Giới thiệu
Lý do lựa chọn đề tài của bài luận văn
Quyết định đầu tư là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong tài chính doanh nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu, lợi nhuận và sức khỏe tài chính của công ty Hoạt động đầu tư hiệu quả không chỉ gia tăng lợi nhuận mà còn nâng cao thương hiệu và vị thế của doanh nghiệp trên thị trường Tuy nhiên, hiện nay, hiệu quả đầu tư của nhiều doanh nghiệp Việt Nam còn thấp, dẫn đến thua lỗ và thậm chí phá sản Do đó, nghiên cứu các giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư đang được các nhà quản trị, cổ đông, nhà đầu tư và cơ quan chính phủ đặc biệt quan tâm.
Nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng hiệu quả đầu tư của các công ty bị ảnh hưởng bởi chất lượng báo cáo tài chính và tỷ lệ nợ ngắn hạn trong cấu trúc nợ Cải thiện chất lượng thông tin kế toán trong báo cáo tài chính và sử dụng nợ ngắn hạn một cách hợp lý có thể nâng cao hiệu quả đầu tư Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp tại Việt Nam vẫn coi nhẹ tầm quan trọng của báo cáo tài chính, dẫn đến thông tin không chính xác và thiếu kiểm toán từ các công ty uy tín Điều này làm khó khăn cho các bên liên quan trong việc đưa ra nhận định và dự báo chính xác về doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến quyết định đầu tư Bên cạnh đó, nợ ngắn hạn thường chỉ được xem như giải pháp tạm thời cho vấn đề vốn lưu động, mà chưa được chú trọng đúng mức trong các dự án đầu tư trung và dài hạn.
Nghiên cứu mối quan hệ giữa chất lượng báo cáo tài chính và kỳ hạn nợ ngắn hạn đối với hiệu quả đầu tư thực sự là vấn đề quan trọng và có tính ứng dụng cao tại doanh nghiệp Một số nghiên cứu thực nghiệm ở Tây Ban Nha và các quốc gia mới nổi đã cung cấp nhiều kết quả hữu ích Tuy nhiên, tại Việt Nam, chưa có luận văn nào khai thác sâu về mối quan hệ này Vì vậy, luận văn “Mối quan hệ giữa hiệu quả đầu tư với chất lượng báo cáo tài chính và kỳ hạn nợ – Bằng chứng thực nghiệm ở các doanh nghiệp Việt Nam giai đoạn 2009-2019” được thực hiện nhằm giải quyết vấn đề nghiên cứu và cung cấp tài liệu thực nghiệm cho doanh nghiệp Việt Nam trong hoạt động sản xuất kinh doanh và đầu tư trong tương lai.
Mục tiêu của luận văn
Luận văn nhằm kiểm định tác động của chất lượng báo cáo tài chính, kỳ hạn nợ và các yếu tố vi mô khác đến hiệu quả đầu tư của 121 doanh nghiệp niêm yết không thuộc lĩnh vực tài chính trong giai đoạn từ năm 2009 đến 2019.
Kiểm định mối quan hệ giữa chất lượng báo cáo tài chính và hiệu quả hoạt động đầu tư của công ty là rất quan trọng, đặc biệt trong việc phân tích ảnh hưởng của yếu tố này đến hiện tượng đầu tư quá mức và đầu tư dưới mức của các doanh nghiệp.
Nghiên cứu xác định mối quan hệ giữa tỷ lệ nợ ngắn hạn trong cơ cấu nợ và hiệu quả hoạt động đầu tư của công ty, đặc biệt là tác động của yếu tố này đến hiện tượng đầu tư quá mức và đầu tư dưới mức của công ty.
Kiểm định mối quan hệ giữa chất lượng báo cáo tài chính và hiệu quả đầu tư cho thấy sự ảnh hưởng của chất lượng này đến hiện tượng đầu tư quá mức và đầu tư dưới mức của doanh nghiệp, đặc biệt là trong bối cảnh sử dụng nợ ngắn hạn khác nhau.
Dựa trên kết quả thực nghiệm, bài viết này đưa ra một số gợi ý cho các doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư trong tương lai.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu này tập trung vào việc phân tích tác động của chất lượng báo cáo tài chính và kỳ hạn nợ ngắn hạn đến hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp phi tài chính Chất lượng báo cáo tài chính được xem là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định đầu tư, trong khi kỳ hạn nợ ngắn hạn có thể tác động đến khả năng tài chính và chiến lược đầu tư của doanh nghiệp Việc hiểu rõ mối liên hệ giữa các yếu tố này sẽ giúp tối ưu hóa hiệu quả đầu tư trong lĩnh vực phi tài chính.
+ Về không gian: 121 doanh nghiệp niêm yết trên sàn HOSE và HNX thuộc 12 ngành phi tài chính ở Việt Nam
Nghiên cứu này chọn khoảng thời gian từ năm 2009 đến 2019 nhằm phân tích mối quan hệ giữa hiệu quả đầu tư, chất lượng báo cáo tài chính, kỳ hạn nợ và các biến vi mô khác Thời gian này đảm bảo tính đầy đủ của dữ liệu cho các quốc gia nghiên cứu, đồng thời cho phép xem xét toàn diện những biến động của các doanh nghiệp.
Bài viết nghiên cứu tác động của chất lượng báo cáo tài chính và kỳ hạn nợ đến hiệu quả đầu tư Từ đó, tác giả đưa ra kết luận và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Ý nghĩa của bài nghiên cứu
Nghiên cứu này nhằm đánh giá tác động của chất lượng báo cáo tài chính và kỳ hạn nợ ngắn hạn đến hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp phi tài chính tại Việt Nam Đề tài không chỉ đóng góp cho kho tàng nghiên cứu khoa học về hiệu quả đầu tư và chất lượng báo cáo tài chính, mà còn mang lại ý nghĩa lý thuyết và thực tiễn quan trọng.
Nghiên cứu này cung cấp thêm bằng chứng thực nghiệm về ảnh hưởng của chất lượng báo cáo tài chính và kỳ hạn nợ ngắn hạn đối với hiệu quả đầu tư, từ đó làm phong phú thêm kho tàng nghiên cứu khoa học liên quan đến vấn đề này.
Nghiên cứu cung cấp bằng chứng khoa học định lượng, làm cơ sở cho các giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư và chất lượng báo cáo tài chính của doanh nghiệp Tài liệu này rất hữu ích cho các nhà quản trị, nhà đầu tư trong và ngoài nước, cũng như các nhà hoạch định chính sách.
Đề tài này không chỉ là bước đệm mà còn khuyến khích các nhà nghiên cứu chú trọng hơn đến chất lượng báo cáo tài chính, kỳ hạn nợ và các yếu tố vi mô khác.
Cấu trúc bài nghiên cứu
Luận văn này được chia thành 5 phần chính Phần 1 giới thiệu tổng quan về lý do chọn đề tài, mục tiêu và cấu trúc của luận văn Phần 2 trình bày khái niệm về đầu tư, hiệu quả hoạt động đầu tư, báo cáo tài chính, chất lượng báo cáo tài chính, kỳ hạn nợ và nợ ngắn hạn, cùng với các lý thuyết và nghiên cứu nền tảng liên quan đến mối quan hệ giữa hiệu quả hoạt động đầu tư và chất lượng báo cáo tài chính Phần 3 chi tiết hóa mẫu, dữ liệu, phương pháp thu thập dữ liệu, mô tả biến và kỳ vọng dấu theo từng giả thuyết nghiên cứu, cũng như các phương pháp nghiên cứu và mô hình hồi quy được sử dụng Phần 4 trình bày kết quả nghiên cứu, bao gồm thống kê mô tả, ma trận hệ số tương quan và kết quả thực nghiệm từ mô hình hồi quy dữ liệu bảng động Cuối cùng, phần 5 tổng kết các kết quả thực nghiệm, đưa ra đánh giá và phân tích về các kết quả này, cùng với những gợi ý thiết thực cho doanh nghiệp Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư, đồng thời chỉ ra các hạn chế trong luận văn và kiến nghị hướng hoàn thiện cho đề tài trong tương lai.
Phương pháp nghiên cứu
Mô hình nghiên cứu
Bài luận này kiểm định mối quan hệ giữa hiệu quả đầu tư, chất lượng báo cáo tài chính và kỳ hạn nợ của các doanh nghiệp Việt Nam, dựa trên các mô hình hồi quy được đề xuất bởi Fuensanta Cutillas Gomariz và Juan Pedro Sánchez Ballesta (2013), theo những lý thuyết đã được trình bày trong phần tổng quan tài liệu.
Mô hình tổng quát được áp dụng để kiểm tra ảnh hưởng của chất lượng báo cáo tài chính và kỳ hạn nợ đến hiệu quả đầu tư của công ty Nghiên cứu này nhằm làm rõ mối quan hệ giữa các yếu tố tài chính và hiệu suất đầu tư, từ đó cung cấp cái nhìn sâu sắc về cách thức quản lý tài chính có thể tác động đến sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.
HQDautu i,t = β0 + β1BCTC i,t + β2KHNo i,t + β3Kiemsoat + ɛ i,t (1) Trong đó:
HQDautu i,t là biến phụ thuộc thể hiện hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp i tại năm t Dựa trên đề xuất của M Fuensanta Cutillas Gomariz và Juan Pedro Sánchez Ballesta (2013), luận văn này sẽ đo lường hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp thông qua hai phương pháp khác nhau Ngoài ra, mỗi phương pháp đo lường sẽ phân loại đầu tư thành đầu tư quá mức và đầu tư dưới mức, nhằm đánh giá toàn diện tác động của chất lượng báo cáo tài chính và kỳ hạn nợ đến hiệu quả đầu tư.
BCTC i,t là biến độc lập thể hiện chất lượng báo cáo tài chính của doanh nghiệp i tại năm t Mặc dù chất lượng báo cáo tài chính phụ thuộc vào nhiều yếu tố và khó đo lường, luận văn này sẽ xác định chất lượng báo cáo tài chính thông qua 4 phương pháp tính mà các tác giả M Fuensanta Cutillas Gomariz và Juan Pedro Sánchez Ballesta đề xuất trong nghiên cứu của họ.
KHNo i,t là biến độc lập, đại diện cho kỳ hạn nợ của doanh nghiệp i tại năm t
Kiemsoat là các biến kiểm soát được thêm vào mô hình nhằm tăng cường độ tin cậy trong việc kiểm định mối quan hệ giữa biến phụ thuộc và các biến độc lập Các biến này bao gồm độ tuổi của doanh nghiệp, tài sản cố định hữu hình, độ lệch chuẩn dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh, độ lệch chuẩn doanh thu, QTobin, hệ số Z, biến đại diện cho việc thua lỗ của công ty, và chu kỳ kinh doanh.
Mô hình kiểm định mối quan hệ giữa chất lượng báo cáo tài chính và hiệu quả đầu tư sẽ được thực hiện với các tỷ lệ nợ ngắn hạn khác nhau Nghiên cứu này nhằm xác định ảnh hưởng của chất lượng báo cáo tài chính đến hiệu quả đầu tư trong bối cảnh các doanh nghiệp sử dụng các mức độ nợ ngắn hạn khác nhau Kết quả sẽ giúp hiểu rõ hơn về cách thức quản lý tài chính và tối ưu hóa đầu tư dựa trên chất lượng thông tin tài chính.
Luận văn sẽ khám phá mối quan hệ giữa hiệu quả đầu tư, chất lượng báo cáo tài chính và kỳ hạn nợ thông qua mô hình hồi quy (1) Dựa trên đề xuất của M Fuensanta Cutillas Gomariz và Juan Pedro Sánchez Ballesta (2013), nghiên cứu sẽ đi sâu vào các mối quan hệ này bằng cách kiểm định ảnh hưởng của chất lượng báo cáo tài chính đến hiệu quả đầu tư ở các mức độ vay nợ ngắn hạn khác nhau Từ đó, luận văn sẽ xây dựng một mô hình mới dựa trên mô hình (1).
(2) bằng cách bổ sung biến tương tác giữa chất lượng báo cáo tài chính và biến giả các kỳ hạn nợ khác nhau, cụ thể như sau:
HQDautu i,t = β 0 +β 1 BCTC i,t +β 2 KHNo i,t + β 3 BCTC i,t * DumKHNot i,t + β 4 Kiemsoat + ɛi,t
HQDautu i,t là biến phụ thuộc, đại diện cho hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp i tại năm t
BCTC i,t là biến độc lập thể hiện chất lượng báo cáo tài chính của doanh nghiệp i trong năm t KHNo i,t là biến độc lập đại diện cho kỳ hạn nợ của doanh nghiệp i tại năm t.
Biến giả DumKHNot i,t đại diện cho các kỳ hạn nợ khác nhau của doanh nghiệp i tại năm t, được xây dựng theo đề xuất của M Fuensanta Cutillas Gomariz và Juan Pedro Sánchez Ballesta (2013) Các kỳ hạn nợ này được xác định bằng cách so sánh tỷ lệ nợ ngắn hạn của doanh nghiệp với trung vị hoặc các tứ phân vị thứ nhất và thứ ba của tỷ lệ nợ ngắn hạn trong từng năm Chi tiết về phương pháp đo lường các biến giả này sẽ được trình bày ở phần tiếp theo.
Kiemsoat là các biến kiểm soát được bổ sung vào mô hình (2) tương tự như mô hình (1)
Bài nghiên cứu áp dụng hai mô hình tổng quát để phân tích mối quan hệ giữa các biến Để thuận tiện trong việc theo dõi, phần 3.2.2 sẽ trình bày chi tiết cách ước lượng của biến phụ thuộc, biến độc lập và các biến kiểm soát, do từng biến được đo lường theo các mô hình khác nhau.
Mẫu, dữ liệu nghiên cứu và kỳ vọng dấu
3.2.1 Mẫu và dữ liệu nghiên cứu
Luận văn này kiểm định tác động của chất lượng báo cáo tài chính và kỳ hạn nợ đến hiệu quả hoạt động đầu tư của 121 công ty phi tài chính niêm yết trên sàn HOSE và HNX Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ báo cáo tài chính của các doanh nghiệp trong giai đoạn 2007-2019, dựa trên bộ dữ liệu của Công ty Cổ phần Tài Việt (Vietstock) và các nguồn dữ liệu vi mô từ các trang web chứng khoán uy tín như Cổ phiếu 68 và CafeF.
Theo đề xuất của các tác giả M Fuensanta Cutillas Gomariz, Juan Pedro Sánchez Ballesta
Trong nghiên cứu này, việc định lượng các biến chất lượng báo cáo tài chính, hiệu quả đầu tư và các biến kiểm soát khác yêu cầu sử dụng dữ liệu từ các năm t-2, t-1 và t+1 Để giảm thiểu số lượng biến khiếm khuyết và đảm bảo độ chính xác cho mô hình hồi quy, luận văn chỉ sử dụng dữ liệu từ năm 2009 đến 2019, mặc dù kích thước mẫu ban đầu là từ 2007-2019 Sau khi xử lý dữ liệu thô, luận văn thực hiện các tính toán, hồi quy và khởi tạo các biến mới theo đề xuất của các nghiên cứu trước bằng phần mềm Stata 14.0 Kết quả cuối cùng của nghiên cứu bao gồm 1342 quan sát từ 121 doanh nghiệp phi tài chính tại Việt Nam trong khoảng thời gian 2009-2019.
3.2.2 Mô tả biến và kỳ vọng dấu
Biến phụ thuộc trong luận văn này là hiệu quả đầu tư, được đo lường theo phương pháp của Biddle và cộng sự (2009) cùng với M Fuensanta Cutillas Gomariz và Juan Pedro Sánchez Ballesta (2013) Các nghiên cứu này chỉ ra rằng sai lệch trong mối liên hệ giữa đầu tư và tăng trưởng doanh nghiệp phản ánh việc đầu tư không hiệu quả Do đó, hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp được ước tính qua phần dư trong mô hình hồi quy giữa đầu tư (tính bằng mức thay đổi tài sản cố định) và cơ hội tăng trưởng (tính bằng mức tăng trưởng doanh thu) Luận văn sẽ định lượng biến hiệu quả đầu tư từ mô hình hồi quy này.
Dautu i,t là biến thể hiện tổng mức đầu tư của doanh nghiệp i trong năm t, được tính bằng chênh lệch giá trị tài sản cố định giữa hai năm liên tiếp so với tổng tài sản của năm trước.
Dautu i,t = Tài sản cố định i,t − Tài sản cố định i,t−1
TTDThu i,t-1 là biến đại diện cho mức độ tăng trưởng doanh thu của doanh nghiệp i từ năm t-2 đến năm t-1, được đo lường theo công thức sau:
TTDThu i,t-1 = Doanh thu i,t−1 −Doanh thu i,t−2
Doanh thu i,t−2 ɛ̂ i,t là phần dư của mô hình hồi quy, phản ánh mức độ sai lệch giữa tăng trưởng doanh thu và mức đầu tư dự kiến Phần dư này, ɛ̂ i,t, được sử dụng làm thước đo cho hiệu quả đầu tư (HQDautu) Để đảm bảo sự đồng nhất về dấu, luận văn tiếp tục áp dụng đề xuất của M Fuensanta Cutillas Gomariz và Juan Pedro Sánchez Ballesta (2013) bằng cách lấy giá trị tuyệt đối của ɛ̂ i,t và nhân với -1 Do đó, biến HQDautu được xác định một cách chính xác.
Để tăng tính toàn diện cho nghiên cứu, bài luận sẽ bổ sung vào mô hình hồi quy một biến đại diện cho hiệu quả đầu tư khác, dựa trên đề xuất của Chen và cộng sự (2011) cùng nghiên cứu của M Fuensanta Cutillas Gomariz, Juan Pedro Sánchez Ballesta (2013) Theo các tác giả này, hiệu quả đầu tư có thể được đo lường kỹ càng hơn bằng cách thêm vào mô hình hồi quy một biến giả đại diện cho tăng trưởng âm và dương của doanh thu (biến DumTTDThu) Mô hình hồi quy sẽ được viết lại tương ứng.
Dautu i,t = β 0 + β 1 DumTTDthu i,t-1 + β 2 TTDthu i,t-1 + β 3 DumTTDthu i i,t-1 * 2 TTDthu i,t-1 + ɛ i,t (4)
DumTTDthu i,t-1 là biến giả thể hiện giá trị dương hoặc âm của tăng trưởng doanh thu của doanh nghiệp i trong năm t-1 Cụ thể, nếu TTDthu < 0, thì DumTTDthu i,t-1 = 1; ngược lại, nếu TTDthu > 0, thì DumTTDthu i,t-1 = 0.
Dautu i,t và TTDthu i,t-1 được xác định tương tự như mô hình (3), với ɛ̂ i,t là phần dư của mô hình hồi quy (4) Phần dư này phản ánh mức độ sai lệch giữa tăng trưởng doanh thu và mức đầu tư dự kiến, do đó, ɛ̂ i,t được sử dụng làm thước đo cho hiệu quả đầu tư (biến HQDautu2) Để đảm bảo sự đồng nhất về dấu, biến hiệu quả đầu tư thay thế HQDautu2 sẽ được xác định bằng cách lấy giá trị tuyệt đối của ɛ̂ i,t ở mô hình (4) và nhân với -1.
Luận văn này phân tách biến HQDautu và HQDautu2 thành các biến ODT1, UDT1, ODT2, UDT2, nhằm đánh giá tác động của chất lượng báo cáo tài chính, kỳ hạn nợ ngắn hạn và các biến kiểm soát khác đối với hiệu quả hoạt động đầu tư của công ty Nghiên cứu sẽ xem xét hai xu hướng đầu tư: đầu tư quá mức và đầu tư dưới mức.
Nhóm biến chất lượng báo cáo tài chính:
Báo cáo tài chính là nguồn thông tin thiết yếu giúp cá nhân và tổ chức đánh giá sức khỏe và tình hình hoạt động của doanh nghiệp, bao gồm cơ cấu tài sản, vốn, và khả năng xử lý nợ Nếu doanh nghiệp phát hành báo cáo chất lượng, nhà quản trị và cổ đông sẽ có cơ sở vững chắc để đưa ra quyết định đầu tư hiệu quả Tuy nhiên, việc đo lường chất lượng báo cáo tài chính là thách thức do nó bao gồm cả yếu tố định lượng và định tính, cùng nhiều yếu tố ảnh hưởng khác Nghiên cứu của M Fuensanta Cutillas Gomariz và Juan Pedro Sánchez Ballesta (2013) đã đề xuất một số phương pháp hợp lý để đánh giá chất lượng báo cáo tài chính, được cộng đồng nghiên cứu chấp nhận và sử dụng rộng rãi Bài luận văn này sẽ áp dụng 4 phương pháp để đo lường chất lượng báo cáo tài chính của doanh nghiệp tại Việt Nam, với mỗi phương pháp tương ứng với một biến độc lập, nhằm kiểm định tác động của chúng đến hiệu quả đầu tư.
Biến BCTC_MNST là biến độc lập được ước tính từ phần dư hồi quy trong mô hình hồi quy giữa thay đổi doanh thu và thay đổi khoản phải thu, theo phương pháp của McNichols và Stubben (2008) Nghiên cứu này chỉ ra rằng sự sai lệch giữa doanh thu trong năm t và quản lý khoản phải thu của doanh nghiệp phản ánh chất lượng báo cáo tài chính Mô hình hồi quy được thể hiện bằng công thức: ΔKPT i,t = β 0 + β 1 ΔDTs i,t + ɛ i,t (5).
ΔKPT i,t là biến phụ thuộc, thể hiện sự biến động của khoản phải thu ngắn hạn của công ty i trong năm t Biến này được tính toán bằng cách lấy khoản phải thu ngắn hạn của công ty i tại năm t trừ đi khoản phải thu ngắn hạn của năm trước đó (t-1).
Tổng tài sản i,t−1 ΔDT i,t là biến độc lập, phản ánh sự thay đổi doanh thu hàng năm của doanh nghiệp i tại năm t Biến này được tính toán bằng cách lấy doanh thu năm t trừ đi doanh thu năm trước đó, cụ thể là ΔDT i,t = Doanh thu i,t − Doanh thu i,t−1.
Tổng tài sản i,t−1 ɛ̂ i,t là phần dư của mô hình hồi quy, phản ánh mức sai lệch giữa doanh thu và quản lý khoản phải thu của doanh nghiệp Phần dư này được sử dụng để định lượng chất lượng báo cáo tài chính (biến BCTC_MNST) Tương tự như phương pháp chính xác hóa trước khi đưa vào mô hình hồi quy các biến hiệu quả đầu tư, biến độc lập BCTC_MNST cũng được xác định dựa trên giá trị tuyệt đối của phần dư từ mô hình nhân với -1.
Luận văn này dựa trên các lý thuyết và luận cứ trong phần tổng quan nghiên cứu, với mục tiêu chứng minh rằng BCTC_MNST sẽ có ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả hoạt động đầu tư của công ty.
Phương pháp nghiên cứu
Bài luận văn này nghiên cứu mối quan hệ giữa chất lượng báo cáo tài chính, kỳ hạn nợ và các biến kiểm soát với hiệu quả đầu tư, dựa trên nghiên cứu của M Fuensanta Cutillas Gomariz và Juan Pedro Sánchez Ballesta (2013) Để thực hiện, tác giả sử dụng các phương pháp hồi quy cho dữ liệu bảng động, bao gồm Pooled-OLS, Fixed Effect và Random Effect, trên mẫu 121 doanh nghiệp niêm yết tại sàn HOSE và HNX thuộc 12 ngành phi tài chính ở Việt Nam từ năm 2009-2019 Để chọn phương pháp hồi quy tối ưu, bài luận áp dụng F-Test và kiểm định Hausman, đồng thời thực hiện các kiểm định khuyết tật mô hình như kiểm định đa cộng tuyến và phương sai thay đổi, nhằm đưa ra giải pháp khắc phục, đảm bảo kết quả hồi quy chính xác và vững chắc hơn Quy trình nghiên cứu được thực hiện theo các bước cụ thể.
Bước 1, Tiến hành khởi tạo các biến hiệu quả hoạt động đầu tư và chất lượng các loại báo cáo tài chính như đã trình bày ở phần trên
Bước 2 là thực hiện thống kê mô tả cho các biến trong mô hình hồi quy, đồng thời phân tích ma trận hệ số tương quan giữa các biến Điều này giúp đánh giá tổng quan về xu hướng tác động của các yếu tố lẫn nhau.
Bước 3, bài luận sẽ thực hiện kiểm định đa cộng tuyến bằng cách sử dụng hệ số phóng đại phương sai (VIF) trong các mô hình hồi quy, trong đó bao gồm các biến đại diện cho chất lượng báo cáo tài chính.
Đa cộng tuyến là hiện tượng xảy ra khi các yếu tố độc lập trong mô hình hồi quy tuyến tính có mối quan hệ với nhau, và có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này, bao gồm phương pháp thu thập dữ liệu không đại diện, bản chất của các biến trong mô hình, hoặc số lượng biến giải thích vượt quá kích thước mẫu Đặc biệt, trong các nghiên cứu sử dụng dữ liệu bảng từ năm 2009-2019, sự tương đồng trong cách đo lường các biến có thể làm gia tăng khả năng xảy ra đa cộng tuyến và phương sai thay đổi Để đảm bảo độ vững chắc cho các ước lượng hồi quy, bài luận này sẽ áp dụng phương pháp nhân tử phóng đại VIF và kiểm tra ma trận hệ số tương quan Nếu hệ số phóng đại phương sai nhỏ hơn 10 và các hệ số tương quan nhỏ hơn 0,8, mô hình được coi là đáng tin cậy; ngược lại, nếu vượt qua ngưỡng này, mô hình sẽ gặp phải vấn đề đa cộng tuyến.
Sau khi loại bỏ các biến gây ra hiện tượng đa cộng tuyến và giữ lại những biến đáng tin cậy, bài luận sẽ tiến hành chạy các mô hình hồi quy theo thứ tự: Mô hình Pooled-OLS, Mô hình FEM và Mô hình REM, sử dụng phần mềm STATA 14.0.
Kiểm định, lựa chọn mô hình phù hợp:
Mỗi phương pháp nghiên cứu đều có ưu và nhược điểm riêng, do đó việc xác định mô hình Pooled-OLS, FEM hay REM phù hợp phụ thuộc vào sự khác biệt về tung độ gốc của mô hình hồi quy giữa các doanh nghiệp và mối tương quan với biến độc lập Để lựa chọn mô hình có độ vững chắc cao nhất, luận văn sẽ thực hiện một số kiểm định liên quan và tiến hành các hồi quy bổ sung Bài luận cũng sẽ trình bày đầy đủ kết quả hồi quy của cả ba phương pháp nhằm đảm bảo tính khách quan và tạo tiền đề cho việc so sánh trong phần 4 – Kết quả nghiên cứu Các kiểm định được sử dụng trong luận văn bao gồm
Kiểm định F-Test: thường được sử dụng để xem xét để chọn lựa giữa phương pháp Pooled
OLS và FEM với giả thiết như sau:
H0: Phương pháp FEM không hợp lý
H1: Phương pháp FEM hợp lý
Nếu giá trị P-Value > 0.1, chấp nhận giả thuyết H0, nghĩa là mô hình FEM không hợp lý, vì vậy nên sử dụng mô hình Pooled OLS
Kiểm định Hausman : thường được sử dụng để xem xét để chọn lựa giữa phương pháp
FEM và REM với giả thiết như sau:
H0: Ước lượng từ hai phương pháp FEM và REM là không khác biệt
H0: Ước lượng từ hai phương pháp FEM và REM là khác biệt
Nếu giá trị P-Value > 0.1, chấp nhận giả thuyết H0, nghĩa là mô hình FEM không hợp lý, vì vậy nên sử dụng mô hình REM
Kiểm định phương sai thay đổi:
Sau khi thực hiện hai kiểm định, kết quả cho thấy nên áp dụng phương pháp FEM hoặc REM Bài luận sẽ sử dụng thêm kiểm định về phương sai thay đổi theo đề xuất của Greene (2003), thực hiện kiểm định Wald nhằm bảo đảm tính bền cho mô hình Giả thuyết kiểm định phương sai sai số thay đổi được nêu rõ.
H0: Phương sai không thay đổi
Nếu giá trị P-Value < 0.1, nghĩa là bác bỏ H0, mô hình có phương sai thay đổi
Hồi quy Robust cho mô hình
Khi xuất hiện khuyết tật như phương sai thay đổi, bài luận sẽ thực hiện hồi quy bổ sung Robust cho mô hình Mô hình hồi quy được lựa chọn sau các kiểm định sẽ được bổ sung thêm ma trận trọng số của White theo đề xuất của Eicker–Huber–White (1967), nhằm đảm bảo độ vững cho mô hình.
Phần tiếp theo sẽ trình bày về kết quả nghiên cứu đối với bộ mẫu nghiên cứu của luận văn.
Kết quả nghiên cứu
Thống kê mô tả
Bảng 4.1 trình bày kết quả thống kê mô tả các biến trong mô hình hồi quy về tác động đối với hiệu quả đầu tư Hiệu quả đầu tư trung bình của doanh nghiệp Việt Nam giai đoạn 2009-2019 theo mô hình hồi quy (3) và (4) là -0,07 Cụ thể, đầu tư quá mức có giá trị trung bình -0,11, trong khi đầu tư dưới mức là -0,05 cho cả hai mô hình Điều này cho thấy hai phương pháp đo lường hiệu quả đầu tư tương đồng và có thể thay thế cho nhau, tương tự như kết quả nghiên cứu của Chen và cộng sự (2011) cùng với M Fuensanta Cutillas Gomariz và Juan Pedro Sánchez Ballesta (2013).
Theo thống kê mô tả về hiệu quả đầu tư, khoảng 30,8% doanh nghiệp ở Việt Nam đầu tư quá mức, trong khi 69,2% còn lại đầu tư dưới mức Điều này cho thấy phần lớn doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc đầu tư hiệu quả, phù hợp với nghiên cứu của Chen và cộng sự (2011) về các doanh nghiệp ở các quốc gia mới nổi Nguyên nhân có thể do các doanh nghiệp tại thị trường mới nổi, bao gồm Việt Nam, thường gặp vấn đề trong huy động vốn cho dự án đầu tư, dẫn đến chi phí vốn cao và làm giảm hiệu quả đầu tư.
Bảng 4.1 tổng quát các biến đo lường chất lượng báo cáo tài chính (BCTC_MNST, BCTC_KASZ, BCTC_DD và BCTC_TB) với sự khác biệt nhỏ về giá trị trung bình, dao động từ -0,07 đến -0,18 Giá trị trung bình thấp nhất thuộc về BCTC_DD, trong khi BCTC_MNST có giá trị cao nhất Kết quả mô tả thống kê này tương đồng với các nghiên cứu trước, cho thấy rằng mặc dù các biến chất lượng báo cáo tài chính được đo lường theo bốn phương pháp khác nhau, nhưng giá trị trung bình và các thống kê khác vẫn không sai lệch nhiều, khẳng định tính hợp lý trong cách đo lường các biến độc lập này.
Bảng 4.1 chỉ ra rằng biến kỳ hạn nợ ngắn hạn có giá trị trung bình là 0,81, cho thấy nhiều doanh nghiệp Việt Nam sử dụng nợ ngắn hạn, với khoảng 80% doanh nghiệp có nhu cầu vay nợ để bổ sung vốn lưu động và thực hiện các dự án đầu tư ngắn hạn Ngoài ra, quy mô doanh nghiệp trong mẫu nghiên cứu có giá trị trung bình là 13,47, trong khi độ tuổi trung bình của các doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng cần xem xét.
Tại Việt Nam, độ tuổi trung bình của các doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán HOSE và HNX là 24 tuổi (logarit trung bình là 3,11), cho thấy chúng đã hoạt động khá lâu trên thị trường Tỷ lệ tài sản cố định trên tổng tài sản của các doanh nghiệp này trung bình chỉ đạt 22%, với giá trị cao nhất lên tới 98% Mức tỷ lệ 22% này tương đối thấp, cho thấy cơ cấu tài sản của các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu thiên về tài sản ngắn hạn.
Theo nhà kinh tế học Hoa Kỳ Edward I Altman, bảng kết quả thống kê mô tả cho thấy sức khỏe tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam là một điểm thú vị đáng chú ý.
Theo giảng viên trường đại học New York, hệ số Z nhỏ hơn 1,8 cho thấy doanh nghiệp có sức khỏe tài chính yếu Kết quả trung bình của hệ số Z trong bảng 1 là 1,5, cho thấy tình hình tài chính của các doanh nghiệp trong mẫu nghiên cứu không khả quan Tuy nhiên, cần lưu ý rằng đây chỉ là giá trị trung bình, trong khi giá trị cao nhất đạt 9,57 và giá trị thấp nhất không được nêu rõ.
Việc phản ánh sức khỏe tài chính của các công ty trong mẫu nói chung và từng doanh nghiệp cụ thể là chưa đủ cơ sở và tính hợp lý Theo Bảng 1, chu kỳ kinh doanh trung bình của doanh nghiệp Việt Nam là gần 2 năm (679 ngày) và giá trị cơ hội tăng trưởng trung bình đạt 1,02.
Cuối cùng, kết quả nghiên cứu cho thấy chỉ có 14% doanh nghiệp trong mẫu báo lỗ trong giai đoạn 2009-2019, với biến giả thua lỗ Loss có giá trị trung bình là 0,14 Điều này cho thấy đa số các doanh nghiệp có kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh khả quan, phù hợp với tình hình chung của nền kinh tế Việt Nam và sự phát triển của thị trường chứng khoán trong những năm qua.
Bảng 4.1 Kết quả thống kê mô tả
Variable Obs Mean Std Dev Min Max
Variable Obs Mean Std Dev Min Max
Ma trận tự tương quan:
Bảng 4.2 cung cấp cái nhìn tổng quan về mối quan hệ giữa các biến nghiên cứu, cho thấy các biến hiệu quả đầu tư có hệ số tương quan cao đạt 0,99, bất kể phương pháp đo lường Về chất lượng báo cáo tài chính, ba trong bốn đại diện có tương quan cùng chiều và ý nghĩa thống kê với hai phương pháp đo lường hiệu quả hoạt động đầu tư, cho thấy sự chuyển dịch cùng chiều giữa chất lượng báo cáo và hiệu quả đầu tư khi có sự thay đổi Các biến thông tin kế toán cũng có tương quan dương và ý nghĩa thống kê với nhau, đặc biệt biến BCTC_TB có hệ số tương quan cao với các biến khác, cho thấy phương pháp lấy trung bình là tối ưu để đại diện cho các phương pháp còn lại Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của M Fuensanta Cutillas Gomariz và Juan Pedro Sánchez Ballesta (2013).
Nghiên cứu chỉ ra rằng kỳ hạn nợ có mối tương quan tích cực với hiệu quả đầu tư, cho thấy sự di chuyển cùng chiều giữa hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp và mức độ nợ ngắn hạn trong cơ cấu nợ Ngược lại, hệ số tương quan giữa kỳ hạn nợ và các biến chất lượng báo cáo tài chính lại mang dấu âm và có ý nghĩa thống kê Đối với các biến kiểm soát khác, mối tương quan giữa chúng và biến phụ thuộc tương đối thấp, dưới 0,8 Để đảm bảo tính bền vững và độ tin cậy cho mô hình hồi quy, bài luận văn sẽ tiếp tục trình bày kết quả kiểm định đa cộng tuyến trong phần tiếp theo.
Kiểm định đa cộng tuyến
Để kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến, bài luận sẽ thực hiện hồi quy Pooled-OLS giữa biến phụ thuộc và các biến chất lượng báo cáo tài chính, kỳ hạn nợ cùng với các biến kiểm soát đã nêu Hệ số phóng đại phương sai (VIF) sẽ được ước tính, và nếu VIF lớn hơn 10, các biến nghi ngờ gây ra đa cộng tuyến sẽ bị loại bỏ, đặc biệt là Quy mô doanh nghiệp và độ tuổi doanh nghiệp do sự khác biệt lớn về số liệu Sau đó, kiểm định hệ số VIF sẽ được thực hiện lại và kết quả sẽ được trình bày trong bảng 4.3.
Theo bảng 4.3, cả bốn mô hình đo lường chất lượng báo cáo tài chính đều có hệ số VIF lớn hơn 10, cho thấy hiện tượng đa cộng tuyến trong mô hình hồi quy Do đó, bài luận đã quyết định loại bỏ biến Quymo và biến LnAge khỏi mô hình, dựa trên phân tích về mức độ nghi ngờ và hệ số VIF cao của hai biến này trong kiểm định đa cộng tuyến.
Sau khi loại bỏ biến Quymo và LnAge, hệ số VIF đều dưới 10, chứng tỏ mô hình đã loại bỏ hiện tượng đa cộng tuyến Điều này cho thấy bộ biến hiện tại đủ điều kiện và đáng tin cậy để thực hiện các bước kiểm định tiếp theo.
Bảng 4 2 Ma trận tự tương quan Pearson
HQDautu HQDautu2 ODT1 UDT1 ODT2 UDT2 BCTC_MSNT BCTC_KASZ BCTC_DD BCTC_TB KHNo Quymo LnAge TSCDHH BDCFO BDDT Qtobin Z Loss Tacdong
*, ** và *** lần lượt là các mức ý nghĩa 10%, 5% và 1%
Bảng 4 3 Kiểm định đa cộng tuyến
VIF Ban đầu Loại bỏ biến
Kết quả hồi quy
Trong phần kết quả nghiên cứu, bài luận văn sẽ trình bày hai nội dung chính: (1) Kết quả hồi quy giữa các biến hiệu quả đầu tư và các biến đo lường chất lượng báo cáo tài chính cùng với biến kỳ hạn nợ và các biến kiểm soát khác; (2) Kết quả hồi quy giữa các biến hiệu quả đầu tư theo mô hình (3) với biến BCTC_TB và các biến kiểm soát, bổ sung các biến giả đại diện cho từng kỳ hạn nợ ngắn hạn Các kiểm định được thực hiện theo ba phương pháp Pooled-OLS, Fixed Effect và Random Effect, và kiểm tra để lựa chọn phương pháp hồi quy tối ưu nhất Kết quả cho thấy mô hình REM và FEM là tối ưu nhất, đặc biệt sau khi thực hiện hồi quy bổ sung robust để loại bỏ hiện tượng phương sai thay đổi Phần này sẽ trình bày kết quả hồi quy theo cả ba phương pháp nhưng phần diễn giải sẽ chỉ dựa trên kết quả của phương pháp tối ưu.
4.3.1 Tác động của chất lượng báo cáo tài chính và nợ ngắn hạn đến hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam
HQDautu i,t = β 0 + β 1 BCTC i,t + β 2 KHNo i,t + β 3 TSCDHH i,t +β 4 BDCFO i,t + β 5 BDDT i,t + β 6 QTobin i,t + β 7 Z i,t + β 8 Loss i,t + β 9 TacdongCFO ,t + β 10 ChukyKD i,t + ɛ i,t (8)
Sau khi loại bỏ các yếu tố gây ra đa cộng tuyến, bài luận văn áp dụng mô hình hồi quy (8) để đánh giá ảnh hưởng của chất lượng báo cáo tài chính và nợ ngắn hạn đến hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp Kết quả hồi quy được trình bày trong bảng 4.4 với các biến BCTC khác nhau Cột đầu tiên thể hiện kết quả khi sử dụng biến BCTC_MNST theo đề xuất của McNichols và Stubben (2008); cột thứ hai là kết quả từ biến BCTC_KASZ theo mô hình của Kasznik (1999); cột thứ ba sử dụng BCTC_DD do Dechow và Dichev (2002) phát triển; và cột thứ tư là kết quả từ biến BCTC_TB, tính toán dựa trên giá trị trung bình của ba biến đại diện cho chất lượng báo cáo tài chính Mỗi cột trong bảng còn được chia thành ba cột nhỏ để phản ánh kết quả hồi quy theo các phương pháp Pooled-OLS, Fixed Effect và Random Effect.
Theo bảng 4.4, biến BCTC_MNST cho thấy cả ba phương pháp Pooled-OLS, Fixed Effect và Random Robust đều có kết quả thống kê ý nghĩa với dấu dương, chỉ ra rằng khi chất lượng báo cáo tài chính tăng 1 đơn vị, hiệu quả đầu tư sẽ tăng thêm 0,18 đơn vị Hệ số hồi quy của kỳ hạn nợ cũng mang dấu dương và có ý nghĩa thống kê ở mức 1%, cho thấy sự gia tăng 1 đơn vị trong tỷ lệ nợ ngắn hạn trên tổng nợ sẽ làm hiệu quả đầu tư tăng thêm 0,08 đơn vị Chất lượng báo cáo tài chính ảnh hưởng mạnh gấp đôi so với tỷ lệ nợ ngắn hạn Các biến khác như tỷ lệ tài sản hữu hình có hệ số hồi quy -0,1 (mức ý nghĩa 1%) và sức khỏe tài chính với hệ số 0,01 (mức ý nghĩa 5%) cũng cho thấy ảnh hưởng nhất định đến hiệu quả đầu tư Đặc biệt, tỷ lệ tài sản cố định cao hơn làm giảm hiệu quả đầu tư do hiệu quả sử dụng tài sản thấp Biến tác động của dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh lại có mối tương quan ngược chiều với kỳ vọng, cho thấy việc quản lý dòng tiền chưa hiệu quả Đối với biến BCTC_KASZ, kết quả tương tự với hệ số dương và ý nghĩa thống kê, khi chất lượng báo cáo tài chính tăng 1% thì hiệu quả đầu tư cũng tăng 0,1%, mặc dù mức tăng này thấp hơn so với BCTC_MNST Kỳ hạn nợ có ý nghĩa thống kê tương tự nhưng ảnh hưởng thấp hơn so với chất lượng báo cáo tài chính Tương tự như BCTC_MNST, tỷ lệ tài sản cố định và tác động của dòng tiền đều có ảnh hưởng ngược chiều, trong khi sức khỏe tài chính có mối quan hệ cùng chiều Đáng chú ý, biến chu kỳ kinh doanh cũng có ý nghĩa thống kê ở mức 10%, mặc dù hệ số rất nhỏ Các biến còn lại không có ý nghĩa thống kê.
Mối quan hệ giữa chất lượng báo cáo tài chính và kỳ hạn nợ ngắn hạn với hiệu quả đầu tư của công ty đã được kiểm chứng qua hồi quy biến BCTC_DD, cho thấy cả 3 phương pháp Pooled-OLS, Fixed effect và Random Effect đều cho hệ số của biến này đạt 0,05 với ý nghĩa thống kê 1% Tuy nhiên, mức ảnh hưởng này thấp hơn so với hai phương pháp trước, và cũng thấp hơn tác động của nợ ngắn hạn với hệ số hồi quy 0,08 ở mức ý nghĩa 10% Các biến TSCDHH và TacdongCFO trong mô hình BCTC_DD đều có giá trị âm và ý nghĩa thống kê tại mức 5% và 10%, trong khi biến sức khỏe tài chính và chu kỳ kinh doanh có hệ số dương nhưng giá trị rất thấp, gần như không ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động đầu tư của công ty.
Bảng 4.4 Ảnh hưởng của các yếu tố nghiên cứu đến hiệu quả hoạt động đầu tư
*, ** và *** lần lượt tương ứng với các mức ý nghĩa 10%, 5% và 1%
BCTC_MNST BCTC_KASZ BCTC_DD BCTC_TB
Mô hình hồi quy cho thấy chất lượng báo cáo tài chính (BCTC_TB) có mối quan hệ tích cực với hiệu quả đầu tư ở mức ý nghĩa 1%, với việc gia tăng 1% chất lượng báo cáo tài chính dẫn đến tăng 0,14% hiệu quả hoạt động đầu tư Hệ số hồi quy của kỳ hạn nợ đạt 0,09 cũng ở mức ý nghĩa 1%, cho thấy tác động của kỳ hạn nợ đối với hiệu quả đầu tư thấp hơn so với chất lượng báo cáo tài chính Các biến kiểm soát như tỷ lệ tài sản cố định, hệ số Z, dòng tiền và chu kỳ kinh doanh đều có tác động thống kê đáng kể đến hiệu quả hoạt động đầu tư, với dấu và độ lớn tương đồng với kết quả hồi quy BCTC_KASZ, trong khi các biến khác không có ý nghĩa thống kê.
Chất lượng báo cáo tài chính có ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả hoạt động đầu tư của công ty, khi tăng cường độ tin cậy trong đánh giá tình hình kinh doanh và rủi ro, giúp cải thiện quá trình thẩm định và triển khai dự án Báo cáo tài chính chất lượng cao cũng giảm thiểu bất cân xứng thông tin, tạo điều kiện cho cổ đông và chủ nợ kiểm soát tốt hơn hoạt động quản lý, từ đó giảm chi phí đại diện và đảm bảo quyết định đầu tư minh bạch hơn Doanh nghiệp có báo cáo tài chính tốt sẽ dễ dàng hơn trong việc thương thảo với tổ chức tín dụng để nhận ưu đãi về lãi suất, tối ưu hóa chi phí vốn cho dự án đầu tư Ngoài ra, việc sử dụng nợ ngắn hạn giúp tăng hiệu quả đầu tư, nhờ vào khả năng hoàn trả linh hoạt và giảm thiểu rủi ro, đồng thời được đánh giá an toàn hơn trong xếp hạng tín dụng Tóm lại, việc áp dụng nợ ngắn hạn không chỉ giảm chi phí vốn mà còn nâng cao hiệu quả đầu tư cho doanh nghiệp.
Kết quả hồi quy cho thấy hiệu quả sử dụng tài sản cố định và quản lý dòng tiền của các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp, với hệ số hồi quy của tài sản cố định hữu hình và dòng tiền mang dấu âm Ngược lại, hệ số Z, đại diện cho sức khỏe tài chính, càng cao thì khả năng đáp ứng yêu cầu tài chính và cơ chế phòng ngừa rủi ro của doanh nghiệp càng tốt, tạo nền tảng vững chắc để nâng cao hiệu quả đầu tư Mặc dù tác động của chu kỳ kinh doanh đến hiệu quả đầu tư có ý nghĩa thống kê, nhưng mức độ ảnh hưởng thực sự rất nhỏ Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của M Fuensanta Cutillas Gomariz và Juan Pedro Sánchez Ballesta (2013), củng cố mối quan hệ giữa chất lượng báo cáo tài chính, kỳ hạn nợ và hiệu quả đầu tư Phần tiếp theo sẽ phân tích tác động của chất lượng báo cáo tài chính và nợ ngắn hạn đối với hiện tượng đầu tư quá mức và đầu tư dưới mức.
4.3.2 Tác động của chất lượng báo cáo tài chính và nợ ngắn hạn đến việc đầu tư quá mức và đầu tư dưới mức của các doanh nghiệp Việt Nam Để phân tích sâu hơn vai trò của chất lượng báo cáo tài chính và nợ ngắn hạn đối với hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp, bài luận văn sẽ phân tách việc kiểm định mối quan hệ này bằng việc thay thế biến phụ thuộc ở mô hình (8) lần lượt bằng biến đầu tư quá mức ODT1 và biến đầu tư dưới mức UDT1 như đã trình bày ở phần 3 nêu trên Các biến BCTC_MNST, BCTC_KASZ, KRQ_DD và BCTC_TB cũng lần lượt được đưa vào mô hình theo các phương pháp Pooled-OLS, Fixed Effect, Random Effect (hoặc Fixed Robust và Random Robust) tương tự như mục 4.3.1 nêu trên Kết quả của các hồi quy này được trình bày tại bảng 4.5 và 4.6
Bảng 4.5 trình bày kết quả hồi quy giữa việc đầu tư quá mức và các biến liên quan Hệ số hồi quy của biến BCTC_MNST là 0,84 với ý nghĩa thống kê 5%, cho thấy chất lượng báo cáo tài chính tăng cường sẽ làm tăng hiện tượng đầu tư quá mức Biến tỷ lệ nợ ngắn hạn có hệ số 0,09 và ý nghĩa thống kê 10%, chỉ ra rằng khi doanh nghiệp tăng sử dụng nợ ngắn hạn 1%, đầu tư sẽ tăng 0,09% Khác với bảng 4.4, tài sản cố định hữu hình và sức khỏe tài chính không có tác động có ý nghĩa đến biến phụ thuộc Ngược lại, biến tác động của dòng tiền có hệ số -0,37 với ý nghĩa 5%, cho thấy khi dòng tiền tăng, doanh nghiệp có xu hướng hạn chế đầu tư do quản trị dòng tiền chưa tốt Trong mô hình hồi quy với biến BCTC_KASZ, chỉ mô hình Pooled OLS cho hệ số dương có ý nghĩa 1%, nhưng giá trị tuyệt đối thấp hơn BCTC_MNST Biến kỳ hạn nợ chỉ có ý nghĩa thống kê ở mô hình Pooled-OLS với hệ số 0,1 Trong phương pháp hồi quy Fixed robust, chỉ biến tác động của dòng tiền có ý nghĩa thống kê với đầu tư quá mức, nhưng mức độ tác động thấp hơn Cuối cùng, với biến BCTC_DD, cả Pooled-OLS và Random effect đều cho hệ số dương với ý nghĩa 5% và 1%, trong khi Fixed Robust không có biến nào có ý nghĩa thống kê ngoài biến tác động của dòng tiền.
Bảng 4.5 Mối quan hệ giữa đầu tư quá mức với các biến chất lượng báo cáo tài chính và nợ ngắn hạn
*, ** và *** lần lượt tương ứng với các mức ý nghĩa 10%, 5% và 1%
BCTC_MNST BCTC_KASZ BCTC_DD BCTC_TB
Mô hình hồi quy BCTC_TD sử dụng phương pháp hồi quy Fixed Robust cho thấy hệ số có ý nghĩa thống kê đạt 0,36, khẳng định rằng khi chất lượng báo cáo tài chính của doanh nghiệp tốt, các doanh nghiệp Việt Nam có xu hướng tự tin hơn vào khả năng của mình và gia tăng đầu tư Biến tác động của dòng tiền lại một lần nữa cho thấy mối quan hệ tích cực có ý nghĩa thống kê với việc đầu tư quá mức, trong khi đó hệ số của biến chu kỳ kinh doanh cũng có ý nghĩa thống kê nhưng mức độ tác động rất nhỏ và không đáng kể.
Bảng 4.6 trình bày kết quả hồi quy giữa các biến BCTC_MNST, BCTC_KASZ, BCTC_DD và BCTC_TB với hiện tượng đầu tư dưới mức Tất cả các mô hình đều cho thấy không có tác động có ý nghĩa thống kê của chất lượng báo cáo tài chính đối với hiện tượng này, mặc dù các hệ số hồi quy đều mang dấu âm, cho thấy rằng chất lượng báo cáo tài chính tốt có thể khuyến khích doanh nghiệp gia tăng đầu tư Ngược lại, tỷ lệ nợ ngắn hạn lại cho thấy mối quan hệ tích cực với mức độ tác động dao động từ 0,03-0,04 đơn vị ở mức ý nghĩa 5%, có thể do tâm lý e ngại rủi ro vỡ nợ khi tỷ lệ nợ ngắn hạn gia tăng Trong các biến kiểm soát, tài sản cố định hữu hình có ý nghĩa thống kê ở mức 1% với hệ số hồi quy âm, cho thấy khi tỷ lệ tài sản cố định tăng, các nhà quản lý và cổ đông sẽ hạn chế đầu tư thêm Cuối cùng, biến sức khỏe tài chính và chu kỳ kinh doanh có tác động có ý nghĩa thống kê đối với đầu tư dưới mức, nhưng mức độ tác động rất nhỏ và hầu như không đáng kể.
Cải thiện chất lượng báo cáo tài chính giúp tăng cường sự tự tin của các nhà quản trị và cổ đông vào sức khỏe doanh nghiệp, từ đó thúc đẩy đầu tư Tuy nhiên, quyết định đầu tư vẫn bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác, đặc biệt là tâm lý e ngại rủi ro của các nhà quản trị Việc sử dụng nợ vay ngắn hạn có thể làm gia tăng lo ngại về rủi ro vỡ nợ, dẫn đến hạn chế trong đầu tư Bên cạnh đó, khi tỷ lệ tài sản cố định hữu hình tăng lên, các nhà quản trị tại Việt Nam nhận thấy khả năng quản lý tài sản cố định còn hạn chế, điều này cũng góp phần làm giảm mức độ đầu tư thêm.
4.3.3 Ảnh hưởng của các yếu tố nghiên cứu đến hiệu quả hoạt động đầu tư được đo lường theo phương pháp khác
Phần này sẽ trình bày kết quả hồi quy mối quan hệ giữa biến HQDautu2, ODT2 và UDT2 với biến BCTC_TB, kỳ hạn nợ và các biến kiểm soát khác theo mô hình (8) Mục tiêu là đánh giá tác động của chất lượng báo cáo tài chính và kỳ hạn nợ ngắn hạn đối với hiệu quả hoạt động đầu tư một cách toàn diện hơn Kết quả hồi quy của các mối quan hệ này được trình bày trong Bảng 4.7.
Theo kết quả hồi quy từ bảng 4.7, chất lượng báo cáo tài chính và kỳ hạn nợ có ảnh hưởng đến biến HQDautu2, ODT2 và UDT2 tương tự như với HQDautu, ODT1 và UDT1, khi các hệ số hồi quy đều ngang bằng nhau và có cùng mức ý nghĩa thống kê Điều này chứng tỏ rằng hai phương pháp đo lường hiệu quả đầu tư là phù hợp và có thể thay thế cho nhau Kết quả hồi quy cũng cung cấp cơ sở vững chắc để khẳng định rằng chất lượng báo cáo tài chính và nợ ngắn hạn đóng góp vào việc cải thiện hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam.
Các yếu tố kiểm soát như tài sản cố định hữu hình, sức khỏe tài chính và dòng tiền ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp Kết quả từ bảng 4.7 cho thấy, khi chất lượng báo cáo tài chính tốt và tỷ lệ nợ ngắn hạn cao, nhà quản trị sẽ tự tin hơn trong việc quyết định tăng cường đầu tư Ngược lại, chất lượng báo cáo tài chính không ảnh hưởng đến đầu tư dưới mức, nhưng tỷ lệ nợ ngắn hạn cao có thể gây lo ngại về rủi ro vỡ nợ, dẫn đến việc doanh nghiệp có xu hướng hạn chế đầu tư.
Bảng 4.6 Mối quan hệ giữa đầu tư dưới mức với các biến chất lượng báo cáo tài chính và kỳ hạn nợ
*, ** và *** lần lượt tương ứng với các mức ý nghĩa 10%, 5% và 1%
BCTC_MNST BCTC_KASZ BCTC_DD BCTC_TB