GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp, bao gồm cả các ngân hàng thương mại (NHTM), và lợi nhuận cao chứng tỏ hiệu quả hoạt động của ngân hàng Do đó, các NHTM luôn nỗ lực tìm kiếm giải pháp nhằm tăng thu nhập và tối ưu hóa lợi nhuận.
Cơ cấu thu nhập của ngân hàng bao gồm hai nguồn chính: thu nhập lãi và thu nhập ngoài lãi Thu nhập lãi chủ yếu đến từ hoạt động cho vay, trong khi thu nhập ngoài lãi là nguồn thu không liên quan đến hoạt động kinh doanh chính của ngân hàng.
Nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới, tuy tốc độ tăng trưởng ổn định nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều bất ổn do biến động toàn cầu Sự hội nhập này đặt ra thách thức lớn cho nền kinh tế và hệ thống ngân hàng Việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng đang diễn ra với nhiều cuộc mua bán, sáp nhập các ngân hàng yếu kém, trong khi sự cạnh tranh từ ngân hàng nước ngoài tạo ra áp lực đáng kể cho các ngân hàng thương mại, đặc biệt là các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam.
Tăng trưởng tín dụng ồ ạt đã giúp các NHTMCP giải quyết cơn khát vốn của nền kinh tế, nhưng cũng để lại hệ quả là chất lượng tín dụng giảm sút, nợ xấu gia tăng và thị phần bão hòa Do đó, các NHTMCP đang chuyển hướng tìm kiếm nguồn thu ổn định và ít rủi ro hơn từ các hoạt động phi tín dụng, phù hợp với Đề án Cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015 Mô hình kinh doanh của các NHTMCP sẽ dần giảm phụ thuộc vào hoạt động tín dụng, đồng thời tăng cường thu nhập từ dịch vụ phi tín dụng Mới đây, Quyết định số 986/QĐ-TTg cũng đã đặt ra mục tiêu gia tăng tỷ trọng thu nhập ngoài lãi trong tổng thu nhập của ngân hàng đến năm 2025 và định hướng tới năm 2030.
Hiện nay, thu nhập ngoài lãi tại các NHTMCP Việt Nam đang tăng trưởng tốt, phản ánh tín hiệu tích cực của hệ thống ngân hàng và phù hợp với các quyết định của Thủ tướng Chính phủ Tuy nhiên, tỷ trọng thu nhập ngoài lãi vẫn thấp hơn nhiều so với thu nhập từ lãi, cho thấy hoạt động tín dụng vẫn là nguồn thu chính, mặc dù có rủi ro cao hơn Cơ cấu thu nhập ngoài lãi chưa đồng đều, chủ yếu phụ thuộc vào dịch vụ, trong khi các hoạt động kinh doanh ngoài lãi khác chưa được khai thác triệt để So với các nước trong khu vực và thế giới, tỷ trọng thu nhập ngoài lãi của NHTMCP Việt Nam chỉ đạt khoảng 21%, điều này nhấn mạnh sự cần thiết phải gia tăng thu nhập ngoài lãi trong thời gian tới.
Hiện nay, có nhiều nghiên cứu về thu nhập ngoài lãi, đặc biệt là các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập ngoài lãi tại các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) Việt Nam Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu không đồng nhất do sự khác biệt về thời gian và không gian nghiên cứu Vì lý do này, tác giả đã chọn đề tài "Nâng cao thu nhập ngoài lãi tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam" cho luận văn thạc sĩ của mình.
Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát của nghiên cứu là phân tích thực trạng thu nhập ngoài lãi tại các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) Việt Nam, đồng thời xác định mức độ ảnh hưởng của các yếu tố nội tại đến thu nhập này Từ đó, đề xuất các giải pháp nhằm gia tăng nguồn thu nhập ngoài lãi cho các NHTMCP, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động và cạnh tranh trong ngành ngân hàng.
Từ mục tiêu tổng quát, các mục tiêu cụ thể như sau:
+ Phân tích thực trạng thu nhập ngoài lãi tại các NHTMCP Việt Nam
+ Xác định các yếu tố nội tại ảnh hưởng đến thu nhập ngoài lãi tại các NHTMCP Việt Nam
+ Đo lường mức độ ảnh hưởng của các yếu tố nội tại đến thu nhập ngoài lãi tại các NHTMCP Việt Nam
+ Đề xuất giải pháp gia tăng thu nhập ngoài lãi tại các NHTMCP Việt Nam
- Thực trạng thu nhập ngoài lãi tại các NHTMCP Việt Nam như thế nào?
- Các yếu tố nội tại nào ảnh hưởng đến thu nhập ngoài lãi tại các NHTMCP Việt Nam?
- Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố nội tại đến thu nhập ngoài lãi tại các NHTMCP Việt Nam?
- Giải pháp nào để gia tăng thu nhập ngoài lãi tại các NHTMCP Việt Nam?
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Thu nhập ngoài lãi tại các NHTMCP Việt Nam
- Phạm vi không gian: nghiên cứu 26 NHTMCP Việt Nam
Luận văn này không nghiên cứu các ngân hàng thương mại nhà nước, ngân hàng liên doanh, ngân hàng có 100% vốn nước ngoài, và văn phòng đại diện của các ngân hàng nước ngoài Do hạn chế về thời gian và nguồn nhân lực, tác giả chỉ chọn mẫu gồm 26 ngân hàng trong tổng số 31 ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam hiện nay, loại bỏ các ngân hàng đã hợp nhất, sáp nhập và những ngân hàng không công bố hoặc công bố thiếu thông tin.
Hiện nay, nhiều nghiên cứu đã được thực hiện về các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập ngoài lãi tại các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) Việt Nam, tuy nhiên, ít đề tài nào chú trọng đến các yếu tố nội tại Kết quả nghiên cứu thường không đồng nhất do sự khác biệt về thời gian và không gian nghiên cứu Do đó, luận văn này tập trung vào việc phân tích ảnh hưởng của các yếu tố nội tại đến thu nhập ngoài lãi tại các NHTMCP Việt Nam.
- Phạm vi thời gian: Luận văn nghiên cứu giai đoạn nghiên cứu từ năm 2008-
Năm 2019, chúng ta xem xét tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu năm 2008 đối với thu nhập ngoài lãi của các ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu
Luận văn áp dụng phương pháp nghiên cứu định lượng, sử dụng dữ liệu dạng bảng được thu thập từ các quan sát chéo và quan sát theo thời gian.
Bài viết này trình bày các phương pháp hồi quy phổ biến cho dữ liệu bảng, bao gồm mô hình hồi quy OLS, mô hình hồi quy tác động cố định (FEM) và mô hình hồi quy tác động ngẫu nhiên (REM) Đồng thời, bài viết cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sử dụng các kiểm định để xác định mô hình phù hợp nhất, nhằm đo lường các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập ngoài lãi tại các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) ở Việt Nam.
Ý nghĩa của đề tài
Luận văn nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố nội tại đến thu nhập ngoài lãi tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam, với sự khác biệt về thời gian và không gian nghiên cứu Nghiên cứu này sẽ giúp các nhà quản trị ngân hàng nhận thức rõ mức độ tác động của các yếu tố này đến thu nhập ngoài lãi, từ đó đề xuất những biện pháp phù hợp nhằm nâng cao thu nhập ngoài lãi trong tương lai.
Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn bao gồm 5 chương:
- Chương 1: Giới thiệu đề tài nghiên cứu
- Chương 2: Biểu hiện thu nhập ngoài lãi tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
- Chương 3: Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu về thu nhập ngoài lãi tại ngân hàng thương mại
- Chương 4: Thực trạng thu nhập ngoài lãi tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
- Chương 5: Giải pháp nâng cao thu nhập ngoài lãi tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
Chương 1 đã giới thiệu về đề tài nghiên cứu Sau khi xác định vấn đề nghiên cứu, lý do lựa chọn đề tài, đưa ra mục tiêu nghiên cứu tổng quát và cụ thể và đặt các câu hỏi nghiên cứu để trả lời cho các mục tiêu nghiên cứu cụ thể Chương này cũng giới thiệu về đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và ý nghĩa của đề tài nghiên cứu Các nội dung trên đã cung cấp những nội dung cần thiết cho bài nghiên cứu.
BIỂU HIỆN THU NHẬP NGOÀI LÃI TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM
Giới thiệu về các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển
Trong giai đoạn 1986-1990, Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới mạnh mẽ, chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Nghị định 53/HĐBT được ban hành nhằm mục tiêu chuyển đổi hệ thống ngân hàng sang hoạt động kinh doanh Đồng thời, bốn ngân hàng chuyên doanh được thành lập, bao gồm Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Phát triển nông nghiệp, Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam, và Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Vào ngày 24/5/1990, Hội đồng Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh số 36-LCT-HĐNN8 và Pháp lệnh số 38-LCT/HĐNN8, đánh dấu bước chuyển đổi quan trọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam từ mô hình một cấp sang hai cấp Sự kiện này tách bạch rõ ràng chức năng giữa Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng Thương mại, đồng thời Pháp lệnh số 38 đã tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho sự hình thành và phát triển của các Ngân hàng Thương mại Cổ phần tại Việt Nam.
Trước pháp lệnh ngân hàng, một số ngân hàng đã được thành lập, bao gồm Ngân hàng Sài Gòn Công Thương, ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên của Việt Nam vào năm 1987, và Ngân hàng Phát triển Nhà TP.HCM vào năm 1989 Ngoài ra, nhiều ngân hàng cũng đã chính thức hoạt động và chuyển đổi từ các ngân hàng thuộc Ngân hàng Nhà nước như Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam và Ngân hàng Công thương Việt Nam, cả hai đều được thành lập vào năm 1990, cùng với Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
(1990), Ngân hàng Xuất nhập khẩu Việt Nam (1990) Một số NHTMCP cũng được thành lập một vài năm sau đó
Luật Các tổ chức tín dụng, được Quốc hội thông qua vào ngày 25/12/1997 và có hiệu lực từ 01/10/1998, đã thiết lập nền tảng pháp lý quan trọng cho các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) tại Việt Nam.
Trong bối cảnh nền kinh tế bị tác động bởi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu từ 2008 đến 2012, Đề án Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011- đã được triển khai nhằm cải thiện và nâng cao tính ổn định của hệ thống tài chính.
Năm 2015, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 01/03/2012, tập trung vào việc thanh tra và giám sát các sai phạm trong ngân hàng, đồng thời cơ cấu lại các ngân hàng yếu kém Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã thực hiện kiểm soát đặc biệt, chuyển đổi ba ngân hàng 0 đồng thành 100% vốn nhà nước do vốn chủ sở hữu âm và nhiều bất cập trong hoạt động Tháng 8/2015, NHTMCP Đông Á cũng bị đưa vào diện kiểm soát đặc biệt sau khi NHNN công bố kết luận thanh tra với nhiều vi phạm Trong giai đoạn này, nhiều NHTMCP và công ty tài chính khác cũng đã diễn ra việc mua bán, sáp nhập và hợp nhất.
Kể từ năm 2007, nhiều văn bản pháp luật đã được ban hành, tạo nền tảng vững chắc cho hoạt động của các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) tại Việt Nam Nghị quyết 42/2017/QH14 và Quyết định 1058/QĐ-TTg, được phê duyệt vào tháng 2/2017, đã khởi động quá trình thí điểm xử lý nợ xấu và cơ cấu lại các tổ chức tín dụng giai đoạn 2 (2016-2020) Đến tháng 8/2019, Quyết định 986/QĐ-TTg về chiến lược phát triển ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, với định hướng đến năm 2030, đã được thông qua Những quy định này đã mang lại những chuyển biến tích cực trong việc xử lý nợ xấu và cơ cấu lại các NHTMCP, góp phần phát triển ngành ngân hàng nói chung.
Tính đến ngày 31/12/2019, theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nước, Việt Nam có 31 ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) hoạt động trên toàn quốc, với tổng vốn điều lệ đạt hơn 483.352 tỷ đồng.
2.1.2 Các hoạt động kinh doanh chủ yếu
2.1.2.1 Hoạt động huy động vốn
Bảng 2 1 : Huy động vốn bình quân tại 26 NHTMCP Việt Nam giai đoạn 2008-2019 ĐVT: tỷ đồng
(Nguồn: Báo cáo tài chính của các NHTMCP Việt Nam và tính toán của tác giả)
Nguồn vốn huy động từ khách hàng, bao gồm các tổ chức kinh tế và dân cư, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động, với tỷ lệ trung bình đạt 88% Từ năm 2008 đến 2019, tốc độ tăng trưởng nguồn vốn này tại các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) Việt Nam đạt khoảng 21%, với tổng nguồn vốn huy động từ khách hàng vào năm 2019 đạt 241.484 tỷ đồng, tăng 7,9 lần so với năm 2008 Nguồn vốn này đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, tuy nhiên, chủ yếu có thời hạn ngắn, điều này hạn chế khả năng cho vay trung và dài hạn, đồng thời tiềm ẩn nhiều rủi ro khi sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn.
Trong giai đoạn 2008-2019, nguồn vốn huy động từ các tổ chức tín dụng khác chiếm khoảng 12% tổng cơ cấu nguồn vốn của các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) Việt Nam Mặc dù nguồn vốn này có xu hướng tăng qua các năm, nhưng mức tăng không ổn định Cụ thể, vào năm 2019, nguồn vốn huy động từ các tổ chức tín dụng khác đạt 21.348 tỷ đồng, tăng gấp 5,4 lần so với năm 2008 Tuy nhiên, việc gửi tiền giữa các ngân hàng với số lượng lớn cần được kiểm soát để tránh làm sai lệch đánh giá khả năng thanh khoản trong hoạt động ngân hàng.
Biểu đồ 2 1: Tốc độ tăng trưởng huy động vốn của 26 NHTMCP Việt Nam giai đoạn 2008-2019
(Nguồn: Báo cáo tài chính của các NHTMCP Việt Nam và tính toán của tác giả)
Hoạt động huy động vốn của các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) Việt Nam đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ, với tốc độ tăng trưởng bình quân đạt khoảng 21% mỗi năm trong giai đoạn 2008-2019 Sự tăng trưởng này đã tạo điều kiện cho các NHTMCP mở rộng hoạt động cho vay và phát triển các dịch vụ ngân hàng khác Đến năm 2019, nguồn vốn huy động bình quân đạt 262.831 tỷ đồng, gấp 7,6 lần so với năm 2008, khi chỉ đạt 34.516 tỷ đồng.
2.1.2.2 Hoạt động tín dụng Bảng 2 2: Dư nợ bình quân cho vay khách hàng tại 26 NHTMCP Việt Nam giai đoạn 2008-2019 ĐVT: tỷ đồng
Tổng dư nợ tín dụng
(Nguồn: Báo cáo tài chính của các NHTMCP Việt Nam và tính toán của tác giả)
Trong giai đoạn 2008-2019, nền kinh tế Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng của các ngân hàng, với tốc độ tăng trưởng ổn định và hiệu quả trong hoạt động xuất nhập khẩu Các doanh nghiệp trong nước cũng cải thiện hoạt động kinh doanh, cùng với việc khung pháp lý về tín dụng được NHNN và các cơ quan liên quan liên tục bổ sung, đảm bảo an toàn và phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế Kết quả là, hoạt động tín dụng tại các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) Việt Nam đã ghi nhận sự tăng trưởng mạnh mẽ, với dư nợ tín dụng bình quân đạt 222.460 tỷ đồng vào năm 2019, tăng 790% so với năm 2008.
Biểu đồ 2 2: Tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay khách hàng tại 26 NHTMCP
(Nguồn: Báo cáo tài chính của các NHTMCP Việt Nam và tính toán của tác giả)
Năm 2009, chính sách tín dụng được nới lỏng với hỗ trợ lãi suất, dẫn đến tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng đạt 44% Tuy nhiên, giai đoạn 2010-2014 và 2016-2019, hoạt động tín dụng tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam bị siết chặt do chính sách tiền tệ thắt chặt của chính phủ, nhằm kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô Mặc dù tốc độ tăng trưởng giảm, nhưng lại trở nên ổn định hơn.
2.1.3 Kết quả hoạt động kinh doanh
Bảng 2 3: Kết quả hoạt động kinh doanh của 26 NHTMCP Việt Nam giai đoạn
(Nguồn: Báo cáo tài chính của các NHTMCP Việt Nam và tính toán của tác giả)
Tổng thu nhập tại các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) Việt Nam đã có sự tăng trưởng ấn tượng trong giai đoạn 2008-2019, với tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 20% Đến năm 2019, tổng thu nhập bình quân đạt 12.783 tỷ đồng, gấp 7 lần so với năm 2008 Trong khi đó, tốc độ tăng chi phí hoạt động chỉ khoảng 18% Mặc dù sự chênh lệch giữa tốc độ tăng thu nhập và chi phí hoạt động chưa lớn, nhưng điều này cho thấy hiệu quả hoạt động tích cực của các NHTMCP tại Việt Nam.
Giai đoạn 2008-2019, lợi nhuận sau thuế bình quân của các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) Việt Nam đạt mức tăng trưởng 20% Tuy nhiên, trong giai đoạn 2012-2013, lợi nhuận giảm do tăng trưởng cho vay âm và phụ thuộc vào hoạt động cho vay Mặt khác, lãi suất cho vay giảm cũng làm giảm lợi nhuận ngân hàng Thêm vào đó, chi phí dự phòng rủi ro và chi phí hoạt động tăng cao đã ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận trong năm 2012, trong khi năm 2013, tình hình vẫn không khả quan với việc phân loại nợ và trích lập dự phòng nợ xấu.
Biểu hiện thu nhập ngoài lãi tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt
2.2.1 Tỷ trọng thu nhập ngoài lãi thấp so với thu nhập từ lãi
Trong bối cảnh lãi suất tiềm ẩn rủi ro và biên lợi nhuận thu hẹp, các ngân hàng trên thế giới và tại Việt Nam đang chuyển dịch cơ cấu thu nhập theo hướng gia tăng tỷ trọng thu nhập ngoài lãi Ngày 08/08/2018, Quyết định số 986/QĐ-TTg đã được ban hành với mục tiêu gia tăng tỷ trọng thu nhập ngoài lãi trong tổng thu nhập của ngân hàng đến năm 2025, định hướng tới năm 2030.
Trong giai đoạn 2008-2019, thu nhập từ lãi chiếm 79% tổng thu nhập của các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) Việt Nam, trong khi thu nhập ngoài lãi chỉ chiếm 21% Sự chênh lệch này cho thấy hoạt động tín dụng vẫn là nguồn thu chính và chủ yếu của các NHTMCP, mặc dù hoạt động này được đánh giá có mức độ rủi ro cao hơn so với các hoạt động kinh doanh ngoài lãi.
2.2.2 Tỷ trọng thu nhập ngoài lãi tăng nhưng chưa đồng đều trong cơ cấu thu nhập ngoài lãi
Nhận thức rõ vai trò quan trọng của thu nhập ngoài lãi, các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) tại Việt Nam đã tập trung vào việc mở rộng hoạt động kinh doanh ngoài lãi Họ cũng đã tăng cường tỷ trọng nguồn thu này trong cơ cấu thu nhập tổng thể của ngân hàng, xác định việc gia tăng thu nhập ngoài lãi là một phần thiết yếu trong chiến lược phát triển của mình trong những năm qua.
Giai đoạn 2008-2019 chứng kiến sự gia tăng đáng kể của thu nhập ngoài lãi tại các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) Việt Nam Đến năm 2019, thu nhập này đạt 3.124 tỷ đồng, tăng 565% so với năm 2008, khi chỉ đạt 470 tỷ đồng Sự bứt phá mạnh mẽ nhất diễn ra trong giai đoạn 2014-2019.
2019 khi thu nhập ngoài lãi bình quân đều đạt trên 1.000 tỷ đồng (Bảng 4.1)
Mặc dù có sự tăng trưởng mạnh mẽ, cơ cấu thu nhập ngoài lãi tại các NHTMCP Việt Nam vẫn chưa đồng đều giữa các nguồn thu Hiện nay, thu nhập từ hoạt động dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn nhất, trung bình đạt 46% tổng thu nhập ngoài lãi trong giai đoạn 2008-2019, có năm lên tới 72% Điều này cho thấy sự tập trung quá mức vào hoạt động dịch vụ, trong khi các nguồn thu từ kinh doanh ngoại hối, mua bán chứng khoán và góp vốn mua cổ phần vẫn còn rất khiêm tốn và chưa được khai thác hiệu quả.
2.2.3 So sánh tỷ trọng thu nhập ngoài lãi tại các NHTMCP Việt Nam với các NHTM trong khu vực và trên thế giới
Tỷ trọng thu nhập ngoài lãi trên tổng thu nhập của các NHTMCP ở các nước trên thế giới có sự khác biệt
Theo nghiên cứu của De Young & Tara Rice (2004), thu nhập ngoài lãi tại các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) Hoa Kỳ chiếm 40% tổng thu nhập Hoa Kỳ là một trong những quốc gia phát triển có tỷ lệ thu nhập ngoài lãi trên tổng thu nhập đạt 40% trở lên, cùng với các nước như Anh, Đức và Thụy Sĩ.
Tại Nhật Bản, nền kinh tế phát triển mạnh mẽ với dịch vụ ngân hàng nổi bật, tỷ trọng thu nhập ngoài lãi của các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) đạt mức cao Năm 2011, mặc dù kinh tế Nhật Bản ghi nhận tăng trưởng âm, tổng thu nhập ngoài lãi của ba ngân hàng lớn nhất là Sumitomo Mitsui Banking Corporation (SMBC), Tokyo-Mitsubishi UFJ (BTMU) và Mizuho Bank đã vượt qua thu nhập từ lãi, chiếm 60% tổng thu nhập hoạt động, trong đó thu nhập từ dịch vụ chiếm 36% (Nghiêm Xuân Thành, 2020).
Thái Lan, một quốc gia có nền kinh tế tương tự Việt Nam, ghi nhận tỷ trọng thu nhập ngoài lãi của các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) đạt mức cao Theo nghiên cứu của Nghiêm Xuân Thành (2020), trong giai đoạn 2011-2018, khoảng 60% thu nhập của các ngân hàng Thái Lan đến từ lãi và 40% từ thu nhập ngoài lãi So với Thái Lan và các nước khác, tỷ trọng thu nhập ngoài lãi của NHTMCP Việt Nam chỉ đạt trung bình khoảng 21%, cho thấy sự cần thiết phải gia tăng thu nhập ngoài lãi trong thời gian tới.
Chương 2 đã giới thiệu về các NHTMCP Việt Nam bao gồm lịch sử hình thành và phát triển, các hoạt động kinh doanh chủ yếu cũng như kết quả hoạt động kinh doanh Sau đó phân tích các biểu hiện của thu nhập ngoài lãi tại các NHTMCP Việt Nam.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VỀ
Tổng quan về thu nhập ngoài lãi tại ngân hàng thương mại
3.1.1 Khái niệm thu nhập ngoài lãi
Dựa trên các hoạt động chính của ngân hàng, thu nhập có thể được phân loại thành bốn khoản chính: thu từ hoạt động tín dụng, thu từ hoạt động thanh toán, thu từ ngân quỹ và thu từ các hoạt động khác.
Căn cứ vào đặc điểm tính chất nguồn thu, thu nhập ngân hàng được chia thành
Có hai loại thu nhập của ngân hàng: thu nhập từ lãi và thu nhập ngoài lãi Trong đó, thu nhập từ lãi chủ yếu đến từ hoạt động cho vay, và đây là nguồn thu nhập chính, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng thu nhập của ngân hàng.
Nghị định số 93/2017/NĐ-CP quy định về chế độ tài chính cho các tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, xác định rằng thu nhập của ngân hàng bao gồm các khoản thu từ hoạt động kinh doanh Với sự đa dạng ngày càng tăng trong các hoạt động của ngân hàng, nguồn thu nhập cũng trở nên phong phú hơn.
Theo Ron J Feldman và Jason Schmidt (1999), thu nhập ngoài lãi được định nghĩa là bất kỳ khoản thu nhập nào mà ngân hàng tạo ra từ các hoạt động không phải là kinh doanh cốt lõi, bao gồm việc nhận tiền gửi và cho vay, cũng như từ các khoản đầu tư.
Theo De Young và Rice (2004), thu nhập ngoài lãi là các khoản thu không liên quan trực tiếp đến hoạt động lãi suất, bao gồm phí dịch vụ từ tài khoản tiền gửi, thu nhập từ việc sử dụng uy tín ngân hàng và các loại phí dịch vụ khác.
Thu nhập ngoài lãi của ngân hàng thương mại (NHTM) là khoản thu nhập được tạo ra từ sự chênh lệch giữa doanh thu từ việc cung cấp các sản phẩm và dịch vụ ngoài hoạt động tín dụng, cùng với các hoạt động kinh doanh và đầu tư, so với chi phí liên quan đến việc thực hiện những sản phẩm, dịch vụ và hoạt động này.
Thu nhập ngoài lãi là các khoản thu nhập mà ngân hàng thu được từ các hoạt động không phải là kinh doanh cốt lõi như tín dụng và huy động vốn, cũng như từ hoạt động đầu tư Loại thu nhập này thường được gọi là “thu nhập phí” do phí dịch vụ chiếm tỷ lệ lớn trong tổng thu nhập ngoài lãi.
Theo Investopedia, thu nhập ngoài lãi của ngân hàng thương mại chủ yếu đến từ các loại phí như phí giao dịch, phí quản lý tài khoản, phí dịch vụ giá trị gia tăng, phí phát hành thẻ, phí sử dụng thẻ, và phí trả chậm.
Theo Markus K Brunnermeier, A Gang Dong và Darius Paliac (2012), thu nhập ngoài lãi của ngân hàng bao gồm các nguồn thu từ giao dịch, chứng khoán hóa, ngân hàng đầu tư, phí tư vấn, hoa hồng môi giới, liên doanh vốn, dịch vụ ủy thác và lợi nhuận từ các công cụ phái sinh không phòng ngừa rủi ro Những hoạt động này khác biệt so với chức năng nhận tiền gửi và cho vay truyền thống Trong lĩnh vực thu nhập ngoài lãi, các ngân hàng phải cạnh tranh với nhiều trung gian thị trường vốn khác như quỹ phòng hộ, quỹ tương hỗ, ngân hàng đầu tư, công ty bảo hiểm và quỹ đầu tư tư nhân.
Tại Việt Nam, theo QĐ số 16/2007/QĐ-NHNN, thu nhập ngoài lãi được phân chia thành nhiều nguồn, bao gồm thu nhập từ dịch vụ, kinh doanh ngoại hối, mua bán chứng khoán, góp vốn và các nguồn thu khác Trong đó, dịch vụ ngày càng đóng góp tỷ trọng lớn, với các hoạt động thanh toán, môi giới, tư vấn và ngân quỹ trở nên quan trọng đối với ngân hàng thương mại Ngoài ra, kinh doanh ngoại tệ và chứng khoán cũng mang lại nguồn thu lớn Tuy nhiên, nguồn thu này chưa ổn định do phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan và khách quan Các nguồn thu ngoài lãi khác từ mua bán, thanh lý tài sản thường tốn thời gian và mang lại lợi nhuận không cao.
Như vậy cấu thành của thu nhập ngoài lãi bao gồm:
- Thu nhập từ hoạt động dịch vụ
Thu từ hoạt động dịch vụ bao gồm các nguồn thu từ dịch vụ thanh toán, ngân quỹ, ủy thác đại lý và các hoạt động dịch vụ khác.
Thu từ dịch vụ thanh toán là khoản thu ngân hàng nhận được từ các dịch vụ thanh toán mà họ cung cấp, bao gồm thanh toán trong nước và quốc tế Các khoản thu từ dịch vụ thanh toán trong nước bao gồm phí chuyển tiền, phí nộp tiền mặt, phí tra soát và phí điều chỉnh lệnh chuyển tiền theo yêu cầu khách hàng Trong khi đó, thu từ dịch vụ thanh toán quốc tế bao gồm phí chuyển tiền, phí ngân hàng trung gian, điện phí, phí tra soát và phí điều chỉnh lệnh chuyển tiền theo yêu cầu khách hàng.
Các khoản thu từ dịch vụ ngân quỹ bao gồm phí kiểm đếm, thu chi tiền mặt tại địa chỉ khách hàng, phí đổi ngoại tệ, phí đổi tiền không đủ tiêu chuẩn lưu thông, phí kiểm đếm tiền mặt mệnh giá nhỏ, phí giữ hộ tiền và giấy tờ có giá, cũng như phí cho thuê két sắt Ngoài ra, ngân hàng còn thu phí từ việc cấp giấy phép và đổi giấy phép mang ngoại tệ.
Theo Thông tư 04/2012/TT-NHNN và Thông tư 41/2011/TT-NHNN của Thống đốc NHNN, thu từ nghiệp vụ ủy thác và đại lý của ngân hàng đã trở thành nguồn thu quan trọng Với mạng lưới ngân hàng toàn cầu và sự gia tăng giao thương quốc tế, hoạt động ủy thác và đại lý đang đóng góp đáng kể vào doanh thu của các ngân hàng.
Nguồn thu từ các hoạt động dịch vụ ngân hàng chủ yếu đến từ việc phát hành và thanh toán thẻ cho khách hàng Ngân hàng thu phí phát hành thẻ tín dụng và các khoản phí khác trong quá trình sử dụng thẻ như phí thanh toán, phí rút tiền mặt tại ATM, phí thường niên, phí cấp lại mã pin, phí cấp lại thẻ, phí sao kê và phí chuyển đổi ngoại tệ Bên cạnh đó, dịch vụ ngân hàng điện tử cũng đang phát triển mạnh mẽ, mang lại nguồn thu ổn định cho ngân hàng Mặc dù doanh thu từ các dịch vụ này không cao, nhưng với sự phát triển của công nghệ thông tin, doanh số sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử có xu hướng gia tăng.
- Thu nhập từ hoạt động kinh doanh ngoại hối
Các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập ngoài lãi tại ngân hàng thương mại 21 1 Các yếu tố nội tại
3.2.1.1 Quy mô ngân hàng Đối với hoạt động của các ngân hàng, quy mô được xem là một trong những yếu tố quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng Khi một ngân hàng có quy mô lớn đồng nghĩa với việc ngân hàng đó có đủ năng lực tài chính để duy trì hoạt động kinh doanh, trang bị máy móc, công nghệ, trang thiết bị hiện đại để phục vụ kinh doanh Bên cạnh đó, quy mô lớn cũng mang lại cho ngân hàng nhiều tiềm lực để phát triển thông qua việc đào tạo nguồn nhân lực, nghiên cứu thị trường, phát triển sản phẩm dịch vụ, marketing, bảo mật an toàn thông tin… Hơn thế nữa, một ngân hàng có quy mô lớn sẽ dễ lấy được lòng tin của khách hàng Chính vì những lý do này, quy mô lớn như một bàn đạp vững chắc giúp ngân hàng cung cấp các sản phẩm dịch vụ một cách thuận lợi, hiệu quả, góp phần nâng cao nguồn thu ngoài lãi của ngân hàng
Quy mô ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc xác định thu nhập ngoài lãi Nghiên cứu của Roland Craigwell và Chanelle Maxwell (2005) cho thấy quy mô ngân hàng có tác động tích cực đến thu nhập ngoài lãi Bên cạnh đó, theo Abdelaziz Hakimi và các cộng sự (2012), quy mô tài sản cũng ảnh hưởng đáng kể đến thu nhập ngoài lãi của ngân hàng Các nghiên cứu của De Young & Tara Rice (2004) và Joon-Ho Hahm (2008) cũng khẳng định rằng các ngân hàng có quy mô tài sản lớn thường có thu nhập ngoài lãi cao hơn.
3.2.1.2 Tiền gửi của ngân hàng
Tiền gửi của ngân hàng, bao gồm tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước và tiền gửi liên ngân hàng, đóng vai trò quan trọng trong việc gia tăng thu nhập ngoài lãi cho các ngân hàng Nghiên cứu của Vũ Xuân Dũng và Đoàn Việt Hùng (2018) chỉ ra rằng tiền gửi có tác động tích cực và mạnh mẽ đến nguồn thu này.
Tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam bao gồm tiền gửi dự trữ bắt buộc và tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc Dự trữ bắt buộc là khoản tiền mà các tổ chức tín dụng phải duy trì trên tài khoản thanh toán tại NHNN, đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính sách tiền tệ Ngoài ra, tiền gửi liên ngân hàng là khoản tiền mà các ngân hàng gửi tại nhau, giúp duy trì dòng vốn và tăng cường khả năng huy động vốn Loại hình tiền gửi này không chỉ hỗ trợ các ngân hàng trong việc quản lý vốn mà còn đáp ứng nhu cầu thanh khoản tạm thời của các tổ chức tài chính mà không cần đến sự can thiệp của ngân hàng nhà nước.
3.2.1.3 Tỷ lệ an toàn vốn
Ngân hàng thường không sử dụng vốn chủ sở hữu để cho vay, mà chủ yếu để đầu tư ban đầu, mua sắm tài sản cố định hoặc đầu tư vào tài sản có tính thanh khoản cao Tỷ lệ an toàn vốn cao cho thấy vốn chủ sở hữu tài trợ cho tổng tài sản nhiều hơn, giúp ngân hàng có đòn bẩy tài chính nhỏ và tạo lợi thế cạnh tranh, từ đó gia tăng nguồn thu nhập ngoài lãi (Abdelaziz Hakimi và cộng sự, 2012) Tỷ lệ an toàn vốn là chỉ số quan trọng trong chiến lược quản lý ngân hàng; tỷ lệ này càng cao, thu nhập ngoài lãi của ngân hàng càng lớn (Vũ Xuân Dũng & Đoàn Việt Hùng, 2018).
3.2.1.4 Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản
Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA) là chỉ số quan trọng đánh giá hiệu quả sinh lời của ngân hàng sau thuế, được các chủ nợ đặc biệt quan tâm Chỉ số ROA cao cho thấy khả năng quản trị tài sản tốt và hiệu quả trong việc tạo ra lợi nhuận Nghiên cứu của Roland Craigwell và Chanelle Maxwell (2005) chỉ ra rằng ROA có tác động tích cực đến thu nhập ngoài lãi của ngân hàng thương mại Để gia tăng thu nhập ngoài lãi, các ngân hàng cần tập trung vào việc nâng cao lợi nhuận và tỷ lệ ROA, theo De Young và Tara Rice (2004).
Khả năng thanh khoản của ngân hàng đề cập đến khả năng đáp ứng kịp thời nhu cầu rút tiền gửi và giải ngân tín dụng theo cam kết Khi ngân hàng không đủ khả năng cung cấp tiền mặt cho nhu cầu thanh khoản ngay lập tức hoặc chỉ có thể cung cấp với chi phí cao, rủi ro thanh khoản sẽ xuất hiện.
Tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi là chỉ tiêu quan trọng đánh giá khả năng thanh khoản của ngân hàng, phản ánh mức độ cho vay của ngân hàng so với số tiền gửi của khách hàng Chỉ số cao cho thấy ngân hàng đang cho vay nhiều hơn số tiền huy động, điều này có thể dẫn đến thu nhập lãi suất lớn, nhưng đồng thời cũng làm giảm thu nhập ngoài lãi.
3.2.2 Các yếu tố khách quan
Ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của một quốc gia, và thường chịu ảnh hưởng lớn từ những biến động kinh tế Một nền kinh tế năng động thúc đẩy hoạt động kinh doanh và đầu tư, dẫn đến sự mở rộng sản xuất và nhu cầu vốn tăng cao Điều này làm gia tăng nhu cầu thanh toán, và ngân hàng sẽ hoạt động như một trung gian tài chính, luân chuyển nguồn vốn trên thị trường và thu phí dịch vụ từ các giao dịch.
Việc xóa bỏ hàng rào thương mại đang tạo điều kiện cho các ngân hàng quốc tế thâm nhập sâu vào thị trường nội địa, dẫn đến sự cạnh tranh toàn cầu Các ngân hàng thương mại trong nước buộc phải nghiên cứu và phát triển các dịch vụ mới, hiện đại hơn để giữ vững vị thế Môi trường kinh tế cạnh tranh cao không chỉ mang lại lợi ích cho khách hàng mà còn thúc đẩy sự phát triển tích cực cho nền kinh tế.
Luật pháp đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nền tảng cho các hoạt động kinh tế, bao gồm cả lĩnh vực ngân hàng Một môi trường pháp lý vững mạnh không chỉ giúp giải quyết tranh chấp và khiếu nại trong hoạt động ngân hàng mà còn đảm bảo rằng các ngân hàng hoạt động an toàn, tuân thủ quy định và chuẩn mực cũng như sự điều tiết của nhà nước.
Các yếu tố pháp lý ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng bao gồm sự thống nhất trong các văn bản pháp luật ngân hàng, tính đồng bộ và không chồng chéo giữa các thông tư hướng dẫn và chính sách của chính phủ, hệ thống theo dõi và quản lý thông tin của Ngân hàng Nhà nước, cùng với trình độ hiểu biết pháp luật và khả năng chấp hành pháp luật của người dân.
Một môi trường pháp lý đồng bộ và đầy đủ là yếu tố quan trọng giúp dịch vụ ngân hàng phát triển và tạo ra nguồn thu ổn định Ngược lại, nếu môi trường pháp lý không rõ ràng và không theo kịp xu hướng phát triển kinh tế, sẽ mở ra nhiều kẽ hở cho kẻ xấu lợi dụng, gây rủi ro và thiệt hại cho cả ngân hàng và khách hàng.
3.2.2.3 Môi trường chính trị xã hội
Các hoạt động tài chính ngân hàng rất nhạy cảm với tình hình chính trị và trật tự xã hội của một quốc gia Khi an ninh và chính trị không ổn định, tâm lý người dân bị ảnh hưởng tiêu cực, dẫn đến kinh tế trì trệ và nhu cầu tiêu dùng, đầu tư giảm mạnh, từ đó làm giảm sự phát triển của dịch vụ ngân hàng Ngược lại, một quốc gia có nền tảng chính trị vững mạnh và an ninh ổn định sẽ thu hút sự quan tâm từ các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Tìm hiểu đối thủ cạnh tranh là yếu tố quan trọng mà các nhà quản trị ngân hàng thương mại (NHTM) cần chú trọng Việc nắm bắt thông tin về hoạt động của đối thủ giúp ngân hàng định hình chiến lược phát triển sản phẩm và dịch vụ mới Hơn nữa, những hoạt động này còn cung cấp cho các nhà quản trị cái nhìn khách quan hơn về xu hướng thị trường.
Các nghiên cứu có liên quan đến thu nhập ngoài lãi
Nghiên cứu của De Young và Tara Rice (2004) nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập ngoài lãi và tác động của nó đến hiệu quả tài chính tại các ngân hàng thương mại Hoa Kỳ Bài nghiên cứu xây dựng mô hình tỷ lệ thu nhập ngoài lãi trên tổng tài sản, xem xét các biến như quy mô ngân hàng, hiệu quả tài chính, sự thay đổi công nghệ, chiến lược kinh doanh và điều kiện thị trường Tác giả đã phân tích dữ liệu từ 37.175 quan sát của 4.712 ngân hàng thương mại tại Hoa Kỳ.
Trong giai đoạn 1989-2010, nghiên cứu cho thấy thu nhập ngoài lãi chiếm 40% tổng thu nhập hoạt động của các ngân hàng thương mại Hoa Kỳ Bên cạnh đó, có mối liên hệ rõ ràng giữa thu nhập ngoài lãi, chiến lược kinh doanh của ngân hàng, điều kiện thị trường, sự thay đổi công nghệ và hiệu quả tài chính Các ngân hàng lớn thường có thu nhập ngoài lãi cao hơn, trong khi những ngân hàng được quản trị tốt thường mở rộng hoạt động kinh doanh ngoài lãi chậm hơn so với các ngân hàng khác.
Nghiên cứu của Roland Craigwell và Chanelle Maxwell (2005) tập trung vào việc phân tích xu hướng và các yếu tố quyết định thu nhập ngoài lãi trong hệ thống ngân hàng Barbados Bài viết xây dựng mô hình tỷ lệ thu nhập ngoài lãi trên tổng tài sản, coi đây là hàm của các biến như hiệu quả ngân hàng, sự thay đổi công nghệ, chiến lược kinh doanh, quy mô ngân hàng và các yếu tố kinh tế vĩ mô Sử dụng dữ liệu quý từ 7 ngân hàng tại Barbados trong giai đoạn 1985-2001 với 204 quan sát, nghiên cứu cho thấy rằng đặc điểm của ngân hàng và sự phát triển công nghệ, chẳng hạn như ATM, là những yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến thu nhập ngoài lãi trong ngành ngân hàng Barbados.
Nghiên cứu của Joon-Ho Hahm (2008) nhằm xác định các yếu tố quyết định thu nhập ngoài lãi và tác động của đa dạng hóa cơ cấu thu nhập ngoài lãi tại các ngân hàng thương mại (NHTM) ở các nước OECD Tác giả đã phân tích dữ liệu từ 662 NHTM ở 29 quốc gia OECD trong giai đoạn 1992-2006 Kết quả cho thấy, các ngân hàng có quy mô tài sản lớn, biên lãi ròng thấp và tỷ lệ nợ xấu cao thường có thu nhập ngoài lãi cao hơn Ngoài ra, trong bối cảnh kinh tế vĩ mô, các ngân hàng ở những quốc gia có tăng trưởng kinh tế chậm, lạm phát ổn định và thị trường chứng khoán phát triển cũng thể hiện tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cao hơn.
Nghiên cứu của Abdelaziz Hakimi và cộng sự (2012) nhằm xác định các yếu tố quyết định thu nhập ngoài lãi tại các ngân hàng Tunisia, sử dụng dữ liệu từ 10 ngân hàng trong giai đoạn 1998-2009 Qua phương pháp nghiên cứu định lượng với dữ liệu bảng, nghiên cứu xây dựng mô hình tỷ lệ thu nhập ngoài lãi trên tổng tài sản, dựa vào các biến như quy mô ngân hàng, tỷ lệ an toàn vốn, biên lợi nhuận, quy mô tiền gửi, công nghệ và một số biến vĩ mô như GDP và lạm phát Kết quả cho thấy công nghệ, quy mô ngân hàng và chiến lược ngân hàng là những yếu tố quan trọng quyết định thu nhập ngoài lãi, trong khi không phải tất cả các yếu tố vĩ mô đều có tác động đến thu nhập này.
Nghiên cứu của Nguyễn Minh Sáng và Nguyễn Thị Hạnh Hoa (2013) nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập ngoài lãi của các ngân hàng thương mại Việt Nam Sử dụng phương pháp định lượng với mô hình hồi quy tuyến tính và dữ liệu từ 29 ngân hàng trong giai đoạn 2006-2012, nghiên cứu cho thấy thu nhập ngoài lãi phụ thuộc vào tổng tài sản, tỷ lệ tiền gửi trên tổng tài sản, lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản, lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu, và dư nợ cho vay trên tổng tài sản Đặc biệt, lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản có tác động tích cực và mạnh nhất đến thu nhập ngoài lãi, tiếp theo là tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản Nghiên cứu cũng phát hiện quy mô tổng tài sản có tác động ngược chiều đối với thu nhập ngoài lãi.
Nghiên cứu của Vũ Xuân Dũng và Đoàn Việt Hùng (2018) nhằm xác định các yếu tố nội tại ảnh hưởng đến thu nhập ngoài lãi của các ngân hàng thương mại Việt Nam, sử dụng dữ liệu từ 27 ngân hàng trong giai đoạn 2005-2016 Phương pháp định lượng với mô hình hồi quy dữ liệu bảng và mô hình tác động cố định (FEM) đã chỉ ra rằng các yếu tố như rủi ro tín dụng, tiền gửi của ngân hàng, thanh khoản và tỷ lệ an toàn vốn có tác động đến thu nhập ngoài lãi, trong khi quy mô ngân hàng không ảnh hưởng đến yếu tố này Từ kết quả nghiên cứu, các tác giả đề xuất các khuyến nghị nhằm gia tăng thu nhập ngoài lãi cho các ngân hàng.
3.3.3 Kết quả rút ra từ các công trình nghiên cứu
Các nghiên cứu đã hệ thống hóa các vấn đề lý luận cơ bản và xác định các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập ngoài lãi, đồng thời phát triển mô hình và phương pháp đánh giá mức độ tác động của những yếu tố này Từ đó, bài viết đề xuất những giải pháp hữu ích cho các ngân hàng thương mại.
Bài viết phân tích thực trạng thu nhập ngoài lãi tại các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) Việt Nam trong giai đoạn 2008-2019, dựa trên việc tham khảo các nghiên cứu trước đó và so sánh các kết quả Tác giả xác định và đo lường ảnh hưởng của các yếu tố nội tại đến thu nhập ngoài lãi, từ đó đề xuất các giải pháp thực tiễn nhằm nâng cao thu nhập ngoài lãi cho các NHTMCP trong tương lai.
Phương pháp nghiên cứu
Luận văn áp dụng phương pháp nghiên cứu định lượng với dữ liệu dạng bảng, bao gồm các quan sát chéo và theo thời gian Nghiên cứu sử dụng phương pháp hồi quy cho dữ liệu bảng thông qua các mô hình hồi quy như Pool-OLS, mô hình hồi quy tác động cố định FEM và mô hình hồi quy tác động ngẫu nhiên REM.
- Mô hình hồi quy OLS:
Mô hình được viết dưới dạng:
- X1it Xkit : Biến độc lập của quan sát i trong thời kỳ t
- β1: hệ số góc đối với nhân tố X
Mô hình này gặp một số nhược điểm như ràng buộc quá chặt về các đơn vị chéo và khả năng nhận dạng sai thể hiện ở DW, điều này hiếm khi xảy ra trong thực tế Để khắc phục những nhược điểm này, các mô hình FEM và REM đã được áp dụng.
- Mô hình hồi quy tác động cố định (FEM- Fixed Effect Model)
Giả định rằng mỗi đơn vị có những đặc điểm riêng biệt ảnh hưởng đến các biến giải thích, FEM phân tích mối tương quan giữa phần dư của từng đơn vị với các biến giải thích Qua đó, phương pháp này giúp kiểm soát và tách biệt ảnh hưởng của các đặc điểm riêng (không thay đổi theo thời gian) ra khỏi các biến giải thích, cho phép chúng ta ước lượng những ảnh hưởng thực sự (net effects) của biến giải thích lên biến phụ thuộc.
Mô hình được viết dưới dạng:
- Ci (i=1….n): hệ số chặn cho từng đơn vị nghiên cứu
- β: hệ số góc đối với nhân tố X
Mô hình đã bổ sung chỉ số i cho hệ số chặn “C”, nhằm phân biệt các hệ số chặn của từng doanh nghiệp, phản ánh sự khác biệt do đặc điểm và chính sách quản lý, hoạt động của mỗi doanh nghiệp.
Mô hình tác động ngẫu nhiên (REM) khác biệt với mô hình tác động cố định ở chỗ sự biến động giữa các đơn vị Trong mô hình tác động cố định, sự biến động này có tương quan với biến độc lập, trong khi ở mô hình tác động ngẫu nhiên, sự biến động giữa các đơn vị được giả định là ngẫu nhiên và không có mối liên hệ với các biến giải thích.
Nếu sự khác biệt giữa các đơn vị ảnh hưởng đến biến phụ thuộc, mô hình tác động ngẫu nhiên (REM) sẽ phù hợp hơn so với mô hình tác động cố định (FEM) Trong mô hình này, phần dư của mỗi thực thể, không tương quan với biến giải thích, được coi là một biến giải thích mới Ý tưởng cơ bản của mô hình REM xuất phát từ khái niệm này.
Trong mô hình REM, khác với mô hình trước đó khi Ci là cố định, giả định rằng Ci là một biến ngẫu nhiên với trung bình là C1 Giá trị của hệ số chặn được mô tả như sau:
Ci = C + εi (i= 1, , n) εi: Sai số ngẫu nhiên có trung bình bằng 0 và phương sai là σ 2
Thay vào mô hình ta có:
- εi: Sai số thành phần của các đối tượng khác nhau (đặc điểm riêng khác nhau của từng doanh nghiệp)
- uit: Sai số thành phần kết hợp khác của cả đặc điểm riêng theo từng đối tượng và theo thời gian
- Xem xét mối tương quan tuyến tính giữa biến phụ thuộc và các biến độc lập cũng như giữa các biến độc lập trong mô hình
- Đánh giá mức độ phù hợp của mô hình qua hệ số 𝑅 2
Hệ số xác định 𝑅² là một hàm không giảm khi số biến độc lập trong mô hình tăng lên, tuy nhiên, không phải cứ có nhiều biến thì mô hình sẽ tốt hơn Để đánh giá chính xác hơn mức độ phù hợp của mô hình hồi quy tuyến tính đa biến, 𝑅² điều chỉnh được sử dụng.
- Kiểm định độ phù hợp của mô hình
Kiểm định F trong bảng phân tích phương sai là một phương pháp kiểm định giả thuyết nhằm đánh giá sự phù hợp của mô hình hồi quy tuyến tính tổng thể.
Mô tả các biến trong mô hình nghiên cứu
Bảng 3 1: Mô tả các biến trong mô hình
Tên biến Ký hiệu Phương pháp tính Nghiên cứu tham khảo
Thu nhập ngoài lãi NIITA
NIITA=Thu nhập ngoài lãi/ Tổng tài sản
Thu nhập ngoài lãi được tính bằng tổng lãi hoặc lỗ thuần từ các hoạt động dịch vụ, kinh doanh ngoại hối và vàng, mua bán chứng khoán kinh doanh, cùng với lãi hoặc lỗ thuần từ mua bán chứng khoán đầu tư.
Thu nhập từ góp vốn, mua cổ phần + Thu khác
Quy mô ngân hàng SIZE SIZE= Ln (Tổng tài sản)
Maxwell (2005), Abdelaziz Hakimi & cộng sự (2012), De Young & Tara Rice (2004), Joon-Ho Hahm
Tiền gửi của ngân hàng
BD= Ln ( Tiền gửi của ngân hàng)
- Tiền gửi của ngân hàng= Tiền gửi tại NHNN+ Tiền, vàng gửi tại các TCTD khác và cho vay các tổ chức tín dụng khác
Vũ Xuân Dũng và Đoàn Việt Hùng (2018)
Tỷ lệ an toàn vốn CAR CAR= Tỷ lệ vốn chủ sở hữu/Tổng tài sản
Abdelaziz Hakimi & cộng sự (2012), Vũ Xuân Dũng và Đoàn Việt Hùng
Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản
ROA ROA= Lợi nhuận sau thuế / TổngTài sản
LDR LDR= Tỷ lệ dư nợ tín dụng / vốn huy động
Nguyễn Minh Sáng và Nguyễn Thị Hạnh Hoa
Chương 3 đã trình bày cơ sở lý thuyết về thu nhập ngoài lãi, bao gồm khái niệm, cấu thành, vai trò và các yếu tố nội tại ảnh hưởng đến thu nhập ngoài lãi tại ngân hàng thương mại Đồng thời, chương cũng lược khảo một số nghiên cứu trong nước và quốc tế về thu nhập ngoài lãi, nhằm làm nền tảng cho việc lựa chọn mô hình nghiên cứu Cuối cùng, phương pháp nghiên cứu được trình bày rõ ràng.