1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Mối quan hệ giữa tổng sản phẩm quốc nội và đa dạng hóa xuất khẩu tại một số quốc gia châu á

56 33 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Mối Quan Hệ Giữa Tổng Sản Phẩm Quốc Nội Và Đa Dạng Hóa Xuất Khẩu Tại Một Số Quốc Gia Châu Á
Tác giả Nguyễn Thị Tú Anh
Người hướng dẫn PGS.TS. Trần Thị Hải Lý
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế Tp. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Tài Chính - Ngân Hàng
Thể loại luận văn thạc sĩ kinh tế
Năm xuất bản 2021
Thành phố Tp. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 56
Dung lượng 838,29 KB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU (10)
    • 1.1 Lý do chọn đề tài (10)
    • 1.2 Mục tiêu nghiên cứu (11)
    • 1.3 Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu (11)
    • 1.4 Phương pháp nghiên cứu (11)
    • 1.5 Kết cấu bài nghiên cứu (11)
  • CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ KẾT QUẢ CỦA CÁC NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM TRƯỚC ĐÂY (13)
    • 2.1 Khái niệm cơ bản và một số học thuyết liên quan (13)
      • 2.1.1 Khái niệm cơ bản (13)
      • 2.1.2 Một số học thuyết liên quan (13)
    • 2.2 Các nghiên cứu thực nghiệm (16)
  • CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (26)
    • 3.1 Mô hình thực nghiệm và dữ liệu (26)
    • 3.2 Phương pháp định lượng và các kiểm định (29)
      • 3.2.1 Mô hình hồi quy (29)
      • 3.2.2 Kiểm định mô hình (32)
  • CHƯƠNG 4: PHÂN TÍCH VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU (36)
    • 4.1 Thống kê mô tả (36)
    • 4.2 Kiểm tra đa cộng tuyến (37)
      • 4.2.1 Ma trận hệ số tương quan giữa các biến trong mô hình hồi quy (37)
      • 4.2.2 Hệ số phóng đại phương sai (VIF) (38)
    • 4.3 Lựa chọn mô hình ƣớc lƣợng (0)
      • 4.3.1 Mô hình hồi quy kết hợp Pooled OLS (39)
      • 4.3.2 Mô hình tác động cố định FEM và mô hình tác động ngẫu nhiên (40)
      • 4.3.3 Kiểm định Hausman (41)
    • 4.4 Kiểm tra các khuyết tật mô hình (42)
      • 4.4.1 Kiểm định tự tương quan (42)
      • 4.4.2 Kiểm định phương sai thay đổi (42)
    • 4.5 Phân tích kết quả nghiên cứu (43)
  • CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN, HẠN CHẾ VÀ HƯỚNG PHÁT TRIỂN MỚI CHO ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU (47)
    • 5.1 Kết luận (47)
    • 5.2 Hạn chế của bài nghiên cứu và hướng phát triển (48)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (49)
  • PHỤ LỤC (52)

Nội dung

GIỚI THIỆU

Lý do chọn đề tài

Hiện nay, tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) được coi là một trong những mục tiêu hàng đầu của hầu hết các quốc gia, đòi hỏi sự tập trung nguồn lực mạnh mẽ Đa dạng hóa xuất khẩu được xem là chìa khóa để đạt được sự tăng trưởng kinh tế, vì hoạt động ngoại thương, đặc biệt là xuất khẩu, đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội Việc đẩy mạnh xuất khẩu không chỉ gia tăng nguồn ngoại tệ và thu ngân sách mà còn cải thiện cán cân thanh toán, kích thích đổi mới công nghệ, tạo ra việc làm và nâng cao mức sống cho người dân Do đó, phát triển và đa dạng hóa xuất khẩu là nhiệm vụ cần thiết và mang lại lợi ích tích cực cho nền kinh tế của mỗi quốc gia.

Đa dạng hóa xuất khẩu có ảnh hưởng đáng kể đến tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của một quốc gia, điều này rất quan trọng trong quá trình hoạch định chính sách Để xác định hướng điều chỉnh và mục tiêu chính sách phù hợp, cần có cái nhìn toàn diện về tác động và các yếu tố chi phối giữa GDP và đa dạng hóa xuất khẩu Nghiên cứu này nhằm làm rõ tác động của đa dạng hóa xuất khẩu đến GDP và lượng hóa chúng thông qua mô hình hồi quy.

Nghiên cứu về ảnh hưởng của đa dạng hóa xuất khẩu đối với tổng sản phẩm quốc nội sẽ hỗ trợ các nhà hoạch định chính sách trong việc xây dựng kế hoạch phù hợp và giúp doanh nghiệp đánh giá đúng định hướng phát triển kinh tế Mục tiêu của nghiên cứu là cung cấp bằng chứng thực nghiệm có ý nghĩa về mối quan hệ này tại 32 quốc gia Châu Á.

Mục tiêu nghiên cứu

Nghiên cứu này phân tích ảnh hưởng của đa dạng hóa xuất khẩu đến tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của một số quốc gia Châu Á, nhằm trả lời câu hỏi về tác động của đa dạng hóa xuất khẩu đối với tăng trưởng GDP Dựa trên kết quả nghiên cứu, bài viết đưa ra những khuyến nghị chính sách hữu ích để xây dựng kế hoạch tăng trưởng kinh tế phù hợp, đặc biệt cho nền kinh tế Việt Nam.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu này phân tích dữ liệu từ 32 quốc gia châu Á trong giai đoạn 1990 - 2019, nhằm đánh giá tác động của đa dạng hóa xuất khẩu và các yếu tố kinh tế khác đến sự tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội.

Phương pháp nghiên cứu

Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp hồi quy dữ liệu bảng trong giai đoạn

Từ năm 1990 đến 2019, nghiên cứu tại 32 quốc gia đã áp dụng các mô hình định lượng như mô hình hồi quy kết hợp, mô hình tác động cố định, mô hình tác động ngẫu nhiên và ước lượng bình phương tối thiểu tổng quát để phân tích ảnh hưởng của đa dạng hóa xuất khẩu, chỉ số phát triển con người, tỷ giá hối đoái và chỉ số phát triển tài chính đến tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội Kết quả từ ước lượng bình phương tối thiểu tổng quát sẽ giúp khắc phục các vấn đề về tự tương quan và phương sai thay đổi trong mô hình hồi quy.

Kết cấu bài nghiên cứu

Bài nghiên cứu được xây dựng bao gồm 5 chương:

 Chương 2: Tổng quan lý thuyết và kết quả của các nghiên cứu thực nghiệm trước đây

 Chương 3: Phương pháp nghiên cứu

 Chương 4: Phân tìch và kết quả nghiên cứu

 Chương 5: Kết luận, hạn chế và hướng phát triển mới cho đề tài nghiên cứu

TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ KẾT QUẢ CỦA CÁC NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM TRƯỚC ĐÂY

Khái niệm cơ bản và một số học thuyết liên quan

Tăng trưởng kinh tế được định nghĩa là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản lượng quốc gia (GNP), cũng như quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người (PCI) trong một khoảng thời gian nhất định Bài nghiên cứu này sẽ tập trung phân tích tăng trưởng kinh tế qua khía cạnh tổng sản phẩm quốc nội (GDP).

Xuất khẩu hay xuất cảng, trong lý luận thương mại quốc tế được định nghĩa là việc một quốc gia bán hàng hóa và dịch vụ cho nước ngoài

Đa dạng hóa xuất khẩu là sự thay đổi cơ cấu xuất khẩu của một quốc gia, có thể thực hiện thông qua việc điều chỉnh hàng hóa hiện có hoặc cải tiến sản phẩm dựa trên công nghệ và đổi mới Theo Dennis và Shepherd (2007), đa dạng hóa xuất khẩu bao gồm việc mở rộng phạm vi sản phẩm sang các phân khúc mới ngoài lĩnh vực xuất khẩu hiện tại Có hai loại đa dạng hóa: đa dạng hóa theo chiều ngang, tức là gia tăng các ngành hàng và mở rộng danh mục xuất khẩu, và đa dạng hóa theo chiều dọc, khi quốc gia nâng cao chất lượng hàng hóa, chuyển từ sản phẩm thô sang sản phẩm chế biến hoặc áp dụng công nghệ để tăng năng suất.

2.1.2 Một số học thuyết liên quan

Mối quan hệ giữa tổng sản phẩm quốc nội và đa dạng hóa xuất khẩu phụ thuộc vào mô hình nghiên cứu được áp dụng Cách thức xây dựng mô hình này sẽ chịu ảnh hưởng từ quan điểm kinh tế và chính trị xã hội trong từng giai đoạn lịch sử.

Chủ nghĩa trọng thương (Mercantilism)

Chủ nghĩa trọng thương là một hệ thống kinh tế phổ biến ở Châu Âu từ thế kỷ XVI đến XVIII, nhằm tăng cường quyền lực nhà nước bằng cách tích lũy của cải thông qua xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu Những người ủng hộ chủ nghĩa này tin rằng sức khỏe kinh tế của quốc gia được đo bằng lượng kim loại quý như vàng và bạc, và việc gia tăng sản xuất nông nghiệp cùng đội tàu buôn mạnh là cần thiết để mở rộng thị trường Họ nhấn mạnh rằng xuất khẩu không chỉ cần tăng về số lượng mà còn phải tập trung vào hàng hóa có giá trị cao, khuyến khích sản xuất và chế biến trước khi xuất khẩu Điều này cho thấy tầm quan trọng của ngoại thương trong việc tích lũy của cải quốc gia và là bước tiến quan trọng so với thời kỳ kinh tế đóng cửa, đồng thời đặt nền tảng cho tư tưởng hội nhập kinh tế sau này.

Lý thuyết lợi thế so sánh

Chủ nghĩa trọng thương giảm vai trò khi Adam Smith công bố "Wealth of Nations" (1776) và lý thuyết lợi thế tuyệt đối Ông cho rằng một quốc gia khó đạt hiệu quả năng suất nếu sản xuất sản phẩm mà có thể được sản xuất rẻ hơn ở nơi khác Điều này dẫn đến lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo, cho rằng mỗi quốc gia có lợi thế so sánh riêng trong sản xuất một số sản phẩm, cho phép tham gia thương mại quốc tế và thu được lợi ích Qua chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu sản phẩm có lợi thế so sánh, sản lượng và tiêu dùng toàn cầu tăng lên, giúp mỗi quốc gia đạt được lợi ích mong muốn.

Giả thuyết xuất khẩu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế (Export leads to growth)

Giả thuyết xuất khẩu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xuất hiện từ thế kỷ XX, khẳng định rằng xuất khẩu là yếu tố tiên quyết cho sự phát triển kinh tế Nhiều nghiên cứu kinh tế lượng đã chỉ ra mối quan hệ nhân quả giữa tăng trưởng và xuất khẩu Thực tiễn cho thấy một số quốc gia, như Hàn Quốc từ năm 1960 đến nay, đã áp dụng giả thuyết này để tăng trưởng kinh tế Xuất phát điểm từ việc xuất khẩu quặng sắt và nguyên liệu thô, Hàn Quốc hiện nay đã phát triển đa dạng sản phẩm và công nghệ tiên tiến, góp phần biến đất nước từ nông nghiệp lạc hậu thành một trong những nền kinh tế lớn toàn cầu.

Lý thuyết phân bổ nguồn lực

Học thuyết nguồn lực, được xây dựng bởi Wernerfelt (1984) dựa trên nghiên cứu của Penrose (1959), bắt nguồn từ quan điểm về nguồn lực (Resource-Based View - RBV) Wernerfelt cho rằng các chiến lược truyền thống phân tích vị trí nguồn lực của doanh nghiệp, trong khi các công cụ kinh tế chủ yếu điều khiển thị trường Ông mô tả nguồn lực và sản phẩm như “hai mặt của một đồng xu”, nhấn mạnh rằng vị thế thị trường của doanh nghiệp phụ thuộc vào quyền sở hữu nguồn lực khan hiếm Nguồn lực được phân chia thành hữu hình (vật chất, tài chính, con người, tổ chức) và vô hình (công nghệ, danh tiếng, bí quyết) Lý thuyết này không chỉ áp dụng cho việc phân tích vị thế doanh nghiệp mà còn có thể được mở rộng ra phạm vi kinh tế vĩ mô của quốc gia, giúp xác định cơ cấu sản phẩm phù hợp và tối ưu hóa GDP cũng như tốc độ tăng trưởng kinh tế.

Các nghiên cứu thực nghiệm

Tăng trưởng GDP mang lại nhiều lợi ích, tạo động lực cho các nhà quản lý thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế Trong chiến lược quản lý kinh tế của quốc gia, việc tăng cường hoạt động xuất khẩu và đa dạng hóa xuất khẩu đóng vai trò quan trọng Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra mối quan hệ giữa tổng sản phẩm quốc nội và đa dạng hóa xuất khẩu, cho thấy tác động đa dạng của chúng Các bằng chứng cho thấy có mối quan hệ nhân quả giữa xuất khẩu, đa dạng hóa xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế.

Nghiên cứu của Abdulai và Jacquet (2002) về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu ở Bờ Biển Ngà giai đoạn 1961 - 1997 cho thấy có mối liên hệ nhân quả từ tăng trưởng xuất khẩu đến tăng trưởng GDP trong cả ngắn hạn và dài hạn Kết quả này hỗ trợ giả thuyết rằng xuất khẩu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của các cải cách thương mại nhằm khuyến khích đầu tư trong nước và phục hồi năng lực cạnh tranh quốc tế, từ đó mở rộng và đa dạng hóa xuất khẩu, tạo ra tiềm năng cho tăng trưởng kinh tế trong tương lai.

Theo nghiên cứu của Sharma và Panagiotidis (2005), xuất khẩu đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Bài nghiên cứu này đã phân tích các nguồn tăng trưởng của Ấn Độ trong giai đoạn cụ thể.

Nghiên cứu từ năm 1971 đến 2001 đã điều tra mối quan hệ giữa tăng trưởng xuất khẩu và tăng trưởng GDP, với giả thuyết rằng xuất khẩu dẫn đến tăng trưởng Sử dụng dữ liệu từ Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ, nghiên cứu tập trung vào tăng trưởng GDP và tăng trưởng GDP ròng do xuất khẩu Các tác giả kết luận rằng, khi không tính đến các yếu tố bên ngoài, việc mở rộng xuất khẩu sẽ có tác động tích cực đến toàn bộ nền kinh tế.

Năm 2011, Mehrara và cộng sự đã nghiên cứu mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu bằng mô hình bảng Granger, phân tích dữ liệu của 73 quốc gia đang phát triển từ năm 1970 đến 2007 Dữ liệu được chia thành hai nhóm: quốc gia xuất khẩu dầu mỏ và quốc gia phi dầu mỏ Hai mô hình được áp dụng, bao gồm mô hình 2 biến (xem xét mối quan hệ giữa GDP và xuất khẩu) và mô hình 3 biến (mối quan hệ giữa GDP, xuất khẩu và độ mở của nền kinh tế), nhằm đánh giá chiều hướng quan hệ nhân quả giữa các biến Kết quả cho thấy cả hai nhóm quốc gia đều có mối quan hệ nhân quả hai chiều giữa xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế trong dài hạn, trong khi nhóm quốc gia phi dầu mỏ còn cho thấy mối quan hệ nhân quả hai chiều trong ngắn hạn.

Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng đa dạng hóa xuất khẩu, đặc biệt là từ xuất khẩu truyền thống sang phi truyền thống, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế De Pineres và Ferrantino (1997) nhấn mạnh rằng đa dạng hóa xuất khẩu là yếu tố then chốt thúc đẩy tăng trưởng GDP tại Chile Kể từ giữa những năm 1970, sự phát triển của Chile gắn liền với việc đa dạng hóa xuất khẩu, trong khi trước đó, điều này diễn ra rất ít Sự thay đổi trong cấu trúc xuất khẩu đã gia tăng trong bối cảnh khủng hoảng nội tại và các cú sốc bên ngoài Nghiên cứu cho thấy rằng tăng trưởng kinh tế Chile có thể đã được cải thiện đáng kể nhờ vào sự đa dạng hóa xuất khẩu hơn là chỉ tập trung vào một số mặt hàng nhất định trong giai đoạn 1960 - 1990 Họ cũng khuyến nghị rằng việc đa dạng hóa nên đi đôi với việc gia tăng giá trị cho các sản phẩm truyền thống, bên cạnh việc chuyển đổi sang hàng hóa sản xuất.

Nghiên cứu thực nghiệm cho thấy việc thay thế mô hình quan hệ tuyến tính bằng quan hệ phi tuyến có thể phản ánh chính xác hơn mối quan hệ giữa các biến kinh tế vĩ mô như tăng trưởng GDP và tỷ giá hối đoái (Edwards, 1993; Taylor và cộng sự, 2001) Dựa trên giả định này, Awokuse và Christopoulos (2009) đã tiến hành nghiên cứu nhằm xem xét mối quan hệ giữa xuất khẩu và tăng trưởng tổng sản lượng, đồng thời đánh giá tác động phi tuyến của hai biến số này Họ đã sử dụng mô hình chuyển đổi phi tuyến cho sáu biến số, bao gồm tăng trưởng GDP thực, xuất khẩu thực, lao động, vốn, sản lượng nước ngoài và điều khoản thương mại, áp dụng cho năm nền kinh tế, trong đó có Nhật Bản.

Nghiên cứu tại Mỹ, Canada, Anh và Ý đã kiểm tra mối quan hệ giữa xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế, cho thấy sự tồn tại của mối quan hệ phi tuyến giữa hai yếu tố này Kết quả bác bỏ giả định tuyến tính trong các nghiên cứu trước, đồng thời khẳng định giả thuyết xuất khẩu dẫn đến tăng trưởng cho Mỹ, Canada, Anh và Ý, cũng như giả thuyết tăng trưởng dẫn đến xuất khẩu cho Nhật Bản và Ý Mặc dù các nghiên cứu phi tuyến mang lại kết quả rõ ràng, mối quan hệ tuyến tính vẫn được phát hiện, đặc biệt là trong trường hợp Nhật Bản Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc mô hình hóa mối quan hệ nhân quả phi tuyến giữa xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế, giúp các quốc gia nhận diện tiềm năng lợi nhuận từ việc mở rộng xuất khẩu.

Năm 2011, Naude´ và Rossouw đã nghiên cứu mối quan hệ giữa đa dạng xuất khẩu và hiệu quả kinh tế tại Brazil, Trung Quốc, Ấn Độ và Nam Phi (BCIS), sử dụng dữ liệu xuất khẩu từ 1962 đến 2000 cùng với mô hình cân bằng chung (AGE) Kết quả cho thấy có mối quan hệ hình chữ U giữa tăng trưởng kinh tế và chuyên môn hóa xuất khẩu, đặc biệt ở Trung Quốc và Nam Phi Đáng chú ý, Nam Phi là quốc gia duy nhất mà đa dạng hóa xuất khẩu có tác động tích cực rõ ràng đến phát triển kinh tế, trong khi Brazil, Trung Quốc và Ấn Độ ưu tiên chuyên môn hóa xuất khẩu Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của một quốc gia phụ thuộc vào mức độ phát triển kinh tế và tuân theo mối quan hệ hình chữ U, với giai đoạn đầu phát triển khuyến khích đa dạng hóa, sau đó chuyển sang chuyên môn hóa theo lợi thế so sánh Do đó, các quốc gia cần cân nhắc đặc điểm kinh tế của mình khi quyết định giữa thúc đẩy đa dạng hóa hay chuyên môn hóa xuất khẩu.

Nghiên cứu của Marilyne Huchet-Bourdon và cộng sự (2017) chỉ ra rằng các quốc gia xuất khẩu sản phẩm chất lượng cao và đa dạng sẽ đạt được tăng trưởng nhanh hơn, dựa trên dữ liệu của 169 quốc gia từ 1988 đến 2014 Họ phát hiện ra mối quan hệ phi tuyến giữa tỷ lệ xuất khẩu và chất lượng hàng hóa, cho thấy việc mở cửa thương mại có thể gây bất lợi cho các quốc gia xuất khẩu sản phẩm chất lượng thấp Mania và Rieber (2019) cũng xem xét mối quan hệ giữa đa dạng hóa xuất khẩu và phát triển kinh tế, cho rằng đa dạng hóa xuất khẩu thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu và tăng trưởng thông qua tác động lan tỏa công nghệ Nghiên cứu cho thấy sự thành công của các nước công nghiệp hóa mới ở Châu Á chứng minh rằng đa dạng hóa xuất khẩu có ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng kinh tế Tuy nhiên, không phải tất cả các mặt hàng xuất khẩu đều có tiềm năng phát triển như nhau, do đó, chất lượng của đa dạng hóa xuất khẩu cần được đánh giá dựa trên khả năng phát triển sản xuất của quốc gia Các chiến lược quốc tế hóa doanh nghiệp mới cũng có thể tác động đến mối quan hệ này.

Bảng 2.1: Bảng tổng hợp nghiên cứu thực nghiệm trước đây

STT Tác giả Mẫu và phương pháp nghiên cứu Kết quả

Nghiên cứu mối quan hệ ngắn hạn và dài hạn giữa tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu ở Bờ Biển Ngà trong giai đoạn 1961 -

1997 thông qua việc sử dụng kỹ thuật ước tình tìch hợp và hiệu chỉnh sai số

Kết quả thực nghiệm cho thấy tồn tại mối quan hệ nhân quả giữa tăng trưởng xuất khẩu và tăng trưởng GDP trong ngắn và dài hạn

Tập hợp dữ liệu trong giai đoạn

Từ năm 1971 đến 2001, Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ đã tiến hành nghiên cứu mối quan hệ giữa tăng trưởng GDP và tăng trưởng xuất khẩu Nghiên cứu này tập trung vào việc phân tích sự ảnh hưởng của tăng trưởng xuất khẩu đối với tăng trưởng GDP và tăng trưởng GDP ròng.

Việc mở rộng xuất khẩu sẽ tạo ra tác động tích cực đối với sự phát triển của nền kinh tế, nếu không tính đến các yếu tố tác động bên ngoài.

Thông qua mô hính bảng Granger để đánh giá mối liên hệ

Xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế trong dài

Nghiên cứu của B (2011) cho thấy mối quan hệ nhân quả hai chiều giữa tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu ở 73 quốc gia đang phát triển trong giai đoạn 1970 - 2007 Đặc biệt, đối với nhóm quốc gia phi dầu mỏ, mối quan hệ này còn tồn tại trong ngắn hạn, cho thấy xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế có ảnh hưởng lẫn nhau.

Bài viết phân tích số liệu kinh tế của Chile trong giai đoạn 1960 - 1990 để đánh giá mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và sự đa dạng hóa xuất khẩu, đồng thời xem xét sự thay đổi cơ cấu trong lĩnh vực xuất khẩu.

Trong dài hạn, tăng trưởng kinh tế có thể được cải thiện đáng kể nhờ vào việc thay đổi cơ cấu xuất khẩu và đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu, thay vì chỉ tập trung vào một số mặt hàng nhất định.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Mô hình thực nghiệm và dữ liệu

Nghiên cứu này được thực hiện trên 32 quốc gia tại Châu Á, sử dụng dữ liệu thu thập từ năm 1990 đến 2019 với 960 quan sát Số liệu vĩ mô của các quốc gia được lấy từ các nguồn thông tin trong cơ sở dữ liệu của Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế Hơn nữa, dữ liệu đã được sàng lọc kỹ lưỡng để đảm bảo tính đầy đủ và chính xác cho bộ dữ liệu.

Bài nghiên cứu này, dựa trên công trình gốc của Kurihara và Fukushima (2016), đã bổ sung các biến số vĩ mô nhằm phân tích tổng thể tác động của đa dạng hóa xuất khẩu đến tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội Mô hình hồi quy được xây dựng để thực hiện việc này.

Tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (RGDP) là chỉ số quan trọng đại diện cho sự phát triển kinh tế của các quốc gia Châu Á trong giai đoạn 1990 - 2019 Bài nghiên cứu sẽ sử dụng dữ liệu về tăng trưởng GDP thực hàng năm từ Ngân hàng Thế giới để phân tích và đánh giá mức độ tăng trưởng kinh tế của các quốc gia được chọn.

Đa dạng hóa xuất khẩu (EDI) là chỉ số phản ánh sự đa dạng và chất lượng sản phẩm xuất khẩu từ năm 1990 đến 2019, được đo lường qua các chỉ số Theil tổng thể, chuyên sâu và mở rộng theo phương pháp của Cadot et al (2011) Các sản phẩm được phân loại thành ba nhóm: “Truyền thống”, “Mới” và “Không được giao dịch” Sản phẩm truyền thống là hàng hóa đã có mặt từ đầu mẫu, trong khi sản phẩm không được giao dịch không có lần xuất khẩu nào Đối với sản phẩm mới, chúng phải không được kinh doanh ít nhất hai năm trước đó và được xuất khẩu trong hai năm tiếp theo, dẫn đến giá trị giả của sản phẩm mới có thể thay đổi theo thời gian.

Chỉ số Theil mở rộng được tình cho từng cặp quốc gia/năm như sau:

T B = ∑ k (N k /N) (à k /à) ln(à k /à) là công thức tính toán, trong đó k đại diện cho từng nhóm sản phẩm (truyền thống, mới và không được giao dịch) N k là tổng số sản phẩm xuất khẩu trong mỗi nhóm, và à k /à thể hiện giá trị trung bình tương đối của xuất khẩu trong từng nhóm.

Chỉ số Theil chuyên sâu cho mỗi cặp quốc gia/năm là:

T W = ∑ k (N k /N) (àk/à) {(1/Nk) ∑i ∈ Ik (x i /à k ) ln(x i /à k )} trong đó x đại diện cho giá trị xuất khẩu

Chỉ số phát triển con người (HDI) là một chỉ số định lượng và so sánh, phản ánh mức thu nhập, tỷ lệ biết chữ, tuổi thọ và các yếu tố khác của các quốc gia HDI đánh giá thành tựu trung bình của mỗi quốc gia dựa trên ba tiêu chí chính.

Sức khỏe (LEI) được đo bằng tuổi thọ trung bình, phản ánh một cuộc sống dài lâu và khỏe mạnh Tri thức (EI) được xác định qua số năm đi học bình quân (MYSI) và số năm đi học kỳ vọng (EYSI) Thu nhập (II) thể hiện mức sống qua GNI bình quân đầu người.

Chỉ số này tương tự cũng được thu thập từ năm 1990 đến 2019

Tỷ giá hối đoái giữa hai tiền tệ là mức tỷ giá mà tại đó một đồng tiền được trao đổi cho đồng tiền khác Nghiên cứu trước đây cho thấy tỷ giá là một trong những yếu tố vĩ mô ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế quốc gia, do đó, bài nghiên cứu này đưa tỷ giá vào mô hình như một biến độc lập nhằm tăng độ tin cậy cho kết quả Dữ liệu tỷ giá của các nước Châu Á so với USD được sử dụng trong nghiên cứu, được thu thập trong giai đoạn 1990 - 2019.

Chỉ số phát triển tài chính (FD) đo lường và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận, độ sâu và hiệu quả của các tổ chức tài chính cũng như thị trường tài chính Nghiên cứu đã chỉ ra rằng có mối quan hệ đáng kể giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế trong cả ngắn hạn lẫn dài hạn (Loayza và Ranciere, 2006) Do đó, chỉ số này cũng được sử dụng để nâng cao độ vững cho các mô hình nghiên cứu.

Chỉ số phát triển tài chính phản ánh mức độ phát triển của các tổ chức và thị trường tài chính, bao gồm độ sâu, khả năng tiếp cận và hiệu quả Độ sâu đề cập đến quy mô và tính thanh khoản của thị trường, trong khi khả năng tiếp cận thể hiện khả năng của cá nhân và doanh nghiệp trong việc sử dụng dịch vụ tài chính Hiệu quả liên quan đến chi phí thấp và doanh thu bền vững của các tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính Chỉ số này được tổng hợp từ dữ liệu về tổ chức và thị trường tài chính của các nước Châu Á từ năm 1990 đến 2019.

Bảng 3.1: Tóm tắt các biến số dữ liệu và dấu kỳ vọng

Tên biến Ký hiệu Cách thức đo lường Kỳ vọng Nguồn

Tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (Tăng trưởng kinh tế)

GDP hàng năm là một chỉ số quan trọng được theo dõi bởi Ngân hàng Thế giới Để nâng cao khả năng cạnh tranh, việc đa dạng hóa xuất khẩu là rất cần thiết Chỉ số Đa dạng hóa Xuất khẩu (EDI) cho thấy mức độ đa dạng hóa của nền kinh tế; giá trị EDI càng cao, nghĩa là mức độ đa dạng hóa càng lớn IMF cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đa dạng hóa trong phát triển kinh tế bền vững.

Chỉ số phát triển con người

Chỉ số phát triển con người đo lường theo năm

Tỷ giá hối đoái EXCHANGE Tỷ giá của các nước

Châu Á so với USD + IMF

Chỉ số phát triển tài chình FD

Tổng hợp từ chỉ số Tổ chức tài chình và chỉ số Thị trường tài chình

Giá trị cao hơn cho thấy mức độ phát triển tài chình cao hơn

(Trong đó: “+”: mối quan hệ tỷ lệ thuận với biến phụ thuộc; “-”: mối quan hệ tỷ lệ nghịch với biến phụ thuộc)

(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp)

Phương pháp định lượng và các kiểm định

Dữ liệu dùng cho phân tích định lượng bao gồm ba loại cơ bản: dữ liệu chéo, dữ liệu chuỗi thời gian và dữ liệu bảng Dữ liệu bảng, hay còn gọi là dữ liệu gộp, là sự kết hợp giữa dữ liệu chéo và chuỗi thời gian, cho phép xem xét sự thay đổi theo thời gian của các đơn vị chéo.

Nghiên cứu định lượng thường ưu tiên dữ liệu bảng cho các mô hình hồi quy nhờ vào những lợi ích nổi bật như khả năng rõ ràng trong việc xử lý sự không đồng nhất giữa các biến thông qua các biến chuyên biệt, tăng quy mô mẫu nghiên cứu giúp giải quyết vấn đề phân phối chuẩn, nghiên cứu sự thay đổi trạng thái động của các đơn vị qua thời gian, và phân tích các mô hình hành vi phức tạp, kể cả các biến không đổi Hơn nữa, việc sử dụng dữ liệu bảng cũng giúp giảm thiểu hoặc triệt tiêu các ước lượng bị chệch.

Các phương pháp phổ biến trong mô hình hồi quy dữ liệu bảng bao gồm: mô hình hồi quy kết hợp (Pooled OLS), mô hình tác động cố định (FEM), mô hình tác động ngẫu nhiên (REM) và ước lượng bình phương tối thiểu tổng quát (GLS).

Mục đích của nghiên cứu là đánh giá tác động của đa dạng hóa xuất khẩu đối với tổng sản phẩm quốc nội (GDP), sử dụng mô hình Pooled OLS với dữ liệu bảng thu thập được Tuy nhiên, mô hình Pooled OLS có hạn chế khi xem các quốc gia là đồng nhất, dẫn đến việc nhóm chung tất cả các quan sát mà không tính đến sự khác biệt giữa các quốc gia Điều này không phản ánh đúng thực tế, vì mỗi quốc gia có những đặc thù riêng có thể ảnh hưởng đến GDP Do đó, mô hình Pooled OLS có thể tạo ra các ước lượng sai lệch nếu không xem xét các tác động riêng biệt này.

Mô hình FEM và REM cho phép kiểm soát các tác động riêng biệt mà Pooled OLS không thể giải quyết Điều này chỉ ra rằng nếu Pooled OLS không phù hợp với dữ liệu, việc áp dụng phân tích qua FEM và REM sẽ mang lại nhiều giá trị hơn.

Cả mô hình REM và FEM đều dựa trên giả thiết rằng phần dư không có tự tương quan và phương sai không thay đổi Khi những giả định này bị vi phạm, mặc dù FEM và REM vẫn cung cấp ước lượng phù hợp, nhưng chúng có thể không hiệu quả và bị chệch Để khắc phục vấn đề này, ước lượng GLS có thể được sử dụng.

3.2.1.1 Mô hình hồi quy kết hợp (Pooled OLS)

Mô hình được xây dựng dựa trên giả định rằng tất cả các hệ số không thay đổi theo thời gian và không gian Dù mô hình hồi quy có vẻ đơn giản, nhưng những giả định hạn chế này có thể dẫn đến việc bóp méo mối quan hệ thực tế giữa các biến số kinh tế trong nghiên cứu.

3.2.1.2 Mô hình tác động cố định (FEM)

Mô hình Phân tích Phần tử Cuối (FEM) giả định rằng các hệ số độ dốc giữ nguyên giữa các đơn vị chéo, trong khi hệ số chặn thay đổi theo từng đơn vị chéo nhưng không thay đổi theo thời gian FEM được áp dụng trong nhiều tình huống khi hệ số chặn đặc thù của mỗi đơn vị chéo có thể liên quan đến một hoặc nhiều biến giải thích Trong trường hợp này, mô hình ước lượng được sử dụng để phân tích.

 Y it là biến phụ thuộc, i là đơn vị chéo thứ i và t là thời gian của quan sát

 Hệ số chặn α i chú ý đến những ảnh hưởng không đồng nhất từ các biến không được quan sát có thể khác nhau giữa các đơn vị chéo

 Hệ số β là một vector cột của các hệ số độ dốc chung cho nhóm quan sát

 X it lần lượt là các biến độc lập trong mô hính

 Sai số u it tuân theo giả định kinh điển u it ~ N(0,σ 2 u )

3.2.1.3 Mô hình tác động ngẫu nhiên (REM)

Mô hình giả định rằng hệ số độ dốc giữa các đơn vị chéo là không đổi, trong khi hệ số chặn lại được xem như một biến ngẫu nhiên Biến này được rút từ một tổng thể lớn hơn với giá trị trung bình không đổi, được biểu diễn bằng công thức α i = α + ε i, trong đó α là giá trị trung bình của các hệ số chặn và εi là sai số ngẫu nhiên phản ánh sự khác biệt trong hệ số chặn của từng đơn vị chéo, với ε i tuân theo phân phối chuẩn N(0, σ 2 ε).

Mô hình REM thích hợp khi hệ số chặn ngẫu nhiên của mỗi đơn vị chéo không tương quan với các biến giải thích, cho phép đưa vào các biến giải thích không đổi theo thời gian Điều này khác với mô hình FEM, nơi gặp phải vấn đề đa cộng tuyến do hệ số chặn đặc thù Ý tưởng cơ bản của REM phát triển từ FEM, kết hợp điều kiện α i = α + ε i, từ đó hình thành công thức cơ bản của REM.

Với vit = ε i + u it , cho thấy vit và vis (với t ≠ s)

3.2.1.3 Ước lượng bình phương tối thiểu tổng quát (GLS) Đối với ước lượng GLS, giả định phương sai của phần dư có liên quan đến một số biến số zi khác, cụ thể var(u t ) = σ 2 z i 2 Để loại bỏ hiện tượng phương sai thay đổi, chia cả 2 vế của phương trính hồi quy cho z i :

Với v t = u t /z i là sai số hồi quy mới

Khi áp dụng phương pháp ước lượng GLS, phần dư trong mô hình hồi quy sẽ không còn hiện tượng phương sai thay đổi, với var(v t ) = σ 2 Do đó, kết quả hồi quy từ ước lượng GLS sẽ vững chắc và đáng tin cậy hơn so với các mô hình REM và FEM.

3.2.2.1 Kiểm định Hausman Để chọn lựa sử dụng REM hay FEM, nghiên cứu sẽ sử dụng kiểm định Hausman Giả thiết H 0 của kiểm định Hausman là không có tương quan giữa ε i và các biến độc lập; H 1 : có tương quan giữa ε i và các biến độc lập Như vậy, nếu chấp nhận giả thuyết H 0 , REM sẽ là mô hính phù hợp so với FEM và ngược lại, nếu giả thiết H 0 bị bác bỏ, FEM sẽ được sử dụng

3.2.2.2 Hiện tƣợng đa cộng tuyến

Trong mô hình hồi quy, hiện tượng đa cộng tuyến xảy ra khi các biến độc lập có mối quan hệ tuyến tính chặt chẽ với nhau, dẫn đến việc chúng phụ thuộc lẫn nhau Nguyên nhân gây ra đa cộng tuyến có thể bao gồm việc chọn các biến độc lập có quan hệ nhân quả hoặc tương quan cao, mẫu thu thập không đại diện cho tổng thể, hoặc chọn biến độc lập có độ biến thiên nhỏ.

Hậu quả của đa cộng tuyến là sự tương quan giữa các biến độc lập, khiến chúng có xu hướng thay đổi đồng nhất Khi một biến thay đổi, nó sẽ ảnh hưởng đến biến khác, đặc biệt là khi mối tương quan mạnh, việc thay đổi một biến mà không tác động đến biến khác trở nên khó khăn Điều này làm cho việc ước lượng mối quan hệ giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc trở nên phức tạp, dẫn đến sai số chuẩn của các hệ số tăng lên, khoảng tin cậy lớn và kiểm định ý nghĩa kém Kết quả là, các ước lượng trong phân tích hồi quy không chính xác, và mô hình hồi quy có thể không phản ánh đúng bản chất của các mối quan hệ.

PHÂN TÍCH VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Thống kê mô tả

Dựa trên dữ liệu thu thập từ 32 quốc gia Châu Á trong giai đoạn 1990 - 2019, kết quả thống kê mô tả các biến trong mô hình được trình bày chi tiết trong bảng.

Trong bài viết này, chúng tôi sẽ phân tích bốn chỉ số quan trọng: RGDP (tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội), EDI (đa dạng hóa xuất khẩu), HDI (chỉ số phát triển con người), EXCHANGE (tỷ giá hối đoái) và FD (chỉ số phát triển tài chính) Những chỉ số này đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá sự phát triển kinh tế và xã hội của một quốc gia.

Bảng 4.1: Thống kê mô tả tất cả các biến đƣợc sử dụng trong mô hình

Biến số Số quan sát

Trung bình Độ lệch chuẩn

(Nguồn: Kết quả thống kê từ phần mềm Stata)

Tốc độ tăng trưởng GDP (RGDP) trung bình của các quốc gia trong giai đoạn nghiên cứu đạt khoảng 5.016% với độ lệch chuẩn 6.682% Trong đó, Kuwait ghi nhận tốc độ tăng trưởng cao nhất với 82.80% và Iraq có tốc độ tăng trưởng thấp nhất là -64.047%, cả hai đều xảy ra vào năm 1991.

Chỉ số Đa dạng hóa Xuất khẩu (EDI) có độ lệch chuẩn là 1.288 và giá trị bình quân là 3.513, cho thấy sự biến động lớn giữa các quốc gia và thời gian nghiên cứu Giá trị EDI dao động từ 1.759 đến 6.587, phản ánh ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài, cách quản lý và mức độ phát triển kinh tế khác nhau Điều này dẫn đến sự khác biệt trong định hướng sản xuất và đầu tư của mỗi quốc gia, từ đó tạo ra sự chênh lệch trong mức độ đa dạng hóa xuất khẩu.

Chỉ số phát triển con người (HDI) trung bình của các quốc gia trong giai đoạn quan sát là 0.666, với độ lệch chuẩn là 0.143 Hongkong đứng đầu với giá trị HDI cao nhất là 0.933 vào năm 2017, trong khi giá trị bình quân đạt 0.856.

Tỷ giá hối đoái trung bình so với USD giai đoạn 1990 - 2019 của mẫu nghiên cứu đạt khoảng 1,631.938 với độ lệch chuẩn 4,581.256 Trong đó, Iran và Việt Nam có tỷ giá hối đoái cao hơn so với các quốc gia khác trong khu vực, với tỷ giá lần lượt là 42,000 (2019) và 23,050 (2019) Ngược lại, tỷ giá hối đoái của Thổ Nhĩ Kỳ ghi nhận ở mức thấp nhất là 0.003 (1990), cho thấy giá trị tiền tệ của quốc gia này tương đối cao khi so sánh với USD.

Mức độ phát triển thị trường tài chình rơi vào khoảng 0.082 (thấp nhất) và 0.895 (cao nhất) với mức trung bính nằm ở giá trị 0.388.

Kiểm tra đa cộng tuyến

Trong chương 3 của bài nghiên cứu, hiện tượng đa cộng tuyến giữa các biến độc lập gây khó khăn trong việc ước lượng mối quan hệ giữa chúng và biến phụ thuộc Điều này dẫn đến các ước lượng trong phân tích hồi quy không chính xác, khiến mô hình hồi quy không phản ánh đúng bản chất của các mối quan hệ Để cải thiện độ chính xác của mô hình, hai phương pháp phát hiện đa cộng tuyến, bao gồm ma trận hệ số tương quan và hệ số phóng đại phương sai (VIF), đã được áp dụng.

4.2.1 Ma trận hệ số tương quan giữa các biến trong mô hình hồi quy

Bảng 4.2: Ma trận hệ số tương quan giữa các biến trong mô hình hồi quy

(Nguồn: Kết quả thống kê từ phần mềm Stata)

Theo kết quả từ phần mềm Stata tại bảng 4.2, các biến độc lập trong mô hình hồi quy cho thấy mối tương quan tương đối nhỏ (< 0.5) Tuy nhiên, biến FD có hệ số tương quan với biến HDI là 0.651, lớn hơn 0.5, điều này cho thấy có khả năng tồn tại mối tương quan đáng nghi Do đó, cần tiếp tục kiểm tra bằng cách sử dụng hệ số phóng đại phương sai (VIF).

4.2.2 Hệ số phóng đại phương sai (VIF)

Bảng 4.3: Hệ số phóng đại phương sai VIF

(Nguồn: Kết quả thống kê từ phần mềm Stata)

Giá trị VIF bắt đầu từ 1 và không có giới hạn trên, với VIF từ 1 đến 2 cho thấy không có sự tương quan giữa biến độc lập và các biến khác Nếu VIF nằm trong khoảng từ 2 đến 5, điều này chỉ ra rằng có mối tương quan vừa phải giữa các biến.

Lựa chọn mô hình ƣớc lƣợng

Kết quả kiểm định hệ số phóng đại phương sai (VIF) trong bảng 4.3 cho thấy tất cả các giá trị VIF của các biến trong mô hình đều nhỏ hơn 2, cho phép kết luận rằng không tồn tại hiện tượng đa cộng tuyến giữa các biến độc lập trong mô hình.

4.3 Lựa chọn mô hình ƣớc lƣợng

4.3.1 Mô hình hồi quy kết hợp Pooled OLS

Bảng 4.4: Tổng hợp kết quả hồi quy theo mô hình Pooled OLS

(Trong đó: Các ký hiệu ** và *** lần lượt đại diện cho các mức ý nghĩa 5% và 1% Giá trị trong dấu ngoặc () là thống kê t)

(Nguồn: Kết quả thống kê từ phần mềm Stata)

Kết quả hồi quy từ phần mềm Stata, như thể hiện trong bảng 4.4 và phụ lục 4, cho thấy giá trị Prob>F = 0.2459, lớn hơn 0.05 Điều này có nghĩa là ước lượng của Pooled OLS trong trường hợp này không được chấp nhận.

4.3.2 Mô hình tác động cố định FEM và mô hình tác động ngẫu nhiên REM Bảng 4.5: Tổng hợp kết quả hồi quy theo mô hình FEM và REM

(Trong đó: Các ký hiệu *, ** và *** lần lượt đại diện cho các mức ý nghĩa 10%, 5% và 1% Giá trị trong dấu ngoặc () là thống kê t)

(Nguồn: Kết quả thống kê từ phần mềm Stata)

Nghiên cứu sẽ áp dụng kiểm định Hausman để quyết định giữa việc sử dụng mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên (REM) hay mô hình hiệu ứng cố định (FEM), theo như đã trình bày ở mục 3.2.2.1 Giả thuyết của kiểm định này được thiết lập để phục vụ cho quá trình lựa chọn mô hình phù hợp.

H 0 : không có tương quan giữa ε i và các biến độc lập => Mô hính REM phù hợp

H 1 : có tương quan giữa ε i và các biến độc lập => Mô hính FEM phù hợp

Bảng 4.6: Kết quả kiểm định Hausman

(Nguồn: Kết quả thống kê từ phần mềm Stata)

Kiểm định Hausman từ bảng 4.6 cho thấy giá trị Prob>chi2 = 0.0003 < 0.05 nên bác bỏ giả thiết H 0 , mô hính FEM là mô hính phù hợp để tiến hành nghiên cứu

Theo kết quả hồi quy từ phần mềm Stata, mô hình FEM có giá trị Prob>F = 0.003, nhỏ hơn 0.05, trong khi mô hình REM có Prob>chi2 = 0.6637, lớn hơn 0.05 Do đó, chỉ mô hình FEM được chấp nhận, cho thấy việc sử dụng FEM là phù hợp trong trường hợp này.

Kiểm tra các khuyết tật mô hình

Theo kết luận tại mục 4.3.3, mô hình FEM sẽ được áp dụng trong nghiên cứu Do đó, nghiên cứu sẽ tiếp tục kiểm tra các khuyết tật của mô hình, bao gồm hiện tượng tự tương quan và phương sai thay đổi, nếu có.

4.4.1 Kiểm định tự tương quan Để kiểm tra xem liệu hiện tượng tự tương quan có xảy ra trong mô hính hồi quy FEM hay không, nghiên cứu sẽ sử dụng kiểm định được đề xuất bởi

Wooldridge (2002) với giả thiết H 0 : Không có hiện tượng tự tương quan trong mô hính hồi quy

Bảng 4.7: Kết quả kiểm định tự tương quan của mô hình FEM

(Nguồn: Kết quả thống kê từ phần mềm Stata)

Theo kết quả từ bảng 4.7, giá trị Prob>F = 0.1003 > 0.05 nên chấp nhận giả thiết H 0 , nghĩa là không có hiện tượng tự tương quan trong mô hính hồi quy

4.4.2 Kiểm định phương sai thay đổi Đối với mô hính FEM, nghiên sử dụng kiểm định Wald để kiểm tra xem mô hính FEM có vi phạm giả thiết hồi quy về phương sai không đổi hay không với giả thiết H 0 : phương sai của mô hính không đổi.

Bảng 4.8: Kiểm định phương sai thay đổi của mô hình FEM

H 0 : sigma(i)^2 = sigma^2 for all i chi2 (32) = 45165.11

(Nguồn: Kết quả thống kê từ phần mềm Stata)

Với mức nghĩa 5%, giá trị Prob>chi2 = 0.0000 < 0.05, bác bỏ giả thiết H 0 , phương sai của mô hính bị thay đổi

Khi mô hình gặp hiện tượng phương sai thay đổi, phương sai của phần dư liên quan đến các biến số z_i, cụ thể là var(u_t) = σ² z_i² Để khắc phục hiện tượng này, ta chia phương trình hồi quy cho z_i, dẫn đến var(u_t/z_i) = var(u_t)/z_i² = σ² z_i²/z_i² = σ², đây chính là ước lượng GLS Nhờ đó, phần dư từ mô hình hồi quy mới sẽ không còn hiện tượng phương sai thay đổi.

Phân tích kết quả nghiên cứu

Mô hình FEM, mặc dù được coi là phù hợp, nhưng gặp phải hiện tượng phương sai thay đổi, dẫn đến ước lượng không còn hiệu quả và bị chệch Do đó, nghiên cứu này sẽ áp dụng ước lượng GLS để khắc phục vấn đề này.

Bảng 4.9: Kết quả hồi quy theo ƣớc lƣợng GLS

(Nguồn: Kết quả thống kê từ phần mềm Stata)

Trước hết, mô hính có được từ ước lượng GLS tại bảng 4.9 và phụ lục 10 có giá trị Prob>chi2 = 0.0000 < 0.05 nên mô hính này được chấp nhận

Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng đa dạng hóa xuất khẩu (EDI) có tác động ngược chiều đến tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (RGDP) ở mức ý nghĩa thống kê 5% (p-value = 0.020) Điều này trái ngược với các nghiên cứu trước đây cho rằng đa dạng hóa xuất khẩu sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Khi một quốc gia gia tăng xuất khẩu nhiều mặt hàng hoặc sản phẩm chất lượng cao, đặc biệt khi thị trường xuất khẩu tập trung vào một số quốc gia đối tác, có thể dẫn đến rủi ro cho doanh nghiệp nội địa và gây ra các biện pháp bảo hộ từ các quốc gia đối tác Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng ở giai đoạn phát triển kinh tế nhất định, đa dạng hóa không còn mang lại lợi ích, và các quốc gia nên chuyển sang chuyên môn hóa để tối ưu hóa kết quả Hơn nữa, chỉ số phát triển con người (HDI) có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế, với hệ số âm cho thấy mối quan hệ ngược chiều có ý nghĩa thống kê ở mức 10% (p-value = 0.064) Khi chất lượng nguồn nhân lực cao hơn, hàng hóa sản xuất ngày càng đa dạng và chất lượng cao hơn, chiến lược xuất khẩu cần được điều chỉnh để tận dụng lợi thế Tuy nhiên, việc quá chú trọng vào đa dạng hóa cũng có thể dẫn đến suy giảm tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội và hiện tượng chảy máu chất xám có thể xảy ra ở những nước đang phát triển, ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình phát triển kinh tế của chính quốc gia đó.

Bảng hồi quy cho thấy hệ số của tỷ giá hối đoái EXCHANGE dương và có ý nghĩa thống kê ở mức 1% (p-value = 0.0000 < 0.01), cho thấy khi tỷ giá tăng (đồng tiền của các quốc gia mất giá), kinh tế quốc gia sẽ tăng trưởng tốt hơn Cụ thể, khi tỷ giá tăng 1 đơn vị, mức tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội sẽ tăng 0.0000007 đơn vị Tuy nhiên, mức tăng này khá thấp, cho thấy sự biến động của tỷ giá hối đoái không tác động quá lớn đến tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội.

Hệ số chỉ số phát triển tài chính FD có ý nghĩa thống kê tại mức 5% (p-value = 0.035 < 0.05) và mang giá trị âm, cho thấy mối quan hệ ngược chiều với mức độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội Khi thị trường tài chính phát triển mạnh mẽ, hoạt động của các tổ chức tài chính gia tăng có thể dẫn đến việc khu vực tài chính cạnh tranh nguồn lực với các lĩnh vực khác, từ đó kìm hãm tăng trưởng kinh tế Quan điểm này tương đồng với nghiên cứu của Cecchetti và Kharroubi (2012).

Ngày đăng: 27/08/2021, 22:46

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Chuyên ngành: Tài chình - Ngân Hàng Hướng đào tạo: Hướng Ứng Dụng  Mã số: 8340201  - Mối quan hệ giữa tổng sản phẩm quốc nội và đa dạng hóa xuất khẩu tại một số quốc gia châu á
huy ên ngành: Tài chình - Ngân Hàng Hướng đào tạo: Hướng Ứng Dụng Mã số: 8340201 (Trang 2)
FD Financial Development Index Chỉ số phát triển tài chình FEM Fixed Effect Model  Mô hính tác động cố định  GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội  - Mối quan hệ giữa tổng sản phẩm quốc nội và đa dạng hóa xuất khẩu tại một số quốc gia châu á
inancial Development Index Chỉ số phát triển tài chình FEM Fixed Effect Model Mô hính tác động cố định GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội (Trang 6)
DANH MỤC BẢNG BIỂU - Mối quan hệ giữa tổng sản phẩm quốc nội và đa dạng hóa xuất khẩu tại một số quốc gia châu á
DANH MỤC BẢNG BIỂU (Trang 7)
Bảng 2.1: Bảng tổng hợp nghiên cứu thực nghiệm trƣớc đây - Mối quan hệ giữa tổng sản phẩm quốc nội và đa dạng hóa xuất khẩu tại một số quốc gia châu á
Bảng 2.1 Bảng tổng hợp nghiên cứu thực nghiệm trƣớc đây (Trang 21)
 Chỉ số phát triển tài chình (FD): đo lường và phân tìch các yếu tố tạo điều kiện cho sự phát triển về khả năng tiếp cận, độ sâu và hiệu quả của các tổ  chức tài chình và thị trường tài chình - Mối quan hệ giữa tổng sản phẩm quốc nội và đa dạng hóa xuất khẩu tại một số quốc gia châu á
h ỉ số phát triển tài chình (FD): đo lường và phân tìch các yếu tố tạo điều kiện cho sự phát triển về khả năng tiếp cận, độ sâu và hiệu quả của các tổ chức tài chình và thị trường tài chình (Trang 28)
triển tài chình FD - Mối quan hệ giữa tổng sản phẩm quốc nội và đa dạng hóa xuất khẩu tại một số quốc gia châu á
tri ển tài chình FD (Trang 29)
Bảng 4.1: Thống kê mô tả tất cả các biến đƣợc sử dụng trong mô hình - Mối quan hệ giữa tổng sản phẩm quốc nội và đa dạng hóa xuất khẩu tại một số quốc gia châu á
Bảng 4.1 Thống kê mô tả tất cả các biến đƣợc sử dụng trong mô hình (Trang 36)
Do đó, kiểm định hệ số phóng đại phương sai VIF ở bảng 4.3 cho thấy các giá trị VIF tương ứng của tất cả các biến trong mô hính đều nhỏ hơn 2, nghĩa là có thể  kết luận không có hiện tượng đa cộng tuyến giữa các biến độc lập trong mô hính - Mối quan hệ giữa tổng sản phẩm quốc nội và đa dạng hóa xuất khẩu tại một số quốc gia châu á
o đó, kiểm định hệ số phóng đại phương sai VIF ở bảng 4.3 cho thấy các giá trị VIF tương ứng của tất cả các biến trong mô hính đều nhỏ hơn 2, nghĩa là có thể kết luận không có hiện tượng đa cộng tuyến giữa các biến độc lập trong mô hính (Trang 39)
Kết quả hồi quy có được từ phần mềm Stata theo bảng 4.4 và phụ lục 4 thí mô hính Pooled OLS  có giá trị Prob&gt;F =  0.2459 &gt; 0.05, nghĩa là đối với trường hợp  này, kết quả ước lượng của Pooled OLS không được chấp nhận - Mối quan hệ giữa tổng sản phẩm quốc nội và đa dạng hóa xuất khẩu tại một số quốc gia châu á
t quả hồi quy có được từ phần mềm Stata theo bảng 4.4 và phụ lục 4 thí mô hính Pooled OLS có giá trị Prob&gt;F = 0.2459 &gt; 0.05, nghĩa là đối với trường hợp này, kết quả ước lượng của Pooled OLS không được chấp nhận (Trang 40)
Bảng 4.6: Kết quả kiểm định Hausman - Mối quan hệ giữa tổng sản phẩm quốc nội và đa dạng hóa xuất khẩu tại một số quốc gia châu á
Bảng 4.6 Kết quả kiểm định Hausman (Trang 41)
Bảng 4.9: Kết quả hồi quy theo ƣớc lƣợng GLS - Mối quan hệ giữa tổng sản phẩm quốc nội và đa dạng hóa xuất khẩu tại một số quốc gia châu á
Bảng 4.9 Kết quả hồi quy theo ƣớc lƣợng GLS (Trang 43)
Phụ lục 3: Ma trận hệ số tƣơng quan giữa các biến trong mô hình hồi quy - Mối quan hệ giữa tổng sản phẩm quốc nội và đa dạng hóa xuất khẩu tại một số quốc gia châu á
h ụ lục 3: Ma trận hệ số tƣơng quan giữa các biến trong mô hình hồi quy (Trang 53)
Phụ lục 6: Kết quả hồi quy theo mô hình FEM - Mối quan hệ giữa tổng sản phẩm quốc nội và đa dạng hóa xuất khẩu tại một số quốc gia châu á
h ụ lục 6: Kết quả hồi quy theo mô hình FEM (Trang 54)
Phụ lục 9: Kết quả hồi quy theo mô hình REM - Mối quan hệ giữa tổng sản phẩm quốc nội và đa dạng hóa xuất khẩu tại một số quốc gia châu á
h ụ lục 9: Kết quả hồi quy theo mô hình REM (Trang 55)
Phụ lục 12: So sánh kết quả hồi quy của các mô hình Pooled OLS, FEM, REM và GLS  - Mối quan hệ giữa tổng sản phẩm quốc nội và đa dạng hóa xuất khẩu tại một số quốc gia châu á
h ụ lục 12: So sánh kết quả hồi quy của các mô hình Pooled OLS, FEM, REM và GLS (Trang 56)
(Trong đó: (1), (2), (3) và (4) lần lượt là các mô hình hồi quy Pooled OLS, FEM, REM và GLS) - Mối quan hệ giữa tổng sản phẩm quốc nội và đa dạng hóa xuất khẩu tại một số quốc gia châu á
rong đó: (1), (2), (3) và (4) lần lượt là các mô hình hồi quy Pooled OLS, FEM, REM và GLS) (Trang 56)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w