1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Thực trạng tranh chấp kinh doanh thương mại tại huyện kbang, tỉnh gia lai

40 7 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 40
Dung lượng 1,01 MB

Cấu trúc

  • 1. Tính cấp thiết của đề tài (6)
  • 2. Tình hình nghiên cứu (6)
  • 3. Phạm vi nghiên cứu (6)
  • 4. Mục đích nghiên cứu (7)
  • 5. Bố cục chuyên đề (7)
  • CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI VÀ CÁC PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT (0)
    • 1.1. KHÁI NIỆM VỀ TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI (8)
    • 1.2. MỘT SỐ DẤU HIỆU ĐẶC TRƯNG CỦA TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI (9)
    • 1.3. ĐẶC ĐIỂM CỦA TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI (10)
    • 1.4. CÁC YÊU CẦU TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI (11)
    • 1.5. Ý NGHĨA CỦA VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI (11)
    • 1.6. CÁC PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI (11)
      • 1.6.1. Phương thức thương lượng (12)
      • 1.6.2. Phương thức hòa giải (14)
      • 1.6.3. Phương thức giải quyết bởi Trọng tài (16)
      • 1.6.4. Phương thức giải quyết bởi Toà án (19)
  • CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ TRANH CHẤP KINH (0)
    • 2.1. TÌNH HÌNH GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI TẠI TAND HUYỆN KBANG TRONG 5 NĂM GẦN ĐÂY (2014 – 2018) (23)
    • 2.2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG LUẬT VÀ NHỮNG VƯỚNG MẮC TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI TẠI TAND HUYỆN (23)
      • 2.2.1. Thực trạng áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại TAND huyện Kbang (23)
      • 2.2.2. Những vướng mắc trong quy định của pháp luật về xác định thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại (25)
    • 2.3. NHỮNG HẠN CHẾ TRONG THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP (26)
    • 2.4. NHẬN XÉT CHUNG VỀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KBANG (27)
    • 3.1. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN CỦA TOÀ ÁN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI ĐỀ TÀI ĐƯA RA MỘT SỐ KIẾN NGHỊ (30)
    • 3.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI (34)
  • KẾT LUẬN (38)

Nội dung

Tính cấp thiết của đề tài

Các hoạt động kinh tế đóng vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của xã hội, tuy nhiên, chúng cũng dẫn đến mâu thuẫn và tranh chấp do nhiều nguyên nhân khác nhau Với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, số lượng tranh chấp trong kinh doanh ngày càng gia tăng và trở nên phức tạp hơn Do đó, việc giải quyết các tranh chấp này là cần thiết để duy trì một môi trường kinh doanh lành mạnh Nhà nước đã ban hành hệ thống quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ kinh tế và thông qua các cơ quan chức năng hoặc tổ chức được pháp luật công nhận để giải quyết các mâu thuẫn phát sinh.

Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại là một vấn đề quan trọng cần thực hiện đúng đắn và kịp thời để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan, đồng thời đảm bảo môi trường kinh doanh lành mạnh và an ninh quốc gia Trong bối cảnh kinh tế phát triển hiện nay, việc này ngày càng trở nên cấp thiết Do đó, tôi đã chọn đề tài “Thực trạng giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại huyện Kbang, tỉnh Gia Lai” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.

Tình hình nghiên cứu

Trong thời kỳ hội nhập, hoạt động kinh doanh và thương mại trở nên phong phú và đa dạng, dẫn đến sự gia tăng số lượng và độ phức tạp của các tranh chấp Trước đây, tranh chấp chủ yếu liên quan đến mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ, nhưng hiện nay đã xuất hiện nhiều loại tranh chấp mới như mua bán và nhượng quyền thương mại Khi nền kinh tế thị trường phát triển và lợi nhuận được đặt lên hàng đầu, lĩnh vực kinh doanh thương mại thu hút nhiều chủ thể, đồng thời cũng tiềm ẩn nguy cơ phát sinh tranh chấp do sự cạnh tranh giữa các bên Vì vậy, các vấn đề liên quan đến tranh chấp kinh doanh và thương mại đang thu hút sự quan tâm của nhiều người.

Trong bối cảnh phát triển kinh tế mạnh mẽ của huyện Kbang trong những năm gần đây, đã xuất hiện nhiều mô hình doanh nghiệp đa dạng hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau Sự gia tăng này đã dẫn đến một số lượng và độ phức tạp của các tranh chấp kinh doanh, thương mại trên địa bàn Do đó, việc giải quyết các tranh chấp này trở thành một yêu cầu cấp thiết không chỉ cho huyện Kbang mà còn cho toàn quốc.

Mục đích nghiên cứu

Bài viết này nhằm mô tả thực trạng và việc áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại huyện Kbang Dựa trên tình hình thực tiễn và kinh nghiệm từ quá trình thực tập, tôi đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp tại Tòa án nhân dân huyện Kbang.

Bố cục chuyên đề

Nội dung chuyên đề được trình bày như các chương sau:

Chương 1: Khái quát về tranh chấp kinh doanh thương mại và các phương thức giải quyết

Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về tranh chấp kinh doanh thương mại tại tòa án nhân dân huyện kbang, tỉnh gia lai

Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về tranh chấp kinh doanh thương mại tại TAND huyện kbang

KHÁI QUÁT VỀ TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI VÀ CÁC PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT

KHÁI NIỆM VỀ TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI

Nền kinh tế Việt Nam hiện nay hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kết hợp giữa nguyên tắc thị trường và bản chất của chủ nghĩa xã hội Điều này thể hiện rõ qua ba khía cạnh: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối Trong bối cảnh thị trường, sự tham gia của các thành phần kinh tế với mục tiêu lợi nhuận dẫn đến xung đột về lợi ích giữa các chủ thể kinh doanh Do đó, cần áp dụng các biện pháp giải quyết tranh chấp hiệu quả để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, ổn định quan hệ kinh tế và tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội.

Trong văn học thuật, tranh chấp kinh tế và tranh chấp kinh doanh có những khái niệm khác nhau Tại Việt Nam, giới khoa học pháp lý đã đưa ra nhiều quan điểm về tranh chấp kinh tế Một số ý kiến cho rằng tranh chấp kinh doanh thương mại là sự bất đồng về một sự kiện pháp lý, thể hiện sự mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, quyền và nghĩa vụ giữa các bên tham gia quan hệ kinh doanh Trong khi đó, một quan điểm khác định nghĩa tranh chấp kinh doanh thương mại là những mâu thuẫn liên quan đến quyền lợi và lợi ích kinh tế của cá nhân và tổ chức trong các quan hệ kinh tế.

Thuật ngữ “tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh, thương mại” hay “tranh chấp thương mại” được định nghĩa khác nhau trong các văn bản pháp luật điều chỉnh giải quyết tranh chấp Hiện nay, các văn bản này tiếp cận khái niệm này bằng cách liệt kê các tranh chấp thuộc thẩm quyền của cơ quan tài phán Theo Điều 26 BLTTDS 2015, có ba nhóm tranh chấp về kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền của Tòa án.

Các tranh chấp thường xảy ra trong hoạt động kinh doanh và thương mại giữa các cá nhân và tổ chức đã đăng ký kinh doanh, với mục đích tạo ra lợi nhuận.

Nguyễn Thị Kim Vinh đã thực hiện luận án tiến sĩ luật học với chủ đề "Pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế bằng con đường Tòa án ở Việt Nam" tại Viện Nhà nước và pháp luật, Hà Nội vào năm 2002 Luận án này nghiên cứu các quy định pháp lý liên quan đến việc giải quyết tranh chấp kinh tế thông qua hệ thống Tòa án, góp phần nâng cao hiểu biết về quy trình và hiệu quả của việc áp dụng pháp luật trong lĩnh vực kinh tế tại Việt Nam.

Đào Văn Hội đã hoàn thành luận án tiến sĩ luật học với đề tài "Giải quyết tranh chấp kinh tế trong điều kiện kinh tế thị trường tại Việt Nam" tại Trường đại học luật Hà Nội vào năm 2003.

- Tranh chấp về quyền sỡ hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa các nhân, tổ chức với nhau và điều có mục đích lợi nhuận

- các tranh chấp phát sinh trong nội bộ công ty và các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định

Luật TTTM 2010 quy định rằng trọng tài có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp thương mại khi có thỏa thuận hợp pháp giữa các bên Khái niệm "hoạt động thương mại" được định nghĩa trong LTM 2005 rất rộng, bao gồm mọi hoạt động có mục đích sinh lợi Cụ thể, theo khoản 1 điều 3 LTM 2005, hoạt động thương mại bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động sinh lợi khác.

Tranh chấp kinh doanh thương mại được định nghĩa là những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình thực hiện các hoạt động kinh doanh và thương mại giữa các bên liên quan.

MỘT SỐ DẤU HIỆU ĐẶC TRƯNG CỦA TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI

Tranh chấp kinh doanh và thương mại phát sinh từ các mối quan hệ kinh doanh và gắn liền với hoạt động thương mại Những tranh chấp này là hệ quả của sự tương tác giữa các chủ thể kinh doanh hoặc giữa các bên liên quan trong quá trình thực hiện các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi.

Tranh chấp có thể xảy ra trong nhiều lĩnh vực như sản xuất, mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư chứng khoán, sở hữu trí tuệ, và các hoạt động sinh lợi khác.

Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh và thương mại là vấn đề do các bên tự quyết định, với nguyên tắc Nhà nước không can thiệp trừ khi xâm phạm trật tự công cộng hoặc khi các bên không thể tự thương lượng Tranh chấp phát sinh từ quan hệ tự nguyện, bình đẳng giữa các bên, vì vậy họ có quyền tự lựa chọn phương thức giải quyết, thương lượng và hòa giải, ngay cả khi vụ việc đã được đưa ra cơ quan tài phán.

Theo định nghĩa, tranh chấp thương mại không bao gồm tất cả các loại tranh chấp có thể được trọng tài giải quyết theo điều 2 của luật TTTM 2010 Theo quy định tại điều 2, các tranh chấp có thể được giải quyết bởi trọng tài chỉ bao gồm những tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại.

Trong tranh chấp kinh doanh, các bên thường là chủ thể kinh doanh có tư cách thương nhân, bao gồm cá nhân và pháp nhân đã đăng ký kinh doanh và được công nhận quyền hoạt động Tuy nhiên, cũng có thể có tổ chức hoặc cá nhân không phải chủ thể kinh doanh nhưng có hoạt động liên quan đến thương mại Những người kinh doanh thường hiểu biết về pháp luật và tập quán thương mại, coi trọng chữ tín và duy trì mối quan hệ hợp tác Vì vậy, giải quyết tranh chấp bằng phương thức hòa bình như thương lượng hoặc hòa giải thường là lựa chọn hiệu quả cho các bên.

Thứ tư, tranh chấp kinh doanh, thương mại là những tranh chấp mang yếu tố vật chất và thường có giá trị lớn

Tranh chấp kinh doanh và thương mại xuất phát từ xung đột lợi ích kinh tế giữa các bên trong mối quan hệ kinh tế cụ thể Đặc điểm nổi bật của tranh chấp này là yếu tố vật chất và lợi ích kinh tế, giúp phân biệt chúng với các loại tranh chấp khác trong xã hội Trong cơ chế thị trường, giá trị tranh chấp có thể rất lớn và liên quan đến nhiều chủ thể khác nhau Do đó, cần có cơ chế giải quyết tranh chấp nhanh chóng, hiệu quả để bảo vệ quyền lợi kinh tế của các bên liên quan một cách kịp thời.

Nếu tranh chấp không được giải quyết triệt để, hậu quả có thể dẫn đến tổn thất dây chuyền, ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh của các bên liên quan, cũng như tác động tiêu cực đến lợi ích của nhà đầu tư, người lao động, khách hàng và gây xáo trộn đời sống kinh tế xã hội.

ĐẶC ĐIỂM CỦA TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI

Các tranh chấp thương mại nhìn chung có những đặc điểm sau đây:

Các tranh chấp trong kinh doanh thường phát sinh từ những yếu tố cơ bản như mục đích sinh lợi, yêu cầu về thời cơ kinh doanh và việc giữ bí mật thông tin liên quan đến hoạt động kinh doanh.

Tranh chấp kinh doanh thương mại thường xảy ra giữa các doanh nghiệp, nhưng cũng có thể phát sinh giữa các bên có ít nhất một bên tham gia hoạt động thương mại Những tranh chấp này có thể được giải quyết theo quy định của Luật Thương mại 2010 hoặc liên quan đến các vấn đề nội bộ trong công ty, như tranh chấp giữa các thành viên hoặc giữa thành viên và công ty về việc thành lập, hoạt động, giải thể, hoặc tổ chức lại công ty Theo Luật Thương mại 2005, hoạt động thương mại được định nghĩa rộng rãi, bao gồm cả các hoạt động đầu tư, do đó, tranh chấp nội bộ cũng được xem là tranh chấp về hoạt động kinh doanh thương mại theo quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

6 công ty cũng được coi là tranh chấp liên quan đến hoạt động đầu tư và vì thế cũng thuộc phạm trù tranh chấp thương mại

Trong hoạt động thương mại, tranh chấp có thể được giải quyết thông qua nhiều phương thức khác nhau, bao gồm thương lượng, hòa giải và trọng tài Tại Việt Nam, trước khi Luật Thương mại 2010 được ban hành, phương thức trọng tài chỉ áp dụng cho các tranh chấp kinh doanh thương mại Tuy nhiên, theo quy định của Luật Thương mại, các phương thức giải quyết tranh chấp đã được mở rộng để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường.

2010 thì trọng tài cũng có thể giải quyết các tranh chấp khác mà pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài 4

CÁC YÊU CẦU TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI

Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh bao gồm các phương pháp và hoạt động nhằm khắc phục, loại bỏ các tranh chấp đã phát sinh Mục tiêu chính là bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các chủ thể kinh doanh và duy trì trật tự, kỷ cương xã hội.

Các yêu cầu trong giải quyết tranh chấp kinh doanh:

- Nhanh chóng, thuận lợi, không hạn chế, cản trở hoạt động kinh doanh;

- Khôi phục và duy trì các quan hệ hợp tác, tín nhiệm giữa các bên trong kinh doanh

- Giữ bí mật kinh doanh và uy tín của các bên trên thương trường;

- Phán quyết phải chính xác và có khả năng thi hành cao.

Ý NGHĨA CỦA VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI

Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh bao gồm các phương pháp và hoạt động nhằm khắc phục, loại trừ các tranh chấp đã phát sinh, từ đó bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các chủ thể kinh doanh và duy trì trật tự xã hội.

Các yêu cầu trong giải quyết tranh chấp kinh doanh:

- Nhanh chóng, thuận lợi, không hạn chế, cản trở hoạt động kinh doanh;

- Khôi phục và duy trì các quan hệ hợp tác, tín nhiệm giữa các bên trong kinh doanh

- Giữ bí mật kinh doanh và uy tín của các bên trên thương trường;

- Phán quyết phải chính xác và có khả năng thi hành cao.

CÁC PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI

Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh là quy trình và phương pháp nhằm khắc phục và loại bỏ các tranh chấp phát sinh, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các doanh nghiệp và duy trì trật tự xã hội.

Các yêu cầu trong giải quyết tranh chấp kinh doanh:

- Nhanh chóng, thuận lợi, không hạn chế, cản trở hoạt động kinh doanh;

- Khôi phục và duy trì các quan hệ hợp tác, tín nhiệm giữa các bên trong kinh doanh

- Giữ bí mật kinh doanh và uy tín của các bên trên thương trường;

- Phán quyết phải chính xác và có khả năng thi hành cao

1.5 Ý NGHĨA CỦA VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI

Giải quyết các mâu thuẫn và bất đồng giữa các bên là cần thiết để tạo ra sự cân bằng lợi ích chấp nhận được cho tất cả Việc này giúp xóa bỏ xung đột lợi ích và thiết lập lại mối quan hệ hài hòa giữa các bên liên quan.

Đảm bảo lợi ích giữa các chủ thể trong kinh doanh và giữa công nhân theo quy định của pháp luật là rất quan trọng, góp phần thiết lập sự cân bằng và duy trì trật tự, kỷ cương trong xã hội.

- Giải quyết nhanh chóng, thuận tiện là điều kiện để tạo dựng môi trường kinh doanh lành mạnh, đảm bảo các quyền tự do của công dân;

Giải quyết tranh chấp không chỉ giúp đánh giá việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn kinh doanh mà còn chỉ ra những bất cập hiện có, từ đó định hướng cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về hoạt động kinh doanh, tạo ra hành lang pháp lý thuận lợi cho sự phát triển kinh tế.

1.6 CÁC PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI

Tranh chấp kinh doanh thương mại cần được giải quyết hợp lý để bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan, nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật trong cộng đồng và ngăn ngừa vi phạm pháp luật trong hoạt động thương mại Việc này không chỉ đảm bảo trật tự pháp lý mà còn củng cố kỷ cương xã hội Hiện nay, có nhiều phương thức để giải quyết tranh chấp thương mại, bao gồm thương lượng, hòa giải và trọng tài.

Theo Khoản 3 Điều 2 Luật Thương mại 2010 và Điều 107 Luật Doanh nghiệp 2005, một số tranh chấp có thể được giải quyết bằng trọng tài, bao gồm yêu cầu hủy quyết định của đại hội đồng cổ đông, thành viên hội đồng quản trị, giám đốc hoặc tổng giám đốc, cũng như ban kiểm soát của công ty cổ phần.

Có bảy phương thức giải quyết tranh chấp bao gồm hòa giải, trọng tài thương mại và tòa án, mỗi phương thức có đặc điểm pháp lý, thủ tục và trình tự tiến hành khác nhau Các bên có quyền tự do lựa chọn phương thức phù hợp dựa trên lợi ích mà mỗi phương thức mang lại, mức độ tương thích với nội dung và tính chất của tranh chấp, cũng như thiện chí của các bên liên quan.

1.6.1 Phương thức thương lượng a Khái niệm phương thức thương lượng

Thương lượng là quá trình bàn bạc giữa các bên nhằm đạt được thỏa thuận giải quyết vấn đề, là hình thức giải quyết tranh chấp không chính thức mà không cần sự can thiệp của cơ quan nhà nước hay bên thứ ba Phương thức này thể hiện quyền tự do thỏa thuận và định đoạt của các bên, thường được quy định trong hợp đồng khi có vi phạm Theo Điều 329 Luật Thương mại, tranh chấp thương mại phải được giải quyết qua thương lượng trước tiên, tuy nhiên, quy định này mang tính tùy nghi và không phải là bắt buộc Lịch sử hình thành và phát triển của phương thức thương lượng cho thấy sự linh hoạt và hiệu quả trong việc giải quyết xung đột.

Phương thức giải quyết tranh chấp thông qua thương lượng trong kinh doanh thương mại đã tồn tại từ khi có các giao dịch thương mại, và việc tự dàn xếp giữa các bên khi xảy ra tranh chấp là điều tự nhiên, thường được áp dụng như bước đầu tiên Ngày nay, phương thức này được sử dụng hiệu quả, đặc biệt khi các bên muốn duy trì mối quan hệ đối tác lâu dài Tuy nhiên, do tính tự nguyện của phương thức này, hầu như không có quy định pháp luật cụ thể về cách thức và trình tự thực hiện, mặc dù pháp luật và Tòa án khuyến khích việc sử dụng nó Điều 241 LTM 1997 quy định thời hạn khiếu nại đối với hành vi vi phạm hợp đồng, khuyến khích các bên thực hiện khiếu nại và tự dàn xếp để giải quyết tranh chấp Trong khi đó, LTM 2005 đã không tiếp tục yêu cầu các bên phải thực hiện quyền khiếu nại trong thời hạn luật định nếu không muốn mất quyền khởi kiện.

Quy định hiện hành của LTM 2005 giới hạn thời gian mà các bên có thể thương lượng trước khi đưa tranh chấp ra tòa án hoặc trọng tài, đồng thời khuyến khích họ nhanh chóng giải quyết bất đồng Tại Vương quốc Anh, Chánh án Tòa Án Tối cao đã ban hành hướng dẫn năm 1995 yêu cầu đại diện pháp lý của doanh nghiệp xác nhận các bên đã hiểu rõ phương thức giải quyết tranh chấp ngoài tòa án trước khi khởi kiện Tòa án khuyến khích việc sử dụng các phương pháp giải quyết tranh chấp ngoài tòa án, và theo quy tắc Tố tụng dân sự, các thẩm phán có quyền yêu cầu các bên nỗ lực giải quyết tranh chấp ngoài tòa.

Các bên tranh chấp nên tự thỏa thuận để tìm giải pháp một cách tự nguyện và hợp tác, không cần sự tham gia của bên thứ ba Trong quá trình thương lượng, các bên có thể trình bày quan điểm và tìm hiểu nguyên nhân của tranh chấp để hướng đến giải pháp chấm dứt xung đột Tuy nhiên, nếu không đạt được thỏa thuận, tình hình có thể trở nên trầm trọng hơn và phát sinh thêm tranh chấp khác Trong trường hợp thương lượng không thành công, các bên có thể lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp khác phù hợp để xử lý vấn đề.

Các bên tự nguyện thực hiện phương án giải quyết tranh chấp đã chọn vào thứ hai, điều này vừa mang lại ưu điểm vừa có nhược điểm Ưu điểm là các bên có thể dễ dàng thực hiện thỏa thuận vì họ tự nguyện đạt được sự đồng thuận Tuy nhiên, việc thực hiện kết quả thương lượng phụ thuộc hoàn toàn vào sự hợp tác và thiện chí của các bên Dù kết quả thường được ghi nhận bằng văn bản như một thỏa thuận hợp pháp, nhưng nếu một bên không tự nguyện thực hiện các điều khoản đã cam kết, thỏa thuận đó sẽ không có giá trị bắt buộc Như vậy, tính tự nguyện trong việc thi hành phương án giải quyết tranh chấp mà không có sự hỗ trợ của bên thứ ba có quyền lực pháp định trở thành nhược điểm của phương pháp này.

Hầu hết các hệ thống pháp luật không quy định rõ ràng về trình tự và thủ tục trong phương thức giải quyết tranh chấp thông qua thương lượng Điều này phản ánh bản chất tự nguyện của quá trình thương lượng, nơi các bên tự do lựa chọn cách thức và nội dung giải quyết, cũng như thực hiện các thỏa thuận đã đạt được.

 Ưu điểm của phương thức thương lượng

- Không đòi hòi thủ tục phức tạp;

- Không bị ràng buộc bởi các thủ tục pháp lý ngặt nghèo;

- Hạn chế tối đa chi phí;

- Ít phương hại đến mối quan hệ giữa các bên;

- Giữ được bí mật kinh doanh

Phương thức thương lượng có nhược điểm là yêu cầu cả hai bên phải có thiện chí và trung thực, đồng thời thể hiện tinh thần hợp tác cao Nếu không đạt được những yếu tố này, quá trình thương lượng sẽ không thành công và các bên sẽ phải tìm kiếm phương thức giải quyết khác.

1.6.2 Phương thức hòa giải a Khái niệm hòa giải

Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại với sự tham gia của bên thứ ba, giúp các bên đạt được tiếng nói chung trong việc giải quyết bất đồng Bên thứ ba không có quyền quyết định, mà chỉ hỗ trợ để các bên tìm ra thỏa thuận giải quyết xung đột Qua việc làm việc riêng với từng bên, bên trung gian hòa giải giúp các bên gần gũi hơn với những điểm có thể thỏa hiệp, nhằm đạt được giải pháp chấp nhận được cho tất cả Cuối cùng, các bên tranh chấp sẽ quyết định phương án giải quyết, mặc dù có thể dựa trên đề xuất của bên hòa giải Vai trò của bên thứ ba phải hoàn toàn công bằng và vô tư, không được đưa ra quyết định bắt buộc cho các bên.

THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ TRANH CHẤP KINH

TÌNH HÌNH GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI TẠI TAND HUYỆN KBANG TRONG 5 NĂM GẦN ĐÂY (2014 – 2018)

TẠI TAND HUYỆN KBANG TRONG 5 NĂM GẦN ĐÂY (2014 – 2018)

Trong giai đoạn 2014 – 2018, đơn vị đã thụ lý 73 vụ án tranh chấp kinh doanh thương mại trong tổng số 113 vụ án kinh tế Điều này cho thấy tình hình tranh chấp kinh doanh thương mại ngày càng gia tăng cả về số lượng lẫn mức độ phức tạp, chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số vụ án của đơn vị.

Từ năm 2014 đến năm 2018 đơn vị thụ lý và đưa ra xét xử hơn 288 vụ án Năm

Năm 2014, đơn vị đã thụ lý và xét xử 98 vụ án, tăng so với năm 2015, nhờ vào việc chú trọng công tác chuyên môn, đơn vị đã vượt chỉ tiêu đề ra và được công nhận là tập thể lao động xuất sắc Đến năm 2015, đơn vị tiếp tục thụ lý và xét xử 46 vụ án, đạt tỷ lệ 100%.

Năm 2016, đơn vị đã thụ lý 58 vụ án, tăng 12 vụ so với năm 2015 Trong đó, 34 vụ đã được xét xử và giải quyết, đạt tỷ lệ 94,7% Chất lượng giải quyết vụ án cao, tuân thủ đúng quy định pháp luật, không có bản án nào bị cải sửa hay hủy, và không có án nào quá hạn quy định.

Năm 2017, đơn vị đã thụ lý tổng cộng 62 vụ án, giảm 31 vụ so với 6 tháng đầu năm 2018 Trong đó, đã đưa ra xét xử và giải quyết 34 vụ, đạt tỷ lệ 59,8% Chất lượng giải quyết án đã ổn định hơn so với các năm trước và tuân thủ đúng quy định của pháp luật, không có bản án nào bị cải sửa, hủy, cũng như không có án nào quá hạn quy định.

Dữ liệu cho thấy số vụ án tranh chấp kinh doanh thương mại đang gia tăng qua các năm, đặc biệt là trong ba năm gần đây (2016, 2017, 2018), khi mà tỷ lệ các vụ án này chiếm một phần lớn trong tổng số vụ án được thụ lý.

THỰC TRẠNG ÁP DỤNG LUẬT VÀ NHỮNG VƯỚNG MẮC TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI TẠI TAND HUYỆN

QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI TẠI TAND HUYỆN

2.2.1 Thực trạng áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại TAND huyện Kbang

Toà án là cơ quan tài phán của nhà nước, có nhiệm vụ áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp thương mại giữa các chủ thể khi họ không thể tự hòa giải Khi một bên không đạt được thỏa thuận, họ có quyền làm đơn khởi kiện yêu cầu Toà án can thiệp nhằm bảo vệ quyền lợi của mình Việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền của Toà án được quy định tại Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Năm 2015, giữa các bên không có thỏa thuận giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài Hơn nữa, thẩm quyền giải quyết tranh chấp thương mại tại tòa án được xác định dựa trên cấp độ tòa án, khu vực lãnh thổ và sự lựa chọn của nguyên đơn.

Khi giải quyết tranh chấp thương mại, Toà án có thẩm quyền đóng vai trò là bên thứ ba, thực hiện chức năng tài phán để xử lý yêu cầu tranh chấp Trong quá trình này, Toà án áp dụng pháp luật hiện hành nhân danh quyền lực nhà nước, ban hành bản án hoặc quyết định có giá trị bắt buộc đối với các bên liên quan Bản án và quyết định của Toà án sẽ được cơ quan thi hành án của Nhà nước đảm bảo thực hiện.

Dưới sự lãnh đạo của Tòa án tối cao và Tòa án nhân dân tỉnh, huyện ủy, Tòa án nhân dân huyện đã khắc phục khó khăn, nâng cao trình độ chuyên môn và lý luận chính trị Điều này thể hiện quyết tâm hoàn thành nghĩa vụ, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm trên địa bàn huyện.

Tòa án nhân dân huyện Kbang, nằm ở huyện miền núi Đông Trường Sơn, tỉnh Gia Lai, đã không ngừng nâng cao tổ chức và hoạt động, từng bước hoàn thiện chức năng xét xử theo quy định của hiến pháp và pháp luật Đội ngũ cán bộ, đặc biệt là các lãnh đạo chủ chốt, ngày càng được nâng cao về năng lực và trình độ chuyên môn, đóng góp tích cực cho sự phát triển của Tòa án và huyện Kbang.

Trong công tác xét xử dân sự, Tòa án nhân dân huyện đã tập trung vào hòa giải để đảm bảo quyền tự định đoạt của các bên đương sự Đặc biệt, từ năm 2014, số lượng án tranh chấp kinh doanh thương mại đã tăng đáng kể, và quy trình giải quyết các vụ án này ngày càng được hoàn thiện.

Từ năm 2014 đến 2018, TAND huyện Kbang đã giải quyết tổng cộng 114 vụ tranh chấp kinh doanh thương mại Số lượng vụ việc được giải quyết thay đổi theo từng năm, trong đó có 72 vụ được đưa ra xét xử, chiếm 3.9% Tỷ lệ công nhận sự thỏa thuận của các bên đạt 70%, trong khi tỷ lệ đình chỉ vụ án là 26.1% trên tổng số vụ tranh chấp kinh doanh thương mại được giải quyết.

Việc giải quyết tranh chấp thương mại tại toà án tuân theo thủ tục tố tụng dân sự, đặc biệt là các nguyên tắc cơ bản từ Điều 3 đến Điều 25 của BLTTDS, trong đó nhấn mạnh tính độc lập của thẩm phán và hội thẩm nhân dân (Điều 12) Ngoài pháp luật tố tụng, pháp luật nội dung cũng là nguồn luật quan trọng cho Toà án khi xét xử các tranh chấp thương mại Theo Điều 35 BLTTDS 2015, Toà án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp thương mại dựa trên các văn bản pháp luật chủ yếu làm căn cứ pháp lý.

Các thẩm quyền pháp lý hiện hành bao gồm: Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Thương mại năm 2015, Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014, Luật Chứng khoán năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2010), Luật Sở hữu trí tuệ năm 2013, Luật Xây dựng năm 2014, Luật Doanh nghiệp năm 2014, Luật Đầu tư năm 2014, Luật Đầu tư công năm 2014, và Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010).

Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp thương mại tại Toà án là một quá trình phức tạp, đòi hỏi thẩm phán phải nâng cao chuyên môn và nghiệp vụ để đảm bảo quyền lợi cho các bên liên quan Hiệu quả của việc áp dụng pháp luật phụ thuộc lớn vào chất lượng của các quy định pháp luật hiện hành Do đó, việc hoàn thiện pháp luật thương mại là cần thiết để cung cấp cho Toà án cơ sở pháp lý rõ ràng, hỗ trợ giải quyết các tranh chấp thương mại ngày càng gia tăng trong nền kinh tế thị trường hiện nay.

2.2.2 Những vướng mắc trong quy định của pháp luật về xác định thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại a Thẩm quyền của Tòa án đối với các tranh chấp kinh doanh, thương mại

Việc áp dụng phương pháp liệt kê để xác định TCKDTM có thể dẫn đến tình trạng trùng lặp và thiếu sót, bởi vì nhiều loại dịch vụ thương mại không được đề cập trong điều 30 của luật TTDS.

Năm 2015, tranh chấp phát sinh trong quá trình thành lập và tổ chức hoạt động của nhiều loại hình doanh nghiệp dựa vào vốn góp của các thành viên, như hợp tác xã, trường tư thục, trường dạy nghề và các doanh nghiệp trong lĩnh vực chứng khoán, không được coi là tranh chấp công ty theo Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành, mặc dù bản chất của chúng tương tự như tranh chấp công ty.

Có sự không đồng bộ giữa pháp luật tố tụng và pháp luật nội dung trong quy định về tranh chấp kinh doanh Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) yêu cầu các bên trong tranh chấp phải có đăng ký kinh doanh và mục đích lợi nhuận Tuy nhiên, Nghị quyết 01 lại mở rộng quy định này, cho phép các tranh chấp thương mại, dù một hoặc cả hai bên không có đăng ký kinh doanh nhưng vẫn có mục đích lợi nhuận, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án kinh tế.

Việc xác định mục đích lợi nhuận trong các quan hệ kinh doanh và dân sự còn nhiều bất cập, do tiêu chí lợi nhuận chưa rõ ràng Nếu không có tiêu chí cụ thể để phân biệt, sẽ gây khó khăn trong việc phân loại các tranh chấp Ví dụ, trang thiết bị có thể được sử dụng cho cả mục đích kinh doanh lẫn sinh hoạt, dẫn đến sự chồng chéo giữa tiêu dùng và sản xuất Khi xảy ra tranh chấp, câu hỏi đặt ra là liệu quan hệ này sẽ thuộc về tranh chấp dân sự hay kinh doanh Thêm vào đó, thẩm quyền xét xử của Tòa án cũng cần được làm rõ trong các trường hợp này.

NHỮNG HẠN CHẾ TRONG THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP

Qua nghiên cứu thực trạng giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại của

Trong giai đoạn 2014-2018, TAND huyện Kbang đã hoàn thành nhiệm vụ giải quyết nhiều vụ án, góp phần giải quyết bất đồng trong quan hệ dân sự, nâng cao ý thức pháp luật trong cộng đồng và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân, từ đó ổn định trật tự xã hội Tuy nhiên, trong quá trình xử lý các tranh chấp, đặc biệt là tranh chấp thương mại, TAND huyện Kbang cũng đã bộc lộ một số hạn chế cần khắc phục.

Chất lượng bản án phụ thuộc vào đội ngũ thẩm phán và hội thẩm nhân dân, những người trực tiếp tham gia xét xử Hiện nay, trình độ chuyên môn và kinh nghiệm của các thẩm phán còn hạn chế, dẫn đến nhiều quan điểm khác nhau trong các vụ án tranh chấp Mặc dù bản án được thông qua dựa trên quy định pháp luật, nhưng việc áp dụng vẫn chịu ảnh hưởng từ lăng kính chủ quan của các thành viên hội đồng xét xử Do đó, thẩm phán cần có kiến thức chuyên môn vững vàng, hiểu biết xã hội và lập trường tư tưởng rõ ràng để đánh giá đúng sự thật khách quan Ngoài ra, trong quá trình đình chỉ và tạm đình chỉ vụ án, thường xảy ra thiếu sót như đình chỉ không có căn cứ chính xác hoặc tạm đình chỉ không lý do hợp lý, gây chậm trễ trong giải quyết vụ án.

Một số vụ hòa giải thành công nhưng vẫn gặp vấn đề trong việc thu thập tài liệu và chứng cứ Chẳng hạn, có trường hợp đương sự chỉ cung cấp bản photocopy mà không nộp bản chính có công chứng, dẫn đến việc thiếu tính khách quan và chính xác trong vụ án.

Công tác hòa giải hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn, với nhiều Thẩm phán còn lúng túng trong việc nắm bắt hồ sơ và định hướng giải quyết vụ án Việc giải thích pháp luật vẫn còn sơ sài, và khả năng thuyết phục các đương sự chưa cao Các vụ án thường phức tạp, chịu ảnh hưởng từ quá trình điều tra và thiếu sót trong nghiên cứu hồ sơ, dẫn đến việc xác định tư cách tố tụng không chính xác Điều này cũng làm cho việc viện dẫn điều luật không đầy đủ và vi phạm thời hạn tố tụng Nhiều bản án có chất lượng thấp, nội dung không rõ ràng và có sai sót trong tính án phí Hơn nữa, việc tống đạt tài liệu và cấp bản án thường chậm trễ và thiếu sót.

NHẬN XÉT CHUNG VỀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KBANG

Hệ thống Tòa án tại Việt Nam được tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ, hoạt động độc lập trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại dựa trên nguyên tắc bình đẳng và tự nguyện giữa các bên Thẩm quyền dân sự của Tòa án được thực hiện theo thủ tục tố tụng dân sự, đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc như độc lập, vô tư và khách quan trong xét xử Khi giải quyết tranh chấp, Tòa án cần tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự, với phạm vi quyết định giới hạn bởi yêu cầu và thỏa thuận của họ.

Tòa án nhân dân huyện Kbang có thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại và lao động, trừ những trường hợp có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài, hoặc cần ủy thác tư pháp cho cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài, thì sẽ thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh Các vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện phải tuân theo quy định của pháp luật hiện hành.

Tòa án nhân dân huyện Kbang, thuộc Tòa án tỉnh Gia Lai, đã không ngừng phát triển và khẳng định vị thế vững mạnh kể từ khi thành lập Sự phát triển của huyện Kbang và đất nước đã dẫn đến sự gia tăng đa dạng và phức tạp của các quan hệ xã hội, kéo theo số lượng án tăng lên Để đáp ứng yêu cầu này, Tòa án huyện Kbang đã nỗ lực không ngừng trong việc nâng cao năng lực đội ngũ Thẩm phán và cán bộ công chức Từ năm 1993 đến năm 2010, Tòa án huyện Kbang đã thụ lý và giải quyết 572 vụ án các loại, thể hiện sự hiệu quả trong công tác xét xử.

Từ năm 2014 đến nay, sự phát triển kinh tế của huyện đã kéo theo nhiều tác động tiêu cực đến xã hội, đặc biệt là sự gia tăng vi phạm pháp luật Các loại tội phạm như hủy hoại rừng, khai thác, mua bán và vận chuyển lâm sản trái phép, cũng như trộm cắp tài sản và các tội xâm phạm sở hữu ngày càng trở nên phổ biến.

Từ năm 2014 đến năm 2018, số lượng án mà Tòa án huyện thụ lý và xét xử đã tăng đột biến, với 305 vụ án được giải quyết, trung bình 55 vụ/năm, trong đó năm 2016 ghi nhận 98 vụ Các tranh chấp về hợp đồng tín dụng và các tranh chấp thương mại khác là nguyên nhân chính dẫn đến sự gia tăng này Tòa án đã đảm bảo việc giải quyết các vụ án đúng pháp luật, không để xảy ra oan sai, không bỏ lọt tội phạm và không có án quá hạn luật định.

Đơn vị đã đạt được những kết quả tích cực nhờ chủ động tạo điều kiện cho đội ngũ Thẩm phán, Thư ký và Hội thẩm nhân dân tham gia đào tạo pháp luật và nghiệp vụ tố tụng, từ đó nâng cao chất lượng xét xử và đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp Ngoài ra, đơn vị phối hợp chặt chẽ với Công an và Viện kiểm sát trong điều tra, truy tố, xét xử để đảm bảo không bỏ sót tội phạm và không xử oan sai, thực hiện đúng quy định pháp luật và thi hành án kịp thời Đồng thời, đơn vị cũng hợp tác hiệu quả với chính quyền địa phương trong công tác phòng chống tội phạm và tổ chức các phiên tòa lưu động ở vùng sâu, vùng xa, nhằm tuyên truyền pháp luật đến nhân dân và hỗ trợ đồng bào vùng cao.

Công tác công đoàn năm 2018 được chú trọng và đạt nhiều kết quả tích cực nhờ sự quan tâm lãnh đạo của Liên Đoàn lao động huyện và chi bộ Lãnh đạo đơn vị đã tạo điều kiện vật chất và tinh thần cho đoàn viên, giúp Công đoàn cơ quan hoàn thành tốt chức năng bảo vệ quyền lợi của CBCCVC và phối hợp hiệu quả với các cơ quan để thực hiện nhiệm vụ.

Đội ngũ cán bộ, công chức trẻ và có trình độ năng lực cao của Tòa án nhân dân huyện Kbang sẽ nỗ lực phát huy thành tích đã đạt được, đặc biệt trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, đảm bảo đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch, đồng thời hạn chế án hủy, cải sửa do lỗi chủ quan và án quá hạn Tòa án đã hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ qua từng giai đoạn lịch sử, đáp ứng yêu cầu chiến lược cải cách tư pháp theo Nghị quyết 49 – NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị.

 Ưu và nhược điểm trong công tác giải quyết các vụ án tranh chấp kinh doanh thương mại tại TAND huyện KBang

Trong thời gian qua, TAND huyện Kbang đã có những tiến bộ đáng kể trong việc giải quyết các vụ án đơn sự và tranh chấp kinh doanh thương mại Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số ưu điểm và nhược điểm cần được khắc phục để nâng cao hiệu quả công tác này.

Quá trình giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại TAND huyện Kbang đã tuân thủ đầy đủ các thủ tục tố tụng dân sự theo quy định hiện hành.

Theo quy định của pháp luật, trong quá trình xử lý vụ án, từ giai đoạn thụ lý, hòa giải, chuẩn bị xét xử đến mở phiên tòa xét xử sơ thẩm, không được phép bỏ qua hoặc tự ý thêm các giai đoạn và thủ tục khác.

Các tranh chấp trong lĩnh vực kinh doanh thương mại thường được xử lý một cách linh hoạt, từ quy trình tiếp nhận đơn, hòa giải, cho đến việc thụ lý và giải quyết trong khuôn khổ tố tụng.

Trong thời gian qua, TAND huyện Kbang đã thụ lý các vụ tranh chấp kinh doanh thương mại đúng quy định pháp luật Tuy nhiên, một số vụ án đã được đưa ra xét xử quá hạn luật định do các đương sự không phối hợp hoặc do tính phức tạp của vụ án cần thu thập thêm chứng cứ.

Thẩm quyền thụ lý và giải quyết vụ án dân sự, đặc biệt là các tranh chấp kinh doanh thương mại, được quy định rõ ràng trong bộ luật tố tụng dân sự TAND huyện Kbang đã thực hiện tốt công tác sàn lọc các vụ án thuộc thẩm quyền, đồng thời xác định quan hệ tranh chấp một cách chính xác, giúp cho quá trình giải quyết vụ án trở nên đơn giản và ít gặp khó khăn hơn.

Trong các tranh chấp kinh doanh thương mại, số liệu thống kê cho thấy nguyên đơn chủ yếu là các pháp nhân đã đăng ký kinh doanh, trong khi bị đơn thường là cá nhân Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết các tranh chấp.

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN CỦA TOÀ ÁN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI ĐỀ TÀI ĐƯA RA MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

QUYỀN CỦA TOÀ ÁN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH

DOANH, THƯƠNG MẠI ĐỀ TÀI ĐƯA RA MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

Mục đích hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại (TCKDTM) là nhằm bảo vệ quyền tự do kinh doanh và ổn định phát triển kinh tế, phù hợp với điều kiện Việt Nam Điều này giúp nền kinh tế đất nước phát triển theo quy luật thị trường, đồng thời phát huy đặc điểm riêng của quan hệ kinh doanh trong bối cảnh hiện nay.

Thứ nhất, Thống nhất nội hàm của khái niệm KDTM trong toàn bộ văn bản pháp luật của hệ thống pháp luật hiện hành

Để đảm bảo tính nhất quán, các khái niệm liên quan đến kinh doanh thương mại (KDTM) cần được chuẩn hóa trong Luật Thương mại Từ đó, các văn bản pháp luật khác sẽ được triển khai dựa trên nội hàm đã được xác định.

Luật thương mại xác định

Hai là, xây dựng các tiêu chí cụ thể để xác định rõ thế nào là: hoạt động kinh doanh, là mục đích lợi nhuận

Tranh chấp liên quan đến việc thành lập, quản lý và tổ chức hoạt động của doanh nghiệp được coi là tranh chấp về kinh doanh thương mại (KDTM) Điều này áp dụng ngay cả khi các bên tranh chấp không nhất thiết phải là thành viên của công ty hoặc chính công ty đó.

Cần nhận thức rõ ràng về ý nghĩa thực tiễn trong việc phân biệt giữa tranh chấp kinh doanh thương mại (KDTM) và tranh chấp dân sự Việc xác định loại tranh chấp này nên thuộc quyền chủ động của Tòa án.

Thứ hai, sửa đổi cách lập pháp về thẩm quyền của Tòa án theo hướng loại trừ

Việc quy định loại trừ những tranh chấp không phải là tranh chấp thương mại dân sự (TCKDTM) sẽ mở rộng phạm vi xác định TCKDTM và làm rõ nội hàm của khái niệm này trong văn bản pháp luật Điều này giúp phân định rõ ràng hơn các loại tranh chấp và đảm bảo tính chính xác trong việc áp dụng pháp luật.

Trường hợp TCKDTM không đáp ứng đủ các dấu hiệu cần thiết sẽ được xem là tranh chấp dân sự, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án như một vụ án dân sự Quy định này không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho các đương sự trong việc khởi kiện mà còn hỗ trợ Tòa án trong quá trình giải quyết tranh chấp.

Thứ ba, quyền tự do lựa chọn Tòa án của đương sự

Pháp luật nên quy định rằng Tòa án cấp sơ thẩm có quyền thụ lý giải quyết vụ án theo thỏa thuận của các bên Nếu các bên không đạt được sự thống nhất trong việc lựa chọn, nguyên đơn buộc phải khởi kiện tại Tòa án sơ thẩm thuộc khu vực nơi cư trú hoặc nơi có trụ sở của bị đơn.

Thừa nhận quyền giải thích pháp luật của Tòa án nhân dân trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại là cần thiết để tăng cường quyền lực và hình thức giải thích pháp luật của Tòa án Việc này không chỉ giúp bù đắp sự xơ cứng và thiếu cụ thể của văn bản quy phạm pháp luật mà còn bảo vệ tốt hơn lợi ích của công dân trước các quy định đa nghĩa, không rõ ràng Tuy nhiên, việc trao quyền giải thích cho Tòa án cần phải đi kèm với những yêu cầu cụ thể, chỉ áp dụng cho những vấn đề không rõ ràng hoặc có nhiều cách hiểu khác nhau Mục tiêu của giải thích pháp luật là nhằm đảm bảo công bằng và bình đẳng, từ đó bảo vệ công lý trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án.

Vào thứ năm, bài viết đề xuất hoàn thiện pháp luật liên quan đến mô hình và cơ cấu tổ chức của Tòa án, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đổi mới hệ thống Tòa án để nâng cao hiệu quả hoạt động và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người dân.

- Tổ chức hệ thống Tòa án nhân dân theo cấp xét xử gồm ba cấp: sơ thẩm, phúc thẩm và Tòa án nhân dân tối cao

- Thành lập Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm theo khu vực, không theo địa giới hành chính

Mỗi Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm khu vực chỉ có một bộ phận văn phòng, nhưng đội ngũ Thẩm phán được phân công thành các ban khác nhau, trong đó có ban chuyên trách xét xử các vụ án thương mại.

Tòa án tối cao bao gồm bộ phận văn phòng, các ban chuyên trách và Hội đồng Thẩm phán tối cao Các ban chuyên trách có nhiệm vụ xét xử giám đốc thẩm và tái thẩm trong từng lĩnh vực cụ thể, trong khi Hội đồng Thẩm phán tối cao không thực hiện xét xử mà chỉ đảm nhiệm việc giải thích và hướng dẫn áp dụng pháp luật cho ngành Tòa án.

Thứ sáu, nâng cao trình độ, năng lực của Thẩm phán, Hội thẩm phán trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế thị trường hiện nay, chất lượng và trình độ xét xử của Thẩm phán cùng Hội thẩm nhân dân đóng vai trò then chốt, phản ánh sức mạnh và uy tín của nền tư pháp.

Nội dung hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của Tòa án liên quan đến chế định Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân bao gồm:

- Việc đào tạo đội ngũ Thẩm phán phải mang tính chuyên nghiệp, được trang bị một cách hệ thống kiến thức pháp luật và kỹ năng xét xử

- Phải coi Thẩm phán là một nghề, bổ nhiệm một lần, bổ nhiệm chức danh cho từng cấp xét xử

- Pháp luật cần xác định quyền hạn độc lập và trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán trong quá trình xét xử

Cần thành lập một đội ngũ Hội thẩm chuyên trách cho lĩnh vực xét xử tranh chấp kinh doanh thương mại (TCKDTM) Đội ngũ này cần đáp ứng các tiêu chí như là thương nhân, có kiến thức pháp luật nhất định, uy tín và kinh nghiệm trong kinh doanh Họ không được bầu bởi Hội đồng nhân dân cùng cấp và không hoạt động theo nhiệm kỳ, mà tham gia vào một tổ chức Hiệp hội của giới doanh nhân.

Thứ bảy, hoàn thiện các phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại thay thế

Việc hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của Tòa án cần đi đôi với việc phát triển các phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại thay thế, nhằm giảm áp lực cho Tòa án và nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp Điều này phù hợp với Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị, khuyến khích giải quyết tranh chấp qua thương lượng, hòa giải và trọng tài Luật Trọng tài thương mại 2010 đã tạo ra một phương thức quan trọng trong việc giải quyết tranh chấp, giảm tải cho Tòa án và đáp ứng nhu cầu của hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường Ngoài ra, việc ban hành Luật trung gian, hòa giải thương mại sẽ là bước đi tiếp theo trong việc xây dựng pháp luật tại Việt Nam hiện nay.

Thứ tám, hoàn thiện các chế định về Bổ trợ tư pháp Tòa án về bản chất, là cơ quan có rất ít sức mạnh vật chất

Sức mạnh của Tòa án dựa vào trí tuệ, phán đoán và lòng yêu công bằng, do đó cần sự hỗ trợ từ các cơ quan, tổ chức khác để đảm bảo hoạt động của Tòa án diễn ra thông suốt Việc hoàn thiện các chế định Bổ trợ tư pháp như luật sư, giám định, thừa phát lại và thi hành án là cần thiết để hỗ trợ Tòa án trong giải quyết tranh chấp kinh tế Nếu thiếu hoặc không hiệu quả, các sự bổ trợ này sẽ khiến quá trình giải quyết tranh chấp của Tòa án chỉ mang tính hình thức và không có tác dụng thực tiễn.

Thứ chín, hoàn thiện về công tác hướng dẫn áp dụng và thi hành pháp luật

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI

Đương sự quan tâm hàng đầu đến việc vụ việc có được giải quyết nhanh chóng, chính xác và hợp pháp hay không, cũng như liệu bản án và quyết định của Tòa án có được thực hiện nghiêm túc trong thực tế.

Khi giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại, cần phân biệt rõ với tranh chấp dân sự Nếu không được xác định là tranh chấp kinh doanh, thương mại, vụ việc sẽ được xem là tranh chấp dân sự và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án như một vụ án dân sự Phân loại này giúp loại bỏ những khó khăn trong việc xác định thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh từ quan hệ không thuộc các nhóm tranh chấp dân sự theo Điều 26 và tranh chấp kinh doanh, thương mại theo Điều 30 BLTTDS.

Hoạt động kinh doanh, thương mại có thể được định nghĩa một cách khái quát, nhưng không có văn bản pháp luật nào có thể liệt kê đầy đủ tất cả các hoạt động này Để nhận biết các hoạt động kinh doanh, thương mại, có thể dựa vào một số dấu hiệu nhất định.

- Mọi hoạt động từ đầu tư, sản xuất, mua bán, cung ứng dịch vụ trên thị trường

- Do các chủ thể kinh doanh ( những tổ chức, cá nhân có đăng kí kinh doanh) tiến hành

- Được tiến hành để phục vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp cho hoạt động kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận của mình

- Cần thống nhất các tiêu chí để xác định khi nào các chủ thể tham gia quan hệ được coi là mục đích lợi nhuận

Trong thời gian gần đây, việc phân biệt giữa mục đích lợi nhuận và mục đích sinh hoạt, tiêu dùng trong các quan hệ kinh tế gặp nhiều khó khăn và thường bị nhầm lẫn, đặc biệt là đối với các cá nhân có đăng ký kinh doanh.

Một cá nhân có đăng ký kinh doanh có thể ký hợp đồng bằng văn bản để sử dụng điện thoại di động Cá nhân này có thể dùng điện thoại để liên lạc với bạn hàng nhằm mục đích lợi nhuận, đồng thời cũng có thể sử dụng điện thoại để kết nối với bạn bè và người thân cho các mục đích sinh hoạt tiêu dùng.

Vậy tranh chấp hợp đồng sử dụng dịch vụ điện thoại này là tranh chấp kinh doanh kinh doanh, thương mại hay tranh chấp dân sự?

Để đơn giản hóa việc áp dụng pháp luật và mở rộng phạm vi các tranh chấp kinh tế, thương mại, cần hiểu mục đích lợi nhuận theo nghĩa rộng với các xu hướng phù hợp.

Tất cả các hành vi của chủ thể kinh doanh, dù trực tiếp như mua hàng để bán lại hay gián tiếp như mua máy tính để hỗ trợ hoạt động bán hàng, đều được coi là có mục đích kinh doanh Ngay cả những hành vi tưởng chừng như thuần túy tiêu dùng, như việc một công ty thương mại ký hợp đồng mua ti vi cho cán bộ, cũng phải được xem là nhằm mục đích lợi nhuận nếu hợp đồng được ký với danh nghĩa công ty và chi phí được tính vào hoạt động kinh doanh.

Trong trường hợp bên tham gia hợp đồng là cá nhân có đăng ký kinh doanh, nếu hợp đồng ghi rõ thông tin về đăng ký kinh doanh, thì có thể suy đoán rằng hợp đồng được ký kết dưới danh nghĩa của một chủ thể kinh doanh và nhằm mục đích lợi nhuận.

Ông Nguyễn Văn A đã được cơ quan đăng ký kinh doanh cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, cho phép ông hoạt động kinh doanh với tư cách cá nhân Nếu hợp đồng ghi rõ tên ông A cùng với số giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, điều này cho thấy ông có mục đích lợi nhuận khi tham gia vào mối quan hệ hợp đồng này.

Mọi tranh chấp liên quan đến việc thành lập, quản lý và hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt là công ty, cần được xem là tranh chấp kinh doanh, thương mại Những tranh chấp này sẽ được tòa án giải quyết như một vụ án kinh tế mà không yêu cầu các bên tranh chấp phải là thành viên của công ty.

+ Các tranh chấp giữ công ty hoặc thành viên công ty với người được công ty thuê làm Giám đốc điều hành (không phải là thành viên công ty)

+ Các tranh chấp phát sinh ngay trong giai đoạn tiền lập công ty (khi tư cách công ty và thành viên công ty chưa hình thành)

Các tranh chấp có thể xảy ra trong quá trình chuyển nhượng vốn của thành viên công ty cho bên ngoài, ngay cả khi bên nhận chưa trở thành thành viên công ty hoặc khi bên chuyển nhượng đã chấm dứt tư cách thành viên.

Các tranh chấp giữa các xã viên trong hợp tác xã, cũng như tranh chấp giữa xã viên và chủ nhiệm hợp tác xã, thường liên quan đến việc thành lập, hoạt động và giải thể hợp tác xã Để tuân thủ quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự (BLTTDS), Tòa án nhân dân tối cao có thể hướng dẫn rằng những tranh chấp này được xem là các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại, theo quy định tại khoản 4, Điều 29 BLTTDS.

Cần thiết phải xây dựng và ban hành một hệ tiêu chí cụ thể, minh bạch để xác định tính chất phức tạp của các tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh và thương mại Điều này cũng bao gồm việc xem xét nhu cầu ủy thác tư pháp cho cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài hoặc thông qua các tòa án nhà nước.

Điều 31 được thiết lập nhằm xác định rõ ràng chính sách thẩm quyền của các cấp tòa án, từ đó hạn chế tình trạng chuyển vụ án một cách tùy tiện giữa huyện và tỉnh.

Cần mở rộng quyền thỏa thuận của các bên trong việc lựa chọn Tòa án phù hợp để giải quyết tranh chấp Theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự mới, các bên có quyền thỏa thuận bằng văn bản để yêu cầu Tòa án nơi nguyên đơn có trụ sở hoặc cư trú giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhiều bên thường tự chọn Tòa án của một địa phương cụ thể để xử lý tranh chấp.

Ngày đăng: 28/08/2021, 11:44

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w