1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Thực trạng và giải pháp phòng chống tội phạm cố ý gây thương tích trên địa bàn huyện konplong tỉnh kon tum

37 30 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 37
Dung lượng 696,21 KB

Cấu trúc

  • 1. Tính cấp thiết của đề tài (5)
  • 2. Mục tiêu nghiên cứu (5)
  • 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu (5)
  • 4. Phương pháp nghiên cứu (5)
  • 5. Bố cục đề tài (6)
  • CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN HUYỆN KON (7)
    • 1.1. TỔNG QUAN CHUNG VỀ VIỆN KIẾM SÁT NHÂN DÂN HUYỆN KON (7)
      • 1.1.1 Đặc điểm tình hình (7)
      • 1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ (7)
  • CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÒNG CHỐNG TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KON PLONG – TỈNH KON TUM (14)
    • 2.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI PHẠM VÀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH (14)
      • 2.1.1. Một số khái niệm chung (14)
      • 2.1.2. Các dấu hiệu cấu thành tội phạm (14)
      • 2.1.3. Các yếu tố cấu thành tội phạm (16)
    • 2.2. CƠ SỞ PHÁP LÝ, CÁC DẤU HIỆU VÀ CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH (16)
      • 2.2.1. Cơ sở pháp lý của tội Cố ý gây thương tích (16)
      • 2.2.2. Các dấu hiệu của tội Cố ý gây thương tích (17)
      • 2.2.3. Các yếu tố cấu thành tội Cố ý gây thương tích (18)
    • 2.3. THỰC TRẠNG TỘI PHẠM CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KON PLÔNG – TỈNH KON TUM (26)
      • 2.3.1. Đánh giá chung (26)
      • 2.3.2. Kết quả cụ thể (26)
    • 2.4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP (31)
      • 2.4.1. Giải pháp (31)
      • 2.4.2. Một số kiến nghị (32)

Nội dung

Tính cấp thiết của đề tài

Gần đây, tình hình tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe và nhân phẩm con người đang gia tăng đáng báo động, với thủ đoạn ngày càng nguy hiểm và hậu quả nghiêm trọng, đặc biệt là tội cố ý gây thương tích Tội phạm này không chỉ có xu hướng gia tăng rõ rệt mà còn gây lo ngại cho các cơ quan có trách nhiệm phòng ngừa Diễn biến phức tạp và khó dự đoán của tội phạm cố ý gây thương tích đang tạo ra hậu quả nghiêm trọng, với nhiều vụ việc gây bất ổn cho an ninh trật tự và tạo tâm lý hoang mang, lo lắng trong dư luận.

Huyện Kon Plông, một khu vực khó khăn đang trong giai đoạn phát triển, hiện đang đối mặt với tình trạng gia tăng tội phạm cố ý gây thương tích Nhiều vụ việc đã gây xôn xao dư luận, cho thấy sự cần thiết phải nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện dẫn đến tình trạng này Việc tìm ra các giải pháp khả thi và hiệu quả để phòng ngừa tội phạm cố ý gây thương tích là một yêu cầu cấp bách trong bối cảnh hiện nay.

Mặc dù đã có một số công trình nghiên cứu về tội cố ý gây thương tích từ góc độ lý luận, khoa học hình sự và tội phạm học, nhưng số lượng vẫn còn hạn chế Đặc biệt, chưa có nghiên cứu nào tập trung vào tình hình tội phạm cố ý gây thương tích tại huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum, đáp ứng các yêu cầu nghiên cứu hiện tại.

Với những lý do nêu trên, tôi quyết định lựa chọn đề tài "Thực trạng và giải pháp phòng chống tội phạm cố ý gây thương tích tại huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum" cho luận văn của mình.

Mục tiêu nghiên cứu

Bài viết này làm rõ lý luận về phòng ngừa tội phạm cố ý gây thương tích và đánh giá thực trạng hoạt động phòng ngừa tại huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum Từ đó, luận văn đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác phòng ngừa các tội phạm này trong thời gian tới.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Hoạt động đấu tranh phòng ngừa các tội phạm cố ý gây thương tích trên địa bàn huyện Kon Plông tỉnh Kon Tum

+ Địa bàn: Huyện Kon Plông - tỉnh Kon Tum

+ Thời gian: Từ năm 2011 đến năm 2016.

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu này dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng với quan điểm chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trong bối cảnh hiện nay.

Trên cơ sở đó, tác giả sử dụng những phương pháp cụ thể là: Thống kê tội phạm, phân tích, tổng hợp, so sánh.

Bố cục đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được cấu trúc thành 2 chương:

Chương 1 Giới thiệu về đơn vị thực tập

Chương 2 trình bày lý luận về tội Cố ý gây thương tích, phân tích thực trạng và đề xuất giải pháp phòng chống tội phạm này tại huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum Nội dung sẽ tập trung vào nguyên nhân, hậu quả của tội phạm cũng như các biện pháp hiệu quả nhằm nâng cao nhận thức và tăng cường công tác phòng ngừa, bảo vệ an ninh trật tự trong cộng đồng.

TỔNG QUAN VỀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN HUYỆN KON

TỔNG QUAN CHUNG VỀ VIỆN KIẾM SÁT NHÂN DÂN HUYỆN KON

Viện kiểm sát nhân dân Huyện KonPlong hiện có 12 biên chế, bao gồm 01 viện trưởng, 01 phó viện trưởng, 06 kiểm sát viên, 01 nhân viên bảo vệ, 01 tạp vụ, 01 kế toán chuyên trách và 01 nhân viên văn thư chưa qua đào tạo.

+ Trình độ đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị:

- Trình độ chuyên môn nghiệp vụ:

0 đ/c Tiến sỹ; 0 Thạc sỹ; 0 Cử nhân; Đại học: 09; Trung cấp: 02

+ Chi bộ Viện kiểm sát

+ Công đoàn Viện kiểm sát

1.1.2 Chức năng, nhiệm vụ a Chức năng

Theo Hiến pháp 2013 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014, Viện kiểm sát nhân dân có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hiện quyền công tố và giám sát các hoạt động tư pháp, góp phần đảm bảo pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương thực hiện quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp tại địa phương, trong khi các Viện kiểm sát quân sự thực hiện chức năng này theo quy định của pháp luật.

Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự, nhằm buộc tội người phạm tội từ giai đoạn tiếp nhận tố giác và tin báo về tội phạm cho đến khi kết thúc xét xử Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền công tố để đảm bảo tính công bằng và minh bạch trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự.

Mọi hành vi phạm tội cần phải được phát hiện và xử lý kịp thời, đảm bảo đúng người, đúng tội và đúng pháp luật Cần tiến hành khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử một cách nghiêm minh, nhằm tránh oan sai cho người vô tội và không để tội phạm lọt lưới.

- Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền con người, quyền công dân trái luật

Theo Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014, Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng và nhiệm vụ thông qua các công tác cụ thể.

Yêu cầu khởi tố, hủy bỏ quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án trái pháp luật, cũng như phê chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của cơ quan điều tra, là những hoạt động quan trọng trong quá trình tố tụng hình sự Các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành điều tra có quyền trực tiếp khởi tố vụ án và khởi tố bị can theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Quyết định và phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp hạn chế quyền con người và quyền công dân là cần thiết trong quá trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, cũng như trong các giai đoạn khởi tố, điều tra và truy tố theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Hủy bỏ các quyết định tố tụng trái pháp luật liên quan đến việc giải quyết tố giác và tin báo về tội phạm, cũng như kiến nghị khởi tố Điều này cũng áp dụng cho quy trình khởi tố và điều tra của Cơ quan điều tra và các cơ quan được giao nhiệm vụ thực hiện một số hoạt động điều tra.

Khi cần thiết, cần đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu từ Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ sẽ tiến hành một số hoạt động điều tra cụ thể.

- Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan cung cấp tài liệu để làm rõ tội phạm, người phạm tội

Giải quyết kịp thời các tố giác và tin báo về tội phạm, cũng như tiếp nhận kiến nghị khởi tố; thực hiện các hoạt động điều tra cần thiết để làm rõ căn cứ cho quyết định buộc tội đối với người vi phạm.

Điều tra các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, bao gồm các hành vi tham nhũng và lạm dụng chức vụ, là nhiệm vụ quan trọng theo quy định của pháp luật.

- Quyết định việc áp dụng thủ tục rút gọn trong giai đoạn điều tra, truy tố

- Quyết định việc truy tố, buộc tội bị cáo tại phiên tòa

- Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp Viện kiểm sát nhân dân phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội

- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc buộc tội đối với người phạm tội theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự b Nhiệm vụ

Các nhiệm vụ, quyền hạn chung của Viện kiểm sát nhân dân:

Thứ nhất, các nhiệm vụ chung của Viện kiểm sát nhân dân được quy định tại Điều

107 Hiến pháp 2013 và Điều 2 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 như sau:

Viện kiểm sát nhân dân có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân Nhiệm vụ của Viện bao gồm bảo vệ tài sản của Nhà nước và tập thể, cũng như bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân Đảm bảo rằng mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tập thể và quyền lợi hợp pháp của công dân đều được xử lý theo pháp luật là một trong những trách nhiệm chính của Viện.

Thứ hai, các quyền hạn chung của Viện kiểm sát nhân dân được quy định tại Điều 6 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 như sau:

Viện kiểm sát nhân dân có quyền ra quyết định, kháng nghị, kiến nghị và yêu cầu trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình Đồng thời, Viện cũng chịu trách nhiệm trước pháp luật về các văn bản này.

5 phải được các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân có liên quan thực hiện nghiêm chỉnh theo quy định của pháp luật

Các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Viện kiểm sát nhân dân:

Nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể của Viện kiểm sát được quy định chủ yếu trong Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014, từ chương II đến chương VI Bên cạnh đó, các quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát còn được đề cập trong Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính, Bộ luật lao động, Luật phá sản và các văn bản pháp luật liên quan khác.

Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố bằng cách sử dụng các quyền năng pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử Tại Việt Nam, Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan duy nhất có chức năng thực hành quyền công tố, diễn ra chủ yếu trong giai đoạn điều tra và xét xử các vụ án hình sự Hoạt động công tố bắt đầu từ khi khởi tố vụ án và kéo dài suốt quá trình tố tụng, nhằm đảm bảo không bỏ sót tội phạm và người phạm tội, đồng thời bảo vệ quyền lợi của những người vô tội.

THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÒNG CHỐNG TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KON PLONG – TỈNH KON TUM

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI PHẠM VÀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

2.1.1 Một số khái niệm chung

Khái niệm tội phạm: Khoản 1 Điều 8 BLHS

Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực và trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý Hành vi này xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, cũng như chế độ chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, và trật tự an toàn xã hội Ngoài ra, tội phạm còn xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, và các quyền lợi hợp pháp khác của công dân, đồng thời ảnh hưởng đến các lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.

Tội “Cố ý gây thương tích” được định nghĩa là hành vi cố ý sử dụng sức mạnh vật chất để tác động lên cơ thể của người khác, dẫn đến việc gây tổn hại cho sức khỏe của họ.

Phân loại tội phạm: Khoản 2, Khoản 3 Điều 8 BLHS

Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi được quy định trong BLHS, tội phạm được phân thành:

Tội phạm ít nghiêm trọng được định nghĩa là những hành vi vi phạm pháp luật gây ra mức độ nguy hại không lớn cho xã hội Mức hình phạt cao nhất cho loại tội phạm này có thể lên đến ba năm tù giam.

Tội phạm nghiêm trọng là những hành vi vi phạm pháp luật gây ra mối nguy hại lớn cho xã hội, với mức hình phạt cao nhất lên tới bảy năm tù giam.

Tội phạm rất nghiêm trọng là những hành vi gây ra nguy hại lớn cho xã hội, với mức hình phạt cao nhất có thể lên đến mười lăm năm tù.

Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là những hành vi vi phạm pháp luật gây ra mối đe dọa lớn cho xã hội, với hình phạt cao nhất có thể lên tới trên mười lăm năm tù giam, tù chung thân hoặc tử hình.

2.1.2 Các dấu hiệu cấu thành tội phạm Để xem xét một hành vi có được coi là tội phạm hay không thì căn cứ vào 4 yếu tố: Tính trái pháp luật hình sự, tính nguy hiểm cho xã hội, tính phải chịu hình phạt, tính có lỗi Trong đó dấu hiệu về tính nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu cơ bản, quan trọng, quyết định các dấu hiệu khác

 Tính nguy hiểm cho xã hội:

Tính nguy hiểm cho xã hội được coi là dấu hiệu cơ bản quan trọng nhất, điều này đã được thể hiện qua các quy định của pháp luật:

Khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự định nghĩa tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội Tính nguy hiểm được coi là yếu tố quan trọng nhất để xác định một hành vi có phải là tội phạm hay không, thể hiện qua các hành vi gây nguy hại cho cộng đồng.

Khoản 2 Điều 8 quy định rằng những hành vi có dấu hiệu tội phạm nhưng không gây nguy hiểm đáng kể cho xã hội sẽ không bị coi là tội phạm và sẽ được xử lý bằng các biện pháp khác Do đó, dấu hiệu tội phạm là yếu tố quyết định, nếu một hành vi có đủ ba dấu hiệu của tội phạm nhưng tính nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, thì hành vi đó sẽ không bị xem là tội phạm.

Tính nguy hiểm cho xã hội cũng là căn cứ để miễn trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự

Lỗi là thái độ tâm lý chủ quan của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện, bao gồm cả hậu quả của hành vi đó Lỗi có thể được chia thành hai loại: lỗi cố ý và lỗi vô ý Lỗi cố ý thể hiện sự nhận thức và mong muốn của người thực hiện hành vi nguy hiểm.

Cố ý trực tiếp là khi người phạm tội nhận thức rõ ràng rằng hành vi của mình gây nguy hiểm cho xã hội, đồng thời họ cũng thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn những hậu quả này xảy ra.

Cố ý gián tiếp là khi người phạm tội nhận thức rõ rằng hành vi của mình có thể gây nguy hiểm cho xã hội và dự đoán được những hậu quả có thể xảy ra Mặc dù không mong muốn những hậu quả đó, họ vẫn chấp nhận để cho chúng xảy ra.

Lỗi vô ý do quá tự tin xảy ra khi người phạm tội nhận thức được rằng hành vi của mình có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng cho xã hội, nhưng họ lại tin rằng những hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể dễ dàng kiểm soát được.

Lỗi vô ý do cẩu thả xảy ra khi người phạm tội không nhận thức được rằng hành vi của mình có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng cho xã hội, mặc dù họ có khả năng và nghĩa vụ phải nhận thức được điều đó Căn cứ vào tính có lỗi cho thấy sự thiếu sót trong việc dự đoán hậu quả của hành động.

Luật hình sự Việt Nam không chấp nhận việc quy tội khách quan chỉ dựa vào hành vi gây thiệt hại cho xã hội mà không xem xét lỗi của người thực hiện Mục tiêu của việc áp dụng hình phạt là để trừng phạt cá nhân có lỗi, chứ không phải chỉ trừng phạt hành vi.

 Tính trái pháp luật hình sự:

CƠ SỞ PHÁP LÝ, CÁC DẤU HIỆU VÀ CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

2.2.1 Cơ sở pháp lý của tội Cố ý gây thương tích

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định tại Điều 104 Bộ luật hình sự Cụ thể:

“Điều 104 Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác

1 Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường

Có 13 trường hợp bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm, bao gồm: sử dụng hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn gây hại cho nhiều người; gây thương tích nhẹ cho nạn nhân; phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc nhiều người khác; tấn công trẻ em, phụ nữ mang thai, người già yếu, ốm đau hoặc người không có khả năng tự vệ; tấn công ông bà, cha mẹ, người nuôi dưỡng, thầy cô giáo; hành động có tổ chức; thực hiện tội phạm trong thời gian bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang trong cơ sở giáo dục; thuê người gây thương tích hoặc gây thương tích thuê; có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm; và hành động nhằm cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

2 Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm

3 Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm

4 Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.”

2.2.2 Các dấu hiệu của tội Cố ý gây thương tích

Nghiên cứu dấu hiệu pháp lý của tội phạm cụ thể là rất quan trọng vì nó giúp phân biệt các loại tội phạm, từ đó đưa ra những kết luận chính xác về loại tội phạm, mức độ nguy hiểm cho xã hội và trách nhiệm hình sự của người thực hiện hành vi Những thông tin này hỗ trợ trong việc định tội đối với tội phạm cụ thể.

Dấu hiệu pháp lý của tội phạm cụ thể được thể hiện qua 4 yếu tố cấu thành tội phạm, đó là:

– Khách thể của tội phạm

– Mặt khách quan của tội phạm

– Mặt chủ quan của tội phạm

– Chủ thể của tội phạm

Việc xác định dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm, đặc biệt là “tội cố ý gây thương tích” hoặc “gây tổn hại cho sức khỏe của người khác”, đòi hỏi phải làm rõ 4 yếu tố cụ thể liên quan đến tội danh này.

2.2.3 Các yếu tố cấu thành tội Cố ý gây thương tích a Khách thể của tội cố ý gây thương tích

– Khách thể của tội phạm này xâm phạm vào những quyền được bảo hộ về sức khỏe của công dân

Khách thể của tội phạm trong Luật Hình sự Việt Nam bao gồm các quan hệ xã hội được bảo vệ, mà khi bị xâm phạm sẽ gây thiệt hại hoặc đe dọa thiệt hại Các khách thể được bảo vệ bao gồm độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chế độ Nhà nước xã hội chủ nghĩa, cùng với tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do tài sản và các quyền lợi hợp pháp khác của công dân, cũng như các lĩnh vực khác trong trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.

8 Bộ Luật Hình sự) Điều 104 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định hai loại tội:

– Tội cố ý gây thương tích

– Tội cố ý gây tổn hại sức khỏe của người khác

Quy định trong Bộ luật Hình sự về tội phạm này nhằm bảo vệ sức khỏe của mọi công dân, với khách thể trực tiếp là việc xâm phạm đến sức khỏe của người khác "Người khác" ở đây được hiểu là một cá nhân cụ thể, đang sống và tồn tại theo quy định tự nhiên.

Một người tự gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe cho bản thân sẽ không bị coi là tội phạm, trừ trường hợp họ thực hiện hành vi này nhằm mục đích thực hiện một tội phạm khác.

Tự gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe để trốn nghĩa vụ quân sự vi phạm Điều 259 Bộ luật Hình sự, trong khi việc gây thương tích cho người khác đã chết, nếu lầm tưởng là còn sống, sẽ bị coi là phạm tội chưa đạt Ngược lại, nếu cố ý xâm phạm thi thể, người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 246 Bộ luật Hình sự.

Xâm phạm quyền được tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của con người là hành vi vi phạm pháp luật Vết thương là minh chứng pháp lý quan trọng, cho thấy thiệt hại về sức khỏe, điều này là yêu cầu bắt buộc trong việc xác định tính chất của sự xâm phạm.

104 Bộ luật Hình sự b Mặt khách quan của tội cố ý gây thương tích

Hành vi tội phạm có khả năng gây thương tích cho người khác, và kẻ phạm tội có thể sử dụng nhiều phương tiện khác nhau để thực hiện hành vi này Những công cụ như dao, búa, hoặc thậm chí là sức mạnh cơ bắp như đấm, đá đều có thể được sử dụng Ngoài ra, các phương tiện khác như chó, thú dữ hoặc súng cũng có thể được kẻ phạm tội lợi dụng để gây hại.

Mặt khách quan của tội phạm là yếu tố thiết yếu trong cấu thành tội phạm, bởi không có nó thì tội phạm sẽ không tồn tại Đây là một trong bốn yếu tố bắt buộc cần có trong mọi loại tội phạm, bao gồm cả tội “Cố ý gây thương tích”.

“gây tổn hại sức khỏe của người khác” nói riêng Nếu như khách thể của tội phạm là

Luật Hình sự bảo vệ 15 quan hệ xã hội, và khi những quan hệ này bị xâm hại, tội phạm sẽ được thể hiện qua những hành vi cụ thể tác động đến các quan hệ xã hội đó Dấu hiệu của mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện bên ngoài, có thể nhận biết được qua các giác quan của con người.

+ Hành vi nguy hiểm cho xã hội

+ Hậu quả nguy hiểm cho xã hội

+ Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả

+ Phương pháp, phương tiện, công cụ, thủ đoạn để thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội

+ Thời gian, không gian, nơi xảy ra hành vi nguy hiểm cho xã hội

THỰC TRẠNG TỘI PHẠM CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KON PLÔNG – TỈNH KON TUM

Tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội trái pháp luật, mang tính giai cấp và luôn thay đổi theo lịch sử Nó được thể hiện qua tổng thể các tội phạm xảy ra trong một không gian và thời gian xác định Để đánh giá tình hình tội phạm, cần xem xét các thông số phản ánh cả về lượng và chất Các thông số về thực trạng và diễn biến của tình hình tội phạm thể hiện biểu hiện về lượng, trong khi các thông số về cơ cấu và tính chất phản ánh biểu hiện về chất của tình hình tội phạm.

Thời gian gần đây, tình hình tội phạm xâm hại sức khỏe người khác tại huyện Kon Plông diễn ra phức tạp và gia tăng cả về số vụ lẫn mức độ nguy hiểm Những hành vi này không chỉ gây thiệt hại trực tiếp đến sức khỏe của nạn nhân mà còn làm mất trật tự an ninh, tạo ra tâm lý bất an cho người dân trong khu vực.

Trong 5 năm qua, Viện kiểm sát và Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Kon Plông đã tiến hành kiểm sát quản lý tin báo, tố giác tội phạm, dẫn đến việc phân loại và khởi tố điều tra 137 vụ với 126 bị can về tội "Cố ý gây thương tích" theo Điều 104 Bộ luật hình sự Trong số 137 vụ đã khởi tố, có nhiều vụ được xác định thuộc các trường hợp rất nghiêm trọng, nghiêm trọng và ít nghiêm trọng.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Kon Plông đã tích cực phối hợp với các cơ quan hữu quan, đặc biệt là các cơ quan tiến hành tố tụng, để thực hiện hiệu quả chức năng và nhiệm vụ, nhằm răn đe và phòng ngừa tội phạm Các đơn vị nghiệp vụ và Công an huyện thường xuyên tổ chức tuần tra để duy trì an ninh trật tự, giải tán các nhóm thanh thiếu niên gây rối Đồng thời, Viện cũng làm tốt công tác tham mưu cho cấp ủy và chính quyền địa phương, đẩy mạnh tuyên truyền và nắm bắt tình hình mâu thuẫn trong cộng đồng để xử lý kịp thời Trong 5 năm qua, Viện đã triển khai nhiều biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội, góp phần giảm thiểu vi phạm trật tự xã hội, đặc biệt là tội Cố ý gây thương tích.

Thực trạng tội phạm là chỉ số thể hiện tổng số vụ án và số lượng người phạm tội trong một khoảng thời gian và không gian cụ thể Tình hình tội phạm được chia thành hai loại: tội phạm rõ ràng và tội phạm ẩn.

 Thực trạng tội phạm rõ:

Tội phạm được xác định là những hành vi vi phạm pháp luật đã xảy ra và được phát hiện, xử lý bởi các cơ quan chức năng Thực tế, số lượng tội phạm này được thống kê và ghi nhận qua các báo cáo từ các cơ quan có thẩm quyền.

Theo thống kê từ Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum, trong giai đoạn 5 năm (2012 – 2016), số lượng vụ án và bị cáo liên quan đến tội Cố ý gây thương tích đã có những diễn biến đáng chú ý.

Bảng 2.1 Số lượng tội phạm Cố ý gây thương tích bị đưa ra xét xử so với tổng số tội phạm tại huyện Kon Plông – tỉnh Kon Tum giai đoạn 2012-2016

Tổng số vụ án và người PT bị xét xử

Số vụ án và bị cáo bị xét xử về tội Cố ý gây thương tích (Đ104 BLHS)

Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo

(Nguồn: Báo cáo thống kê của Viện KSND huyện Kon Plông – tỉnh Kon Tum)

Tình hình tội phạm Cố ý gây thương tích tại huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum cho thấy diễn biến phức tạp với xu hướng tăng giảm không đồng đều Cụ thể, từ năm 2012 đến 2013, số vụ án xét xử có xu hướng tăng, nhưng đến năm 2014 lại giảm Đến năm 2016, số vụ án lại tiếp tục tăng Mặc dù có những biến động, xu hướng chung vẫn là gia tăng cả về số lượng vụ án và số người phạm tội.

Trong 5 năm qua, Tòa án nhân dân huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum đã xử lý 255 vụ án với 199 bị cáo, trong đó có 126 vụ án về tội Cố ý gây thương tích, chiếm 49,41% tổng số vụ án và 53,77% tổng số bị cáo Trung bình mỗi năm, huyện Kon Plông xét xử khoảng 25 vụ với 21 bị cáo, cho thấy tình hình tội phạm ngày càng phức tạp và công tác phòng ngừa chưa hiệu quả Hầu hết các bị cáo đều còn trẻ và thể hiện hành vi manh động, sử dụng hung khí nguy hiểm để gây thương tích cho nạn nhân, thường chỉ vì những nguyên cớ nhỏ nhặt Một ví dụ điển hình là vụ việc xảy ra vào ngày 04/12/2014, khi Nguyễn Văn Mạnh đã gây thương tích chỉ vì va chạm xe trong giao thông.

1988, trú tại xã Đăk Long, huyện Kon Plông, đã có hành vi dùng kéo cắt tóc (mũi nhọn)

24 đâm vào bụng anh Nguyễn Ngọc Tân - 1978, trú tại xã Đăk Long - huyện Kon Plông, gây tổn hại 33% sức khỏe

Thực trạng tội phạm ẩn:

Tội phạm ẩn là phần còn lại trong tình hình tội phạm, bao gồm tội phạm ẩn tự nhiên và tội phạm ẩn nhân tạo Tội phạm ẩn tự nhiên xảy ra mà không có thông tin từ cơ quan chức năng, dẫn đến việc không bị xử lý và không được ghi nhận trong thống kê hình sự Ngược lại, tội phạm ẩn nhân tạo đã được phát hiện nhưng không bị xử lý do sự che đậy từ các tội phạm ẩn tự nhiên khác.

Thống kê tội phạm từ Tòa án cho thấy tội phạm rõ ràng, trong khi số liệu về các vụ án thụ lý phản ánh tình hình tội phạm ẩn Các vụ án được thụ lý có thể dẫn đến truy tố hoặc bị đình chỉ, nhưng không thể hiện tội phạm ẩn khách quan, vì chúng không được ghi nhận Chúng ta chỉ có thể dựa vào tỉ lệ tội phạm ẩn chủ quan để đánh giá tỉ lệ tội phạm ẩn khách quan Hiệu quả của công tác phòng chống tội phạm sẽ ảnh hưởng đến mức độ tội phạm ẩn, với hiệu quả cao giúp thu hẹp tội phạm ẩn và ngược lại.

Trong 5 năm qua, Tòa án đã thụ lý tổng cộng 193 vụ án với 423 bị can Trong số đó, 186 vụ án đã được truy tố và xét xử với 405 bị cáo, trong khi 6 vụ án với 9 bị can đã bị đình chỉ điều tra và 7 vụ án với 13 bị can tạm đình chỉ điều tra.

Bảng 2.2 Tình hình truy tố và xét xử các vụ án về tội Cố ý gây thương tích trên địa bàn huyện Kon Plông – tỉnh Kon Tum giai đoạn 2012-2016

Tổng số thụ lý Đã giải quyết

Quyết định truy tố Đình chỉ điều tra

Tạm đình chỉ điều tra

Vụ Bị can Vụ Bị can Vụ Bị can

(Nguồn: Báo cáo thống kê của Viện KSND huyện Kon Plông – tỉnh Kon Tum)

Trong 5 năm, tỉ lệ truy tố là 126/137 đạt 91,97%, còn lại là các tội phạm được thụ lý nhưng bị đình chỉ hoặc tạm đình chỉ chiếm 8,03% - đây là tỉ lệ tội phạm ẩn nhân tạo đã phân tích trên, chứng tỏ hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm cũng chưa cao

* Nguyên nhân của những hạn chế

Nguyên nhân kinh tế - xã hội là yếu tố quan trọng trong việc chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường Sự thay đổi này đã dẫn đến một cuộc sống mà đồng tiền trở thành ưu tiên hàng đầu, gây ra sự suy thoái về đạo đức Nhiều người sẵn sàng sử dụng những thủ đoạn, thậm chí hành vi phạm pháp, để theo đuổi lợi ích cá nhân Cơ chế thị trường cũng kéo theo nhiều tệ nạn nghiêm trọng như mại dâm, cờ bạc, và nghiện hút, dẫn đến những xô xát và hành vi phạm tội.

Công tác tuyên truyền và phổ biến giáo dục pháp luật hiện nay gặp nhiều khó khăn, đặc biệt ở những vùng sâu, vùng xa, nơi mà trình độ văn hóa và cơ sở vật chất còn hạn chế Mặc dù đội ngũ cán bộ pháp luật đã tăng lên, nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu thực tiễn, đặc biệt là ở các xã và huyện xa thành phố Chất lượng của đội ngũ này cũng chưa được cải thiện đáng kể, dẫn đến hiệu quả tuyên truyền pháp luật chưa cao và chưa phù hợp với thực tế cuộc sống của người dân.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP

Tội Cố ý gây thương tích đang ngày càng trở nên nguy hiểm và phức tạp, với dự báo gia tăng các thủ đoạn và âm mưu táo bạo trong những năm tới Để giảm thiểu loại tội phạm này, cần có những biện pháp đấu tranh phòng chống hiệu quả nhằm bảo đảm an ninh xã hội Chúng ta cần triển khai các biện pháp cụ thể để đối phó với tình hình này.

Thứ nhất, tuyên truyền giáo dục pháp luật

Cần tiến hành tuyên truyền pháp luật một cách thường xuyên và sâu rộng qua các phương tiện thông tin đại chúng như đài, báo và vô tuyến, nhằm giúp người dân hiểu biết về pháp luật và tôn trọng, bảo vệ pháp luật, thực hiện “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật” Đặc biệt, tại các vùng sâu, vùng xa như huyện Kon Plông – tỉnh Kon Tum, việc tuyên truyền cần được thực hiện bằng mọi biện pháp với nội dung ngắn gọn, phù hợp với từng địa phương Đây là một nhiệm vụ quan trọng của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và người tuyên truyền pháp luật.

Để nâng cao hiệu quả quản lý, cần chú trọng vào việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ quản lý Đồng thời, việc đưa công tác tuyên truyền và giảng dạy pháp luật vào các trường học và tổ chức xã hội cũng rất quan trọng.

Thứ hai, đối với Nhà nước cần hoàn thiện hệ thống pháp luật

– Cần hoàn thiện hệ thống pháp luật, cần có các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật Hình sự

Cần thiết phải ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội mới phát sinh, nhằm đáp ứng yêu cầu cấp bách trong công tác phòng chống tội phạm, đặc biệt là tội cố ý gây thương tích.

Thứ ba, về quản lý đối tượng

Cần thiết phải triển khai biện pháp quản lý hiệu quả đối với các đối tượng lưu manh và ăn chơi lêu lỏng tại từng khu vực cụ thể, nhằm ngăn chặn hành vi phạm tội ngay từ giai đoạn đầu khi chúng có ý định gây án.

Thực hiện hiệu quả Nghị định 19 của Chính phủ nhằm quản lý và giáo dục người lầm lỗi tại cộng đồng là rất quan trọng Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền địa phương và gia đình của người phạm tội để giúp họ trở thành công dân có ích cho xã hội Đặc biệt, việc tạo ra công ăn việc làm cho họ là cần thiết để họ có thể sớm tái hòa nhập vào cuộc sống lương thiện.

Thứ tư về hình thức xử lý

Thực hiện Nghị định 87 của Chính phủ về quản lý các hoạt động văn hóa là rất quan trọng Cần xử lý nghiêm những hành vi mua bán hoặc cho thuê băng hình, sách báo có nội dung xấu và kích động bạo lực để bảo vệ văn hóa và xã hội.

Nhà nước cần áp dụng các chế tài nghiêm khắc hơn để đối phó với hành vi cố ý gây thương tích, nhằm tăng cường tính răn đe đối với loại tội phạm nguy hiểm này.

Ngoài ra cần có các biện pháp:

Kết hợp chặt chẽ các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật, cơ quan Nhà nước và tổ chức xã hội là rất quan trọng trong cuộc đấu tranh phòng ngừa tội phạm Sự phối hợp này giúp nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa và xử lý tội phạm, tạo ra một môi trường an toàn và văn minh cho cộng đồng.

Các tổ dân phố, tổ hòa giải, tổ tự quản và tổ an ninh nhân dân cần phối hợp chặt chẽ để tổ chức các hoạt động hiệu quả và có nề nếp.

Xây dựng cơ quan và làng xã văn hóa không có tệ nạn xã hội là nhiệm vụ quan trọng, trong đó nhân dân đóng vai trò chủ chốt Họ không chỉ là lực lượng đông đảo mà còn là những người sáng tạo ra lịch sử, góp phần lớn vào công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm.

Đấu tranh phòng chống tội phạm là một nhiệm vụ phức tạp, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ chức xã hội và toàn thể nhân dân Chỉ khi có sự hợp tác này, chúng ta mới có thể giảm thiểu tội phạm nói chung và tội cố ý gây thương tích một cách hiệu quả.

2.4.2 Một số kiến nghị Để phòng chống tội cổ ý gây thương tích đạt hiệu quả cao hơn nữa trước hết chính quyền địa phương cần có sự đầu tư quan tâm thoả đáng hơn nữa về kinh phí hoạt động của ngành cũng như thời gian trong việc tuyên truyền giáo dục pháp luật

Tăng cường xét xử lưu động nhằm tuyên truyền pháp luật, răn đe tội phạm và nâng cao ý thức pháp luật trong cộng đồng Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tố tụng, điều tra, Tòa án nhân dân và tổ chức xã hội để thực hiện hiệu quả các công tác, giúp giải quyết nhanh chóng các vụ án.

Cần chú trọng hơn đến đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa và khó khăn Mở rộng giáo dục pháp luật, đặc biệt là luật Hình sự và Luật Tố tụng hình sự, cho mọi tầng lớp nhân dân trong tỉnh Việc này giúp mọi người hiểu và thực hiện đúng pháp luật, từ đó giảm thiểu hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm, bao gồm cả tội cố ý gây thương tích.

Ngày đăng: 27/08/2021, 15:35

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w