là một trường hợp đặc biệt, trong đó cơ quan có thẩm quyền không tự ý quyết định khởi tố vụ án Việc này được thực hiện nhằm bảo vệ lợi ích của người bị hại, thể hiện sự quan tâm đến tính chất của vụ án.

Khởi tố vụ án hình sự là nhiệm vụ của cơ quan tiến hành tố tụng, không ai có quyền can thiệp khi có dấu hiệu tội phạm Tuy nhiên, việc xử lý tội phạm cũng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, công dân Trong một số trường hợp, việc xử lý này có thể ảnh hưởng đến lợi ích của cá nhân, cơ quan, tổ chức Do đó, quyền quyết định khởi tố vụ án hình sự thuộc về cá nhân, tổ chức bị hại, thể hiện sự công bằng của Luật hình sự Việt Nam Quyền này của "Người bị hại" được quy định rõ ràng trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

Quy định của Bộ luật TTHS về khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại

2.1 “Khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại” được quy định như thế nào trong BLTTHS?

Theo Khoản 1 Điều 105 BLTTHS 2003 quy định:

“Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều 104, 105, 106, 108,

Theo Bộ luật hình sự, các điều 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 chỉ được khởi tố khi nhận được yêu cầu từ người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại, đặc biệt là đối với người chưa thành niên hoặc những người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.

Theo Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, có 11 tội phạm chỉ được khởi tố khi có yêu cầu từ người bị hại, bao gồm: tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe của người khác, tội cố ý gây thương tích trong trạng thái bị kích động mạnh, tội cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, và tội vô ý gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe của người khác.

8 Theo Khoản 1 Điều 105 BLTTHS 2003 ( trang http://moj.gov.vn )

Việc vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính có thể dẫn đến 11 tổn hại nghiêm trọng cho sức khỏe của người khác, bao gồm các tội danh như hiếp dâm, cưỡng dâm, làm nhục người khác, vu khống, xâm phạm quyền tác giả (theo Điều 131 BLHS 2003 đã bị bãi bỏ theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự 2009), và xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp.

Cho đến khi BLTTHS 2015 được ban hành, thì tại khoản 1 Điều 155 BLTTHS

Năm 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự đã loại bỏ tội xâm phạm quyền tác giả khỏi danh sách các tội phạm có thể khởi tố theo yêu cầu của bị hại Cụ thể, Điều 55 BLTTHS 2015 quy định rằng việc khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu bị hại chỉ áp dụng cho các hành vi phạm tội được nêu tại khoản 1 của các điều luật hình sự, tức là chỉ những tội phạm ở mức độ nguy hiểm thấp nhất, ít nghiêm trọng và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự mới có thể được khởi tố.

Theo Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) 2015, quyền yêu cầu khởi tố thuộc về "bị hại hoặc người đại diện của bị hại" trong các trường hợp như người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất, hoặc đã chết Quy định này đã cải thiện so với BLTTHS 2003, cho phép người đại diện của bị hại đã chết có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, điều mà BLTTHS 2003 không quy định.

Theo Khoản 2,3 Điều 155 BLTTHS 2015 quy định:

Trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, vụ án sẽ được đình chỉ, trừ khi có chứng cứ cho thấy người đó bị ép buộc hoặc cưỡng bức rút yêu cầu Nếu phát hiện có sự ép buộc, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.

3 Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.” 10

BLTTHS 2015 đã thay đổi quy định về thời điểm rút yêu cầu khởi tố vụ án, cho phép bị hại rút yêu cầu trong và sau phiên tòa xét xử sơ thẩm Ngoài ra, luật cũng xác định rõ hai chủ thể có quyền yêu cầu và rút yêu cầu, bao gồm bị hại và người đại diện Khoản 2,3 Điều 155 BLTTHS 2015 thể hiện sự tiến bộ trong quy định này.

9 Điều 155 BLTTHS 2015 ( trang https://thukyluat.vn )

10 Theo Khoản 2,3 Điều 155 BLTTHS 2015 ( trang https://thukyluat.vn )

Các quy định tại Khoản 2 Điều 105 BLTTHS 2003 đã được cụ thể hóa và chi tiết hơn so với luật cũ, tuy nhiên vẫn tồn tại một số vướng mắc và bất cập trong quá trình áp dụng thực tiễn Những vấn đề này sẽ được phân tích trong các phần tiếp theo.

2.2 Các trường hợp chỉ được khởi tố theo yêu cầu của bị hại Đối với các trường hợp gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe bị hại ( theo quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139 của Bộ luật hình sự 2015 ): Khi mức độ thiệt hại không quá lớn thì giữa hai bên có thể tự thỏa thuận, hòa giải để khắc phục hậu quả mà không cần sự can thiệp của các cơ quan chức năng, khi bị hại thấy lợi ích của mình đã được bảo đảm thì sẽ không yêu cầu khởi tố vụ án hình sự Nếu mức độ thiệt hại về sức khỏe quá lớn , hai bên không tìm được tiếng nói chung thì bị hại có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự để đòi lại công bằng Như vậy, việc quy định các trường hợp trên chỉ được khởi tố khi có yêu cầu bị hại, giúp bị hại có được những sự lựa chọn nhất định nhằm đảm bảo tối ưu quyền và lợi ích hợp pháp của mình Đối với các trường hợp về hiếp dâm, cưỡng bức, làm nhục bị hại ( Theo quy định tại khoản 1 các điều 143,155,156 của BLHS 2015) Việc khởi tố vụ án hình sự, đôi khi sẽ ảnh hưởng rất xấu tới cuộc sống sau này của bị hại, mặc dù có những phiên tòa xét xử không công khai nhưng qua các phiên tòa như vậy, sẽ làm cho nổi đau, mất mát của bị hại ngày càng nặng hơn Khi bị hại cảm thấy việc trừng trị tên tội phạm chỉ làm cho tình hình trở nên tồi tệ, nổi ám ảnh ngày một khắc sâu thì có thể không yêu cầu khởi tố vụ án Đây là một quy định thể hiện sự nhân đạo của pháp luật hình sự Việt Nam Đối với trường hợp xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ( theo quy định tại khoản

Điều 226 của Bộ luật Hình sự 2015 quy định rằng pháp luật hình sự Việt Nam bảo vệ các nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý đã được đăng ký Chủ sở hữu các nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý có quyền tự quyết định khi có hành vi xâm phạm đến quyền lợi của mình.

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO YÊU CẦU CỦA NGƯỜI BỊ HẠI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN IAGRAI 13 1 Giới thiệu về Tòa án nhân dân huyện IaGrai

Tòa án nhân dân Việt Nam

Tòa án nhân dân Việt Nam là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, gồm bốn cấp: Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, và Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh Trong đó, Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh là cấp xét xử thấp nhất trong hệ thống tòa án.

Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương có nhiệm vụ và quyền hạn thực hiện xét xử sơ thẩm các vụ việc và giải quyết các công việc khác theo quy định của pháp luật.

Tòa án nhân dân cấp huyện, quận, thị xã và thành phố thuộc tỉnh có thể bao gồm các Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa gia đình và người chưa thành niên, cùng với Tòa xử lý hành chính Trong trường hợp cần thiết, Ủy ban thường vụ Quốc hội có quyền quyết định thành lập các Tòa chuyên trách khác theo đề xuất của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Tòa án nhân dân cấp huyện, quận, thị xã và thành phố thuộc tỉnh bao gồm các vị trí như Chánh án, Phó Chánh án, Chánh tòa, Phó Chánh tòa, Thẩm phán, Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên về thi hành án, cùng với các công chức và người lao động khác.

Tòa án nhân dân huyện IaGrai

1.2.1 Địa chỉ liên hệ Địa điểm trụ sở chính: 286 Hùng Vương, thị trấn Ia Kha, huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai Điện thoại: 02693844339

1.2.2 Quá trình thành lập và phát triển

Toà án nhân dân huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai, trước đây là Toà án nhân dân huyện Chư Păh Năm 1996, huyện Chư Păh đã được tách ra, dẫn đến sự hình thành của huyện Ia Grai.

11 Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia( trang web https://vi.wikipedia.org )

12 Điều 44 Luật tổ chức tòa án nhân dân 2014

13 Điều 45 Luật tổ chức tòa án nhân dân 2014

Huyện Chư Păh và huyện Ia Grai đã được chia tách, trong đó Toà án nhân dân huyện Chư Păh đã được đổi tên thành Toà án nhân dân huyện Ia Grai và duy trì tên gọi này cho đến hiện tại.

1.2.3 Những đặc điểm chính của địa phương:

Huyện Ia Grai được thành lập theo Nghị định số 70/CP ngày 11-11-1996, tách ra từ huyện Chư Păh, với diện tích 1122,29 km² và dân số khoảng 82.835 người (theo thống kê năm 2008), trong đó hơn 50% là đồng bào dân tộc thiểu số, chủ yếu là người Jrai Ia Grai nằm ở phía Tây tỉnh Gia Lai, với huyện lỵ là thị trấn Ia Kha Huyện này giáp huyện Chư Păh ở phía Bắc, huyện Đức Cơ ở phía Nam, thành phố Pleiku và huyện Chư Prông ở phía Đông, và các huyện khác ở phía Tây.

Sa Thầy, tỉnh Kon Tum; tỉnh Natarakiri Cam Pu Chia (12 km); Đơn vị hành chính cấp xã, trị trấn: 13 (1 thị trấn, 12 xã)

Tòa án nhân dân huyện Ia Grai hiện có 10 biên chế chính thức, bao gồm 5 Thẩm phán, 4 Thư ký Tòa án, 1 cán bộ kế toán, cùng với 3 nhân viên hợp đồng Trong đó, Tòa án có 1 Chánh án và 1 Phó Chánh án.

1.2.5 Về trình độ chuyên môn và trình độ chính trị: Đơn vị có 02 đồng chí thạc sỹ Luật, 07 đồng chí Cử nhân Luật, 01 đồng chí trung cấp kế toán Đồng chí Chánh án có trình độ cao cấp chính trị và 09 đồng chí có trình độ trung cấp chính trị

1.2.6 Về cơ sở vật chất:

Cơ sở vật chất và trang thiết bị kỹ thuật của Tòa án được đầu tư bởi ngành cấp trên, đáp ứng hiệu quả nhu cầu công tác của đơn vị.

1.2.7 Tổ chức Đảng, tổ chức Công đoàn và tổ chức Đoàn:

Chi bộ Tòa án nhân dân huyện Ia Grai là Chi bộ cơ sở trực thuộc Huyện ủy Ia Grai, toàn đơn vị có 08 đồng chí là Đảng viên

Tổ chức Công đoàn: Công đoàn Tòa án là Công đoàn trực thuộc Liên đoàn Lao động huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai

Tổ chức Đoàn: Chi đoàn Tòa án - Viện kiểm sát - Thanh tra - Tư pháp - Thi hành án là Chi đoàn trực thuộc Huyện đoàn Ia Grai, tỉnh Gia Lai

1.2.8 Chức năng, nhiệm vụ được giao:

Tòa án nhân dân huyện Ia Grai có trách nhiệm xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh doanh thương mại, hôn nhân gia đình và lao động trong khu vực huyện Ia Grai theo quy định pháp luật Ngoài ra, tòa án còn thực hiện các hoạt động ủy thác theo yêu cầu của các đơn vị khác và tham gia vào các công tác chính trị tại địa phương theo sự chỉ đạo của cấp ủy.

1.2.9 Thành tích đạt được trong năm 2017:

Việc xử lý đơn khởi kiện: Đạt tỷ lệ 100% việc giải quyết đơn khởi kiện

Tổng số án thụ lý: 354 vụ, việc

Trong năm 2017, tổng số án được giải quyết là 324 vụ, trong đó án hình sự thụ lý và giải quyết đều đạt 54 vụ, tỷ lệ 100% Án dân sự có 118 vụ thụ lý, giải quyết 96 vụ, đạt tỷ lệ 88% sau khi trừ 9 vụ tạm đình chỉ Án hôn nhân gia đình thụ lý 167 vụ, giải quyết 161 vụ, tỷ lệ 98% sau khi trừ 2 vụ tạm đình chỉ Án kinh doanh thương mại thụ lý 15 vụ, giải quyết 13 vụ, đạt tỷ lệ 87% Không có vụ án lao động và hành chính phát sinh trong năm.

Công tác Thi hành án hình sự ghi nhận tổng số bị án phải ra Quyết định Thi hành án là 113, trong đó tổng số Quyết định đã ban hành cũng đạt 113, đạt tỷ lệ 100%.

Xóa án tích: 01 yêu cầu Đã giải quyết xong, đạt tỷ lệ 100%

Rút ngắn thời gian thử thách án treo: 12 trường hợp Đã giải quyết xong, đạt tỷ lệ 100%

Trong công tác giải quyết đơn thư khiếu nại và tố cáo, đơn vị đã thụ lý 01 đơn khiếu nại và đã giải quyết hoàn toàn 01 đơn, đạt tỷ lệ 100% Không có đơn tố cáo nào phát sinh tại đơn vị Đồng thời, đơn vị thực hiện nghiêm túc chế độ quản lý ngân sách tài chính và công sản, cũng như công tác xây dựng ngành, báo cáo thống kê và đáp ứng đầy đủ các yêu cầu trong việc xây dựng văn bản pháp luật theo quy định.

Công tác Hội thẩm nhân dân: Đoàn Hội thẩm của Toà án nhân dân huyện Ia Grai có

Lãnh đạo Tòa án duy trì mối quan hệ chặt chẽ và thường xuyên giao lưu với 19 vị Hội thẩm nhân dân Để hỗ trợ công việc của các Hội thẩm, Tòa án đã trang bị đầy đủ trang phục, tài liệu pháp luật và tạo điều kiện cho họ tham gia các khóa tập huấn nghiệp vụ do ngành tổ chức.

Biểu đồ: Thống kê số liệu thụ lý và giải quyết vụ án trong năm 2017

Giới thiệu về vị trí thực tập tại Tòa án nhân dân huyện IaGrai

Trong thời gian thực tập tại Tòa án nhân dân huyện IaGrai, tôi được phân công làm việc tại bộ phận Thư ký Tòa án Tại đây, tôi sẽ giới thiệu về chức năng và nhiệm vụ của bộ phận này, cùng với những công việc hàng ngày mà tôi thường đảm nhận.

Như đã nêu ở Chương 1, Tòa án nhân dân huyện IaGrai có 4 Thư kí Tòa án, được phân công làm việc ở 3 phòng khác nhau

Thư ký phiên tòa có nhiệm vụ và quyền hạn thực hiện các hoạt động tố tụng theo quy định của luật tố tụng, đồng thời đảm nhiệm các công việc hành chính, tư pháp và nhiệm vụ khác theo sự phân công của Chánh án Tòa án.

Thư ký Toà án đóng vai trò quan trọng trong các vụ án dân sự và hành chính, với nhiệm vụ được quy định tại Điều 43 của Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 38 của Luật tố tụng hành chính.

14 Điều 92 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014

180 Án Hình sự Án Dân sự Án Hôn nhân gia đình Án Kinh doanh thương mại Án Lao động Án Hành chính Án không giải quyết Án thụ lý

Trước khi khai mạc phiên toà, cần chuẩn bị các công tác nghiệp vụ cần thiết, bao gồm việc phổ biến nội quy phiên toà, báo cáo danh sách những người được triệu tập với Hội đồng xét xử, ghi biên bản phiên toà và thực hiện các hoạt động tố tụng khác theo quy định.

Điều 43 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 38 Luật tố tụng hành chính quy định nhiệm vụ của Thư ký Toà án trong phiên toà xét xử vụ án.

Thư ký Toà án có nhiệm vụ thực hiện các hoạt động nghiệp vụ theo sự phân công của Chánh án, hỗ trợ tổ chức công tác xét xử Công việc bao gồm tiếp nhận và xử lý đơn khởi kiện, đơn yêu cầu, đơn khiếu nại, và tố cáo, cũng như bảo quản hồ sơ vụ án Thư ký còn có trách nhiệm tống đạt giấy tờ, chuẩn bị cho các phiên toà, và hỗ trợ Thẩm phán trong quá trình tố tụng, từ khi được phân công cho đến khi xét xử xong vụ án.

Nhiệm vụ của Thư ký Toà án bao gồm thực hiện các hoạt động hành chính và tư pháp theo chỉ đạo của Chánh án, đồng thời hỗ trợ Thẩm phán và Hội đồng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án.

Thư ký Toà án, với vai trò là người tiến hành tố tụng, thực hiện nhiều hoạt động quan trọng như thu thập và xác minh chứng cứ, xây dựng hồ sơ vụ án, hoà giải trong các vụ án dân sự, chuẩn bị cho phiên xét xử, và thực hiện các thủ tục sau phiên toà Các nhiệm vụ cụ thể bao gồm đóng và ghi bút lục hồ sơ sơ thẩm, ghi biên bản cấp và tống đạt văn bản tố tụng, lấy số thông báo nộp tạm ứng án phí, thụ lý, bản án và quyết định phân công Ngoài ra, Thư ký Toà án còn có trách nhiệm giao văn bản tố tụng, chuyển phát nhanh các tài liệu và vào sổ thụ lý cũng như kết quả xét xử vụ án, lập bản kê tài liệu trong hồ sơ và sắp xếp, kiểm tra hồ sơ.

Thực trạng công tác khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại tại

3.1 Thực trạng áp dụng quy định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại tại TAND huyện IaGrai

Quy định về việc khởi tố chỉ khi có yêu cầu của bị hại là một bước tiến quan trọng trong pháp luật hình sự Mặc dù đã được ghi nhận đầy đủ trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, nhưng vẫn còn nhiều bất cập và vướng mắc trong việc áp dụng các quy định này trong thực tiễn.

Vào ngày 3/4/2012, một nữ sinh lớp 12 tên C.N, đến từ Hải Phòng, đã gửi đơn tố cáo đến cơ quan công an quận Hoàng Mai, cáo buộc ca sĩ Châu Việt Cường đã cưỡng hiếp cô tại nhà riêng của anh vào ngày 9/2/2012.

Vào ngày 5/4, ca sĩ Châu Việt Cường đã thừa nhận trong buổi gặp gỡ phóng viên rằng vào ngày 9/2, anh đã có quan hệ tình dục hai lần với nữ sinh, khẳng định rằng mọi hành động đều hoàn toàn tự nguyện và không có sự ép buộc Đến sáng 7/4, nữ sinh cùng với gia đình đã đến Công an quận Hoàng Mai để xin rút đơn tố cáo đối với Châu Việt Cường.

Mặc dù không rõ sự thật về vụ án giữa ca sĩ Châu Việt Cường và gia đình nữ sinh, có thể thấy rằng hai bên đã đạt được thỏa thuận dẫn đến việc rút đơn Điều này cho thấy quy định về “Khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại” không chỉ giúp hai bên tìm được lợi ích chung mà còn hỗ trợ cơ quan tố tụng giải quyết vụ án nhanh chóng và tiết kiệm nguồn lực Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, vẫn còn nhiều khía cạnh tiêu cực cần được xem xét.

“Khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại”

Quy định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, đặc biệt là tội cố ý gây thương tích trong trường hợp "dùng hung khí nguy hiểm" và "có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm", sẽ tác động lớn đến công tác đấu tranh và xử lý tội phạm Điều này đặc biệt quan trọng đối với các tội phạm có tổ chức, mang tính chất côn đồ, hung hãn, và sử dụng hung khí nguy hiểm để thực hiện hành vi phạm tội Đồng thời, cũng cần lưu ý rằng một số hành vi thuộc loại tội ít nghiêm trọng nhưng vẫn có tính chất nguy hiểm cho xã hội không nên bị xem nhẹ.

15 Bài viết “Nữ sinh tố bị ca sĩ cưỡng hiếp rút đơn” trên trang http://anninhthudo.vn

19 kể,xâm phạm quyền sở hữu, có thể giao cho bị hại quyền yêu cầu khởi tố nhưng chưa được quy định trong luật

Chủ thể có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự hiện nay chỉ quy định người bị hại là cá nhân, điều này không phản ánh thực tiễn và thiếu sót trong trường hợp không xác định được người đại diện hợp pháp cho người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần, thể chất Cần có quy định rõ ràng về ai sẽ đại diện cho những đối tượng này thực hiện quyền yêu cầu khởi tố.

Về yêu cầu khởi tố vụ án, pháp luật không quy định thời hạn cụ thể cho người bị hại để yêu cầu khởi tố Ngoài ra, yêu cầu khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự của người bị hại không phải là căn cứ để khởi tố vụ án hình sự, cũng như không đề cập đến hình thức yêu cầu khởi tố.

Việc rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của người bị hại trước khi mở phiên tòa dẫn đến việc vụ án phải được đình chỉ, điều này gây thiệt thòi cho bị can, bị cáo trong việc chứng minh sự vô tội của mình Hơn nữa, việc không chấp nhận yêu cầu rút tại phiên tòa sơ thẩm còn hạn chế quyền tự định đoạt và thỏa thuận giữa bị can, bị cáo và người bị hại.

Trình tự và thủ tục để người bị hại thực hiện việc buộc tội tại phiên tòa gặp nhiều khó khăn, đặc biệt khi họ không có quyền xét hỏi, điều này ảnh hưởng đến phần tranh luận của họ Việc quy định người bị hại trình bày lời buộc tội sau lời bào chữa là bất hợp lý và thiếu sót, đồng thời cũng không có quy định cho phép người bị hại tham gia vào quá trình giải quyết vụ án nhằm bảo vệ yêu cầu khởi tố của mình.

Trong quá trình áp dụng quy định khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại, có nhiều khó khăn và vướng mắc phát sinh Câu hỏi đặt ra là đơn tố cáo hoặc tố giác tội phạm có được xem là đơn yêu cầu khởi tố hay không Người bị hại sẽ gửi đơn yêu cầu khởi tố đến cơ quan điều tra Công an cấp cơ sở nơi xác minh ban đầu Bên cạnh đó, việc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp tội danh nặng hơn hoặc nhẹ hơn cũng gây khó khăn Đối với vụ án có nhiều người bị thiệt hại nhưng chỉ một người yêu cầu, cần xác định liệu những người còn lại có được coi là người bị hại hay không Trong trường hợp có nhiều bị can nhưng người bị hại chỉ rút yêu cầu đối với một người, cần làm rõ liệu chỉ đình chỉ vụ án đối với một người hay tất cả Cuối cùng, việc thông báo kết quả điều tra cho người bị hại cũng cần được thực hiện rõ ràng và minh bạch.

20 vắng mặt trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại có bắt buộc phải hoãn phiên tòa không

Pháp luật Việt Nam xác định khởi tố vụ án hình sự là quyền và trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhằm duy trì trật tự và bảo vệ công lý Quyết định khởi tố không phụ thuộc vào ý muốn cá nhân hay sự đồng ý của người bị hại, mà phải được thực hiện khi có dấu hiệu tội phạm Việc quy định khởi tố theo yêu cầu của người bị hại nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh chống tội phạm trong xã hội.

Tội phạm không chỉ gây thiệt hại về vật chất mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến tinh thần của người bị hại, làm tổn thương cả lợi ích của Nhà nước và xã hội Việc khởi tố hình sự và xử lý người phạm tội, mặc dù cần thiết để duy trì trật tự và mang lại lợi ích cho xã hội, lại có thể gây thêm tổn thương tinh thần cho nạn nhân.

Để hạn chế những trường hợp khởi tố vụ án gây thiệt hại lớn hơn cho lợi ích của người bị hại, quy định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại được thiết lập nhằm đảm bảo quyền lợi cho họ Điều này phản ánh nguyên tắc công bằng trong Luật hình sự Việt Nam, vì khởi tố vụ án trái với ý muốn của người bị hại có thể dẫn đến những mất mát và thiệt hại thêm cho họ Do đó, nhà làm luật đã quy định các trường hợp cụ thể cần khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại.

Mức độ thể hiện ý chí cá nhân trong việc điều chỉnh quan hệ xã hội chỉ được chấp nhận trong giới hạn mà Nhà nước và xã hội quy định Do đó, nhà làm luật đã quy định việc khởi tố vụ án hình sự phải dựa trên yêu cầu của người dân.

21 bị hại chỉ áp dụng đối với một số tội danh nêu ở các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141,

Theo Bộ luật hình sự, các điều 143, 155, 156 và 226 quy định rằng không phải mọi trường hợp vi phạm đều khởi tố theo yêu cầu của người bị hại Việc khởi tố chỉ áp dụng cho các hành vi phạm tội được đề cập ở khoản 1 của các điều luật này, tức là trong trường hợp tội phạm có mức độ nguy hiểm xã hội thấp nhất và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP

Để hoàn thiện quy định pháp luật về khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại một cách chặt chẽ và nhất quán, cần đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục những sai sót và vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật TTHS.

Pháp luật tố tụng hình sự cần quy định rõ ràng về "người có nhược điểm về thể chất và tâm thần", phân loại giữa mất hoàn toàn khả năng nhận thức và hạn chế khả năng nhận thức Điều này giúp đưa ra các quy định phù hợp cho từng trường hợp, tránh tình trạng khó khăn khi có sự không đồng nhất giữa ý chí của người đại diện và bị hại có hạn chế khả năng nhận thức.

Thời hạn yêu cầu khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại cần được quy định rõ ràng trong pháp luật tố tụng hình sự Cụ thể, cần xác định số ngày mà bị hại có quyền khởi tố sau khi nhận được tin báo hoặc tố giác Nếu hết thời hạn mà bị hại không yêu cầu khởi tố, quyền yêu cầu sẽ không còn và vụ án sẽ bị đình chỉ, giúp cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án một cách dễ dàng và hiệu quả hơn.

“treo” khi bị hại không đưa ra quyết định rõ ràng

Các nhà làm luật cần bổ sung quy định về việc trình bày lời buộc tội của bị hại tại phiên tòa, đặc biệt trong các vụ án khởi tố theo yêu cầu của bị hại Điều này bao gồm việc xác định thứ tự trình bày giữa lời buộc tội của bị hại và lời bào chữa của luật sư bị cáo, nhằm đảm bảo các phiên tòa diễn ra suôn sẻ và tránh tình huống lúng túng.

Các nhà làm luật cần quy định chi tiết và ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về việc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, đặc biệt là trong các trường hợp khởi tố theo yêu cầu của bị hại.

Trong trường hợp thay đổi quyết định khởi tố vụ án, có thể xảy ra tình huống vụ án thông thường chuyển sang khởi tố theo yêu cầu của bị hại Việc này phản ánh sự linh hoạt trong quy trình tố tụng hình sự, nhằm đảm bảo quyền lợi cho nạn nhân và thực hiện đúng nguyên tắc công lý.

Trong trường hợp này, cần quy định việc hủy quyết định khởi tố vụ án trước đó của cơ quan điều tra và gửi thông báo đến bị hại để hỏi ý kiến về việc có yêu cầu khởi tố vụ án hay không trong thời hạn quy định Nếu vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại, nhưng trong quá trình điều tra, xác minh lại phát hiện hành vi phạm tội không đúng với yêu cầu khởi tố ban đầu mà thuộc về một tội phạm khác, sẽ cần xem xét lại quy trình khởi tố.

Trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại nhưng trong quá trình điều tra phát hiện hành vi phạm tội không đúng như yêu cầu ban đầu, mà thuộc về một tội phạm khác, cần quy định việc trả đơn yêu cầu khởi tố trước đó của bị hại Thông báo trả đơn phải nêu rõ lý do, sau đó tiến hành ra quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với tội phạm mới phát hiện.

Các nhà làm luật cần thận trọng xem xét và dự liệu các tình huống có thể xảy ra nhằm xây dựng các quy định chặt chẽ và hợp lý, từ đó tránh tình trạng xử lý vụ án và ra quyết định một cách bừa bãi.

Ngày đăng: 28/08/2021, 11:44

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w