1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Quan điểm của mỹ nhật các bên liên quan đối với “vấn đề hai bờ eo biển đài loan” từ sau chiến tranh lạnh đến nay

88 19 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Lập Trường Quan Điểm Của Mỹ - Nhật Và Các Bên Liên Quan Đối Với Vấn Đề Giữa Hai Bờ Eo Biển Đài Loan Từ Sau Chiến Tranh Lạnh Tới Nay
Tác giả Lê Thị Thân
Người hướng dẫn Th.S. Tôn Nữ Hải Yến
Trường học Trường Đại Học Vinh
Chuyên ngành Lịch sử
Thể loại Khóa Luận Tốt Nghiệp Đại Học
Năm xuất bản 2014
Thành phố Vinh
Định dạng
Số trang 88
Dung lượng 773,43 KB

Cấu trúc

  • Chương 1: Bối cảnh quốc tế và khu vực sau Chiến tranh lạnh tới nay và vấn đề Đài Loan (0)
    • 1.1. Bối cảnh quốc tế (10)
    • 1.2. Bối cảnh khu vực (13)
    • 1.3. Vấn đề Đài Loan trong chiến tranh lạnh (14)
      • 1.3.1. Cội nguồn của vấn đề Đài Loan (15)
      • 1.3.2. Thái độ của các nước đối với vấn đề giữa hai bờ Eo biển Đài Loan trong Chiến tranh lạnh (0)
  • Chương 2: Lập trường quan điểm của Mỹ - Nhật vấn đề giữa hai bờ (22)
    • 2.1. Vấn đề Đài Loan sau Chiến tranh lạnh tới nay (0)
    • 2.2: Lập trường quan điểm của Mỹ - Nhật về vấn đề giữa hai bờ Eo biển Đài Loan sau Chiến tranh lạnh (0)
      • 2.2.1. Quan điểm của Trung Quốc (26)
      • 2.2.2 Quan điểm của Đài Loan (33)
      • 2.2.3. Quan điểm của Mỹ (37)
      • 2.2.4. Quan điểm của Nhật (57)
    • 3.1. Tác động từ những quan điểm của Mỹ - Nhật đối với vấn đề Đài Loan (0)
    • 3.2. Quan hệ Trung – Mỹ (65)
    • 3.3. Quan hệ Trung – Nhật (71)
    • 3.4. triển vọng của vấn đề hai bờ Eo biển Đài Loan (0)
  • Tài liệu tham khảo (82)
  • Kết luận (78)
  • Phụ lục (84)

Nội dung

Bối cảnh quốc tế và khu vực sau Chiến tranh lạnh tới nay và vấn đề Đài Loan

Bối cảnh quốc tế

Sau khi trật tự hai cực Ianta sụp đổ, tình hình thế giới đã có nhiều thay đổi đáng kể Kinh tế toàn cầu không còn sự đối đầu giữa hai hệ thống, với các nước xã hội chủ nghĩa chuyển sang nền kinh tế thị trường Sự thống nhất trong nền kinh tế thế giới đã tạo điều kiện cho sự phát triển mạnh mẽ của từng quốc gia Các cường quốc hiện nay tập trung vào phát triển kinh tế nhằm khôi phục vị thế đã mất trong Chiến tranh Lạnh Đặc biệt, xu thế toàn cầu hóa đã dẫn đến sự phân công lao động quy mô lớn, mở ra cơ hội hội nhập và phát triển cho nhiều quốc gia.

Kể từ Hội nghị cấp cao ASEM vào tháng 3/1996, châu Á và châu Âu đã tăng cường liên kết kinh tế, dẫn đến sự hình thành nhiều trung tâm và cường quốc mới trên thế giới Sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa các quốc gia ngày càng gia tăng, đòi hỏi sự đoàn kết để giải quyết các vấn đề toàn cầu Đặc biệt, đầu thế kỷ XXI chứng kiến quá trình toàn cầu hóa mạnh mẽ, với kinh tế khu vực châu Á - Thái Bình Dương phục hồi và phát triển nhanh chóng Thế giới đang hình thành trật tự “nhất siêu – đa cường” do Mỹ dẫn dắt, nhưng sự trỗi dậy của Trung Quốc đã làm thay đổi tương quan lực lượng, không còn có lợi cho Mỹ và các đồng minh.

Các nước đang phát triển chủ yếu xuất khẩu nguyên liệu thô, trong khi các nước phát triển tập trung vào xuất khẩu máy móc, thiết bị và phương tiện vận tải Sự phân công lao động hiện tại không mang lại lợi ích cho các nước đang phát triển Đồng thời, các công ty xuyên quốc gia ngày càng phát triển mạnh mẽ, không chỉ chiếm lĩnh nền kinh tế trong nước mà còn mở rộng ra toàn cầu Bối cảnh thế giới đang trải qua những thay đổi lớn, với sự nổi bật của đế quốc Mỹ trong việc tái cấu trúc các mối quan hệ kinh tế toàn cầu.

Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương luôn là lợi ích trọng tâm của Mỹ, từ lịch sử cho đến hiện tại Chính quyền Obama đã triển khai và điều chỉnh chiến lược an ninh cho khu vực này, tạo ra một bộ khung rõ ràng Chiến lược này không chỉ ảnh hưởng đến quan hệ Trung – Mỹ mà còn định hình tình hình an ninh Châu Á - Thái Bình Dương trong tương lai Trong bối cảnh Liên Xô tan rã, Mỹ đã có tham vọng xây dựng một trật tự thế giới “đơn cực”.

Mỹ là siêu cường duy nhất có vai trò lãnh đạo toàn cầu, nhưng sự kiện khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001 đã gây tổn thương cho đất nước này, dẫn đến nhiều thay đổi trong chính sách đối nội và đối ngoại của Mỹ.

Sau sự kiện ngày 11/9, chống khủng bố đã trở thành một trong những ưu tiên hàng đầu trong chiến lược an ninh đối ngoại của Mỹ, điều này khác hẳn với trước đây khi nó chỉ là một phần nhỏ trong chính sách này Mỹ nhận thức rằng không thể đơn độc đối phó với các lực lượng khủng bố toàn cầu, do đó, họ đã điều chỉnh chính sách để trở nên ôn hòa và hướng ngoại hơn, nhằm tập hợp lực lượng quốc tế trong cuộc chiến chống khủng bố.

Sau đó Mỹ đã triển khai chiến lược xoay trục hướng sang Châu Á

Chính sách xoay trục của Mỹ đang là trọng tâm trong giai đoạn hiện nay, ảnh hưởng sâu sắc đến khu vực Châu Á – Thái Bình Dương Các thuật ngữ như "xoay trục", "tái cấu trúc" hay "tái cân bằng" đều thể hiện sự chuyển hướng chiến lược quốc gia, dù ở quy mô nào, và bắt đầu từ năm 2013 Khái niệm này không mới, khi vào tháng 7/2009, Ngoại trưởng Hillary Clinton đã khẳng định sự trở lại của Mỹ tại Đông Á thông qua việc ký kết "Hiệp ước thân thiện và hợp tác khu vực Đông Nam Á".

Vào tháng 10/2011, trong một bài viết trên tạp chí “Chính sách đối ngoại”, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã nhấn mạnh việc “xoay trục” chiến lược ngoại giao và quân sự của Mỹ sang khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, coi đây là bước khởi đầu cho thế kỷ Thái Bình Dương của Mỹ Bà cho rằng khu vực này tập trung nhiều đối tác quan trọng, mang lại cơ hội lớn cho Mỹ trong việc mở rộng ảnh hưởng an ninh – chính trị qua các căn cứ quân sự, đồng thời tăng cường đầu tư, thương mại và tiếp cận khoa học – công nghệ.

Diễn biến gần đây ở Châu Á – Thái Bình Dương đã tạo điều kiện cho Mỹ tái xác lập lực lượng và mở rộng ảnh hưởng trong bối cảnh căng thẳng khu vực Đông Bắc Á năm 2013 là khu vực then chốt giúp Mỹ triển khai kế hoạch "xoay trục" nhằm "tái cân bằng" lực lượng tại Châu Á – Thái Bình Dương.

Chiến lược “tái cân bằng” của Mỹ tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương không chỉ đơn thuần là việc điều chuyển lực lượng quân đội, mà còn bao gồm kế hoạch hoàn tất việc bố trí 60% số tàu chiến vào năm 2020 Ngoài ra, Mỹ còn tái thiết lập mối quan hệ với các quốc gia đang nổi lên, bao gồm cả Trung Quốc, tham gia vào các thể chế đa phương trong khu vực và củng cố quan hệ hợp tác kinh tế với các đối tác.

Bối cảnh khu vực

Khu vực Đông Bắc Á đã trải qua nhiều biến động chính trị phức tạp và nhạy cảm trong suốt nhiều năm qua, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997-1998.

Khu vực Đông Bắc Á hiện có ba trong bốn "con rồng" châu Á, bao gồm Đài Loan, Hồng Kông và Hàn Quốc, trong khi Nhật Bản nhanh chóng vươn lên thành trung tâm kinh tế lớn thứ hai thế giới chỉ sau Mỹ Với tốc độ tăng trưởng kinh tế ấn tượng, khu vực này đang trở thành nơi có thu nhập GDP cao hàng đầu toàn cầu.

Khu vực Đông Bắc Á đang đối mặt với nhiều tranh chấp lãnh thổ và mâu thuẫn nghiêm trọng, bao gồm tranh chấp giữa Nhật Bản và Nga về bốn hòn đảo ở phía Nam quần đảo Kurile, cũng như tranh chấp giữa Nhật Bản, Trung Quốc và Đài Loan về đảo Điếu Ngư (Senkaku) Ngoài ra, khu vực này còn chịu tác động từ các vấn đề như khủng hoảng hạt nhân trên Bán đảo Triều Tiên, căng thẳng tại Eo biển Đài Loan và tình hình thống nhất Bán đảo Triều Tiên.

Khu vực Đông Bắc Á đang đối mặt với nhiều mâu thuẫn và xung đột, nhưng xu hướng khu vực hóa và toàn cầu hóa mạnh mẽ yêu cầu các quốc gia cần hợp tác để phát triển Hợp tác, dân chủ và tự do hóa trong kinh tế - chính trị trở thành xu thế chủ yếu, mặc dù các vấn đề như tranh chấp lãnh thổ, khủng hoảng hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên, vấn đề Đài Loan và tranh chấp biển Đông vẫn phức tạp Tuy nhiên, những vấn đề này không thể vượt qua nhu cầu hợp tác và cùng tồn tại phát triển của các quốc gia và vùng lãnh thổ trong khu vực.

Bước vào thế kỷ XXI, Trung Quốc đã trải qua sự phát triển ngoạn mục, thu hút sự chú ý của toàn thế giới Tại kỳ họp quốc hội lần thứ

I, năm 2003, toàn bộ ban lãnh đạo cũ của Trung Quốc đã rời chính trường và nhường chỗ cho thế hệ lãnh đạo mới mà đứng đầu là chủ tịch Hồ Cẩm Đào Đây là đội ngũ được chọn lọc một cách nghiêm ngặt của Đảng Cộng sản với phương châm “bốn hoa” nghĩa là: trẻ hóa, tri thức hóa, chuyên môn hóa, và cách mạng hóa Như vậy, từ sự phát triển kinh tế ngày lớn mạnh cùng với sự hùng mạnh về quân sự và sự thay đổi to lớn về chính trị đã làm cho các nước phương Tây lo ngại trong đó có Mỹ nên các nước lớn quyết tâm đến cùng trong việc sử dụng “con bài” Đài Loan để đối trọng lại với Trung Quốc và xem đó là “thượng sách” trong bối cảnh quốc tế lúc này

Tình hình khu vực Đông Bắc Á đang diễn biến phức tạp, đặc biệt là trong vấn đề Đài Loan, nơi mà Trung Quốc Đại Lục đang nỗ lực thu hồi Sự gia tăng sức mạnh của Trung Quốc đặt ra yêu cầu cấp thiết phải giải quyết vấn đề hai bờ Eo biển Đài Loan Nếu không thể đạt được thống nhất bằng con đường hòa bình, khả năng Trung Quốc sử dụng bạo lực để đạt được mục tiêu là rất cao Vấn đề Đài Loan không chỉ bị ảnh hưởng bởi những tính toán lợi ích của các quốc gia mà còn bị chi phối sâu sắc bởi bối cảnh quốc tế và khu vực.

Vấn đề Đài Loan trong chiến tranh lạnh

1.3.1: Cội nguồn của vấn đề Đài Loan

Từ thực tế lịch sử đã chứng minh Đài Loan là một bộ phận – một tỉnh cấu thành nên Trung Quốc Tưởng Giới Thạch đã từng phát biểu :

Chính phủ Trung ương xem Đài Loan như một phần của gia đình đã xa cách 50 năm, với tình cảm dành cho Đài Loan vượt trội hơn bất kỳ tỉnh nào khác Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Đài Loan được công nhận là một tỉnh của Trung Quốc Nếu không có sự can thiệp của Mỹ, Nhật Bản và các nước phương Tây sau năm 1945, Trung Quốc có thể đã đạt được sự thống nhất lãnh thổ, và Đài Loan sẽ không còn là vấn đề nhạy cảm bị ảnh hưởng bởi các chính sách của các cường quốc.

Sau thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Nhật, vấn đề "vận mệnh của Trung Quốc" trở thành mối quan tâm lớn đối với hàng trăm triệu người dân Đại bộ phận quần chúng đã trải qua nhiều đau khổ trong các cuộc chiến tranh và nội chiến kéo dài, khao khát một cuộc sống hòa bình để xây dựng một Trung Hoa mới, dân chủ và hòa hợp Tuy nhiên, những nỗ lực để đạt được hòa bình và loại trừ nội chiến không mang lại kết quả như mong muốn Chỉ không lâu sau khi chiến tranh chống Nhật kết thúc, Trung Quốc lại rơi vào cuộc nội chiến lần thứ ba (1947 – 1949), được lịch sử gọi là "Chiến tranh giải phóng".

Ngày 26 – 6 1946, cuộc tấn công quy mô lớn của Quốc dân Đảng vào vùng giải phóng Trung Nguyên đã mở đầu cuộc nội chiến Quốc – Cộng ở Trung Quốc Khi nội chiến bùng nổ lực lượng của Quốc dân Đảng có khoảng 4,3 được trang bị vũ khí hiện đại do Mỹ cung cấp, trong khi lực lượng của Đảng Cộng sản có khoảng 1,27 triệu bình quân, được trang bị tương đối thô sơ Dựa vào ưu thế quân sự, Tưởng Giới Thạch và tham mưu trưởng Trần Thành đã dự tính sẽ dành thắng lợi trong vòng 3 đến 6 tháng Nhưng những diễn tiến của cuộc nội chiến không diễn ra như dự kiến

Quá trình nội chiến Quốc – Cộng lần ba diễn ra qua hai giai đoạn, bắt đầu từ tháng 4 năm 1949 với cuộc đàm phán tại Bắc Kinh giữa đoàn đại biểu Đảng Cộng sản do Chu Ân Lai lãnh đạo và đoàn đại biểu Quốc dân Đảng do Trương Tự Trọng dẫn đầu Quốc dân Đảng đề xuất “đình chiến tại chỗ” với ranh giới sông Trường Giang nhằm đạt được “hòa bình trong danh dự”, nhưng Đảng Cộng sản không thể chấp nhận phương án này, dẫn đến thất bại của cuộc đàm phán.

Sau thất bại của Quốc dân Đảng, Mỹ đã mất niềm tin vào Tưởng Giới Thạch, người đã chuyển giao quyền lực cho Lý Tôn Nhân và mang theo khối tài sản lớn, bao gồm 2.717.500 lượng vàng, 152.000.000 đồng và 15.347.000 USD gửi tại ngân hàng Mỹ Tưởng Giới Thạch đã tập trung một lực lượng quân đội 300.000 người cùng vũ khí để củng cố vị trí tại Đài Loan với mục tiêu "phản công Đại Lục" Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của Đài Loan, cho rằng "thà mất tất cả Đại Lục, còn Đài Loan thì không thể không giữ", và tin rằng chỉ cần giữ được Đài Loan, Đảng Cộng sản sẽ không thể làm gì để đe dọa họ, ngay cả khi toàn bộ Đại Lục bị chiếm đóng.

Ngày 21 – 9 1949, Hội nghị hiệp thương chính trị đã họp phiên họp đầu tiên thông qua “Cương lĩnh chung”, có tính chất như cương lĩnh tạm thời, bầu các thành viên của Trung ương do Mao Trạch Đông làm chủ tịch, các bên là chủ tịch là Chu Đức, Lưu Thiếu Kì, Tống Khánh Linh, Lý Tế Thâm, Trương Lan, Cao Cường, quyết định lấy Bắc Bình( đổi tên Bắc Kinh) cờ đỏ năm sao là quốc kì của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa

Ngày 1 – 10 – 1949, tại cuộc mít tinh hơn 30 vạn nhân dân Bắc Kinh lên quảng trưởng Thiên An Môn lịch sử, chủ tịch Mao Trạch Đông đã trịnh trọng tuyên bố thế giới sự ra đời của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa

Thắng lợi của Cách mạng Trung Quốc và sự ra đời của nước Cộng hòa

Nhân dân Trung Hoa, một quốc gia rộng lớn, đã trải qua nhiều sự kiện lịch sử quan trọng trong cuộc đấu tranh chống lại chế độ phong kiến, chủ nghĩa thực dân và các thế lực phản động Cuộc chiến này không chỉ nhằm giành độc lập dân tộc mà còn hướng tới dân chủ và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Cuối tháng 12 năm 1949, sau khi cuộc nội chiến ở Trung Quốc kết thúc, chính quyền Tưởng Giới Thạch rút về Đài Loan, từ đó Đài Loan trở thành vấn đề quan trọng trong việc thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc Nếu không có sự can thiệp của các nước lớn, công cuộc giải phóng Đài Loan của Trung Quốc sẽ gặp nhiều khó khăn.

Vấn đề vay mượn sẽ không gây tranh cãi và không trở thành một chủ đề nhạy cảm trong mối quan hệ giữa Trung Quốc và Đài Loan, cũng như khi các cường quốc khác can thiệp vào tình hình này.

Sau khi rút chạy sang Đài Loan, Quốc dân Đảng đối mặt với nhiều khó khăn, dù sở hữu một số tài sản lớn Quân đội của họ yếu kém, chủ yếu là tàn binh và thiếu ý chí chiến đấu Kinh tế Đài Loan, vốn xuất phát từ mức thấp, lại phải gánh thêm hơn hai triệu người di cư từ Đại Lục.

Vấn đề phản công đất liền của chính quyền Tưởng Giới Thạch vào thời điểm đó là vô vọng, khi họ cần viện trợ để giải quyết các vấn đề kinh tế và xã hội, đồng thời duy trì sức mạnh quân đội chống lại quân giải phóng Trung Quốc và các mối đe dọa bên trong Nhận thức rằng không thể thắng quân đội lục địa bằng sức mạnh quân sự, Đài Loan đã chọn con đường phát triển kinh tế và ổn định xã hội như giải pháp duy nhất trong cuộc chiến Để đạt được mục tiêu này, chính quyền cần sự bảo trợ từ Mỹ, và với sự hỗ trợ đó, vào ngày 10 tháng 10 năm 1949, Tưởng Giới Thạch đã tuyên bố thành lập nước Trung Hoa Dân Quốc tại Đài Loan.

Sự thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và sự rút lui của quân Tưởng ra Đài Loan đã tạo ra một tình huống lịch sử đặc biệt Sự tồn tại của Trung Hoa Dân quốc đã đặt ra vấn đề thống nhất cho người Trung Quốc, dẫn đến việc hình thành "vấn đề Đài Loan".

Tưởng Giới Thạch lựa chọn chính sách thân Mỹ không chỉ nhằm thu hút sự hỗ trợ kinh tế và củng cố chính quyền, mà còn để kéo Mỹ vào cuộc xung đột Quốc - Cộng, đồng thời làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa Mỹ và Trung Quốc, buộc Mỹ phải đưa ra lựa chọn đối với Đài Loan Ngược lại, Mỹ cũng có ý định phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa non trẻ, và trong thâm tâm, họ chưa bao giờ mong muốn Trung Quốc được thống nhất một cách thực sự.

1.3.2: Quan điểm của các nước đối với vấn đề giữa hai bờ Eo biển Đài

Loan trong Chiến tranh lạnh

Ngay khi vấn đề Đài Loan nổi lên, các nước lớn đã có phản ứng khác nhau Mỗi quốc gia thể hiện quan điểm riêng về Đài Loan Trung Quốc khẳng định Đài Loan là một tỉnh của mình và luôn mong muốn thu hồi Đài Loan Để tránh xung đột và đổ máu, Trung Quốc kiên trì theo đuổi chính sách thu hồi hòa bình, tương tự như đã làm với Hong Kong và Ma Cao.

Lập trường quan điểm của Mỹ - Nhật vấn đề giữa hai bờ

Lập trường quan điểm của Mỹ - Nhật về vấn đề giữa hai bờ Eo biển Đài Loan sau Chiến tranh lạnh

về vấn đề giữa hai bờ Eo biển Đài Loan sau Chiến tranh lạnh

2.2.1, Quan điểm của Trung Quốc

Trung Quốc đã nỗ lực khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế, đồng thời đối mặt với các vấn đề liên quan đến phát triển kinh tế và thu hồi đảo Đài Loan, Hongkong và Ma Cao Trong số đó, vấn đề căng thẳng nhất hiện nay là tình hình giữa hai bờ Eo biển Đài Loan.

Trung Quốc kiên quyết thực hiện mong muốn thu hồi Đài Loan, khẳng định lập trường "một nước Trung Quốc" và coi Đài Loan là vấn đề nội bộ, không cho phép các nước lớn và khu vực Đông Bắc Á can thiệp Trung Quốc nhấn mạnh rằng nhân dân hai bờ Eo biển cần tự giải quyết vấn đề này Thái độ cứng rắn của Trung Quốc đã thay đổi quan điểm của một số quốc gia, nhưng cũng dẫn đến nhiều mâu thuẫn và hệ lụy khác.

Trung Quốc hiện đang tìm cách tháo gỡ những chính sách mà các nước lớn áp dụng đối với Đài Loan, với mục tiêu phát triển kinh tế làm trọng tâm Để đạt được điều này, Trung Quốc chú trọng vào việc hiện đại hóa đất nước và mở cửa nền kinh tế Đồng thời, họ cũng nỗ lực giảm thiểu sự can thiệp ngoại giao từ bên ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển và môi trường, đồng thời khẳng định không có ý định can thiệp vào các vấn đề quốc tế.

Sau sự kiện Thiên An Môn, Trung Quốc đối mặt với lệnh cấm vận từ Mỹ và các nước phương Tây, nhưng vẫn nỗ lực duy trì quan hệ với Mỹ Vào ngày 5 tháng 9, tại Trường Đảng Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, các lãnh đạo đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cải thiện mối quan hệ song phương.

Năm 1992, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Tiền Kì tham nhấn mạnh rằng Mỹ là đối tượng chủ yếu trong công tác đối ngoại của Trung Quốc, với mục tiêu không làm tổn hại đến quan hệ Mỹ - Trung Chủ tịch Giang Trạch Dân đã đề ra phương châm 18 chữ để chỉ đạo quan hệ với các nước, đặc biệt là Mỹ: “tăng thêm niềm tin, giảm bớt phiền phức, phát triển hợp tác, không đối kháng nhau” Trung Quốc đã tăng cường tiếp xúc với các chính giới Mỹ, tác động vào nội bộ để làm dịu đi những quan điểm thù địch và khuyến khích những quan điểm có lợi cho mình, đồng thời sử dụng cam kết song phương để thúc đẩy quan hệ Về vấn đề Đài Loan, Trung Quốc đã đề ra phương châm “Đề nghị tiến hành đàm phán Quốc – Cộng” từ những năm 80, giữ vững lập trường “Thống nhất hòa bình, một nước hai chế độ” nhưng vẫn không từ bỏ cam kết sử dụng vũ lực Trung Quốc vừa mở rộng giao lưu hai bờ, vừa đẩy mạnh hoạt động cô lập Đài Loan trên trường quốc tế để các nước thừa nhận nguyên tắc “một nước Trung Quốc”.

Trung Quốc mạnh mẽ phản đối sự ủng hộ của Mỹ đối với Đài Loan trong việc gia nhập Liên Hợp Quốc, cho rằng điều này tạo ra “hai nước Trung Quốc” hoặc “một nước Trung Quốc, một nước Đài Loan”, đi ngược lại với chủ trương thống nhất của Trung Quốc Để ngăn chặn nỗ lực này, Trung Quốc đã cô lập Đài Loan và sử dụng quyền phủ quyết tại Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc Theo khuôn khổ “nhất quốc lưỡng chế” do Đặng Tiểu Bình đề ra năm 1984, Trung Quốc đã điều chỉnh các sách lược trong quan hệ với Đài Loan, được thể hiện qua báo cáo chính trị của Giang Trạch Dân tại Đại hội XIV Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1992 và sách trắng về “vấn đề thống nhất Đài Loan” năm 1993 Chủ trương 8 điểm của Giang Trạch Dân vào ngày 30 tháng 1 năm 1995 nhấn mạnh việc thúc đẩy đàm phán “hòa bình thống nhất”, duy trì “một nước hai chế độ”, cho phép Đài Loan giữ nguyên chế độ hiện có và có quyền tự trị cao như một khu hành chính đặc biệt.

Trong những năm qua, chính phủ Trung Quốc đã tích cực thúc đẩy hợp tác kinh tế và trao đổi thương mại giữa hai bờ, mặc dù chưa thống nhất được Đài Loan Các lĩnh vực hợp tác bao gồm bưu điện, hàng không, hàng hải và các chuyến thăm lẫn nhau, nhằm hỗ trợ cho quá trình thống nhất Đài Loan của Đại Lục.

Vào tháng 5/1995, Mỹ đã cấp thị thực cho Tổng thống Đài Loan Lý Đăng Huy để thăm Mỹ, đánh dấu sự khởi đầu cho giai đoạn căng thẳng trong quan hệ Trung – Mỹ và Trung – Đài, dẫn đến cuộc khủng hoảng Eo biển Đài Loan vào tháng 7/1995 và tháng 3/1996 Hành động này của Mỹ được xem như một cách gián tiếp để nâng cấp quan hệ giữa Trung Quốc và Đài Loan Để phản đối chuyến đi của Lý Đăng Huy và chuyến thăm Trung Âu của Thủ tướng Đài Loan Liên Chấn, Trung Quốc đã hủy bỏ cuộc “hội đàm Cố - Uông” về thống nhất Trung Quốc, dự kiến tổ chức vào ngày 20 tháng 7 năm 1995, đồng thời chỉ đạo tư lệnh không quân ngừng chuyến đi sang Mỹ và hủy bỏ kế hoạch giao lưu song phương với Mỹ.

1995 Đại sứ Trung Quốc tại Mỹ là Lý Đạo Du được triệu hồi về nước

Vào tháng 7/1995, Trung Quốc đã tiến hành các cuộc diễn tập quân sự tại Đài Loan nhằm gây sức ép lên cử tri Đài Loan trước cuộc bầu cử lập pháp tháng 12/1995, bao gồm việc phóng 6 tên lửa M-9 vào biển phía Bắc và huy động lực lượng quân đội với quy mô lớn Đỉnh điểm là cuộc diễn tập quy mô lớn vào tháng 3 năm 1996, nhằm ngăn cản Lý Đăng Huy tái cử và răn đe Đài Loan theo đuổi độc lập Trước ngày bầu cử Tổng thống Đài Loan, Trung Quốc đã tập trung 15.000 quân và triển khai 300 máy bay trong khu vực gần đó Mỹ đã cảnh báo Trung Quốc về hậu quả nghiêm trọng nếu tấn công Đài Loan, và đã điều động Hạm đội 7 với 14 tàu chiến, bao gồm hai hàng không mẫu hạm, đến khu vực này, đánh dấu sự hiện diện quân sự lớn nhất của Mỹ tại châu Á kể từ năm 1975 Đồng thời, Mỹ cũng đã bán cho Đài Loan 150 máy bay F-16 để tăng cường khả năng tự vệ, gửi tín hiệu rõ ràng rằng Mỹ cam kết bảo vệ hòa bình trong khu vực.

Cuộc tập trận của Trung Quốc tại Eo biển Đài Loan vào tháng 3 năm 1996 đã gửi đi một thông điệp mạnh mẽ tới Hoa Kỳ, cho thấy sự quyết tâm của Bắc Kinh trong việc thu hồi Đài Loan Sau cuộc khủng hoảng lần thứ ba, Hoa Kỳ đã trở nên thận trọng hơn, trong khi Trung Quốc tiếp tục theo đuổi chính sách này Sự thành công trong việc thu hồi Hong Kong vào tháng 7 năm 1997 và Macao vào tháng 12 năm 1999 đã làm gia tăng mạnh mẽ mong muốn của Đại Lục trong việc kiểm soát Eo biển Đài Loan.

Trước những âm mưu của Mỹ và thái độ của Đài Loan, Trung Quốc đã ngay lập tức phản đối và đề xuất với Nga, một đối tác quân sự quan trọng, việc xuất khẩu vũ khí trị giá khoảng 1 tỷ USD mỗi năm trong vòng 5 năm Đồng thời, Trung Quốc cũng tăng cường triển khai tên lửa nhằm vào Đài Loan, nhằm gây sức ép trực tiếp và tuyên bố rằng "Trung Quốc sẽ không loại trừ khả năng sử dụng vũ lực nếu Đài Loan tuyên bố độc lập."

Trung Quốc luôn coi Đài Loan là một phần lãnh thổ không thể tách rời và việc thống nhất đất nước là công việc nội bộ của họ Nếu Đài Loan chọn con đường hòa bình và đồng ý thực hiện thống nhất theo nguyên tắc “một nước hai chế độ” như Hong Kong, đó sẽ là điều thuận lợi Tuy nhiên, nếu không, Trung Quốc có thể sử dụng vũ lực để đối phó với những vùng lãnh thổ chống đối Mặc dù không muốn xảy ra đổ máu, Trung Quốc đang chuẩn bị cho khả năng sử dụng vũ lực để thu hồi Đài Loan, đặc biệt trước những hành động của Mỹ trong việc triển khai hệ thống đạn đạo tại đây Họ đã tăng cường tập luyện quân sự, mua sắm vũ khí từ Nga, và bố trí tên lửa tầm ngắn tại các căn cứ quân sự đối diện Đài Loan, tạo ra mối đe dọa lớn cho hòn đảo này, mặc dù Đài Loan đã nhận được nhiều hỗ trợ từ Mỹ trong những năm gần đây.

Ngày 21 – 2 – 2000, Trung Quốc công bố Sách trắng nhằm trình bày trước dư luận quốc tế về “ nguyên tắc một nước Trung Quốc và vấn đề Đài Loan”, Trung Quốc thể hiện lập trường trước sau như một của mình và không muốn bất cứ nước nào can thiệp vào Trong cuốn Sách trắng khẳng định rằng, Trung Quốc sẽ sử dụng vũ lực đối với Đài Loan trong ba trường hợp: Đài Loan tuyên bố độc lập, nước ngoài can thiệp vào Đài Loan, Đài Loan duy trì vô thời hạn việc thương lượng đối với Trung Quốc Ngày 22 –

Vào năm 2000, Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân đã thăm Quảng Đông và Phúc Kiến, cùng với Bộ trưởng Quốc phòng Trì Hạo Điền Mục đích của chuyến đi này là để kiểm tra tinh thần sẵn sàng chiến đấu của quân đội Trung Quốc tại các khu vực Quảng Đông, Thâm Quyến và Phúc Kiến.

Hành động của Trung Quốc không chỉ thách thức Mỹ và đe dọa Đài Loan, mà còn nhằm khẳng định sức mạnh của mình Mỹ đã ngay lập tức phản ứng, cho rằng việc Trung Quốc công bố Sách trắng mà không thông báo trước là thiếu tôn trọng Do đó, Đại sứ quán Trung Quốc tại Mỹ đã bị chỉ trích vì hành động này.

Quan hệ Trung – Mỹ

Kể từ năm 1986, quan hệ Trung – Mỹ đã xấu đi do nhiều nguyên nhân, bao gồm việc Trung Quốc xuất khẩu tên lửa và công nghệ đạn đạo cho các nước như Pakistan, Syria và Iran, cùng với việc xuất khẩu công nghệ hạt nhân Tình trạng thặng dư thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ, cùng với vấn đề ăn cắp bản quyền, cũng là những yếu tố gây căng thẳng Tuy nhiên, nguyên nhân chính nằm ở việc Trung Quốc mất vai trò trong chiến lược của Mỹ, dẫn đến việc các nước phương Tây thực hiện chính sách cấm vận nhằm kiềm chế Liên Xô, khiến Mỹ gặp khó khăn trong việc xác định chính sách đối với Trung Quốc Trong khi đó, Mỹ lại ủng hộ khuynh hướng dân chủ hóa và tự do hóa ở Đài Loan, đồng thời tăng cường quan hệ với hòn đảo này.

Trong 10 năm qua, quan hệ Trung - Mỹ đã trải qua nhiều biến động phức tạp, từ những thời điểm căng thẳng có thể dẫn đến chiến tranh đến những giai đoạn ổn định để phát triển kinh tế Mối quan hệ này, đặc biệt sau cuộc khủng hoảng Eo biển Đài Loan những năm 1995-1996, đã trở nên nóng bỏng khi Trung Quốc phản đối mạnh mẽ sự can thiệp của Mỹ vào vấn đề Đài Loan Sự nghi ngờ về khả năng tuyên bố độc lập của Đài Loan trong bối cảnh bầu cử càng làm tăng tính nghiêm trọng của vấn đề Cuộc khủng hoảng này không chỉ đe dọa quan hệ Mỹ - Trung mà còn khiến cả thế giới lo ngại về khả năng xảy ra chiến tranh hạt nhân Tuy nhiên, sau khi cuộc bầu cử ở Đài Loan kết thúc với chiến thắng của Lý Đăng Huy, căng thẳng đã được giảm bớt nhờ vào sự thỏa thuận giữa hai bên nhằm duy trì mối quan hệ song phương và ổn định khu vực Mỹ và Trung Quốc đều nhận thức rõ tầm quan trọng của việc tránh xung đột và nhanh chóng tìm cách tháo gỡ căng thẳng.

Trong chuyến thăm Mỹ của Chủ tịch Giang Trạch Dân, hai bên đã thảo luận nhiều về vấn đề Đài Loan, với lập trường nhất quán của Trung Quốc về chính sách “một nước Trung Quốc” Chủ tịch Giang nhấn mạnh rằng Trung Quốc coi trọng quan hệ với Mỹ, nhưng nguyên tắc bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là ưu tiên hàng đầu Ông cũng yêu cầu Tổng thống Bill Clinton tôn trọng lập trường này như các Tổng thống trước Cuộc viếng thăm này được xem là sự kiện quan trọng trong quan hệ Mỹ - Trung, với tuyên bố chung khẳng định rằng vấn đề Đài Loan là nhạy cảm và quan trọng nhất trong mối quan hệ hai nước, và việc tuân thủ nguyên tắc của ba bản thông cáo chung là điều cần thiết để duy trì sự phát triển ổn định và lành mạnh trong quan hệ Mỹ - Trung.

Mặc dù mối quan hệ Mỹ - Trung đã có những cải thiện, Mỹ vẫn duy trì sự thận trọng đối với Trung Quốc Cả hai quốc gia đều hiểu rằng hành động của họ chủ yếu nhằm răn đe lẫn nhau, vì chiến tranh sẽ không mang lại lợi ích cho cả hai Mỹ không thể hy sinh mối quan hệ với Trung Quốc vì Đài Loan, trong khi Trung Quốc mong muốn cuộc bầu cử diễn ra theo ý mình Tình hình quan hệ Mỹ - Trung đã dịu đi vào tháng 5 năm 2000 khi các vấn đề bầu cử được giải quyết, mặc dù kết quả không hoàn toàn như mong muốn của Trung Quốc Thêm vào đó, do nhu cầu và lợi ích chung, cả hai bên không thể để căng thẳng kéo dài.

Trong thời gian tranh cử, Tổng thống Bush đã từng xem Trung Quốc là “đối thủ cạnh tranh” thay vì “đối tác chiến lược”, nhưng sau sự kiện khủng bố ngày 11 – 9 – 2001, Mỹ đã điều chỉnh chính sách đối ngoại, đặc biệt là trong quan hệ với Trung Quốc và vấn đề Đài Loan Mối quan hệ giữa hai nước dần ấm lên, với việc Bush đề xuất xây dựng “mối quan hệ hợp tác có tính xây dựng” và thực hiện nhiều chuyến thăm Trung Quốc Các lãnh đạo Trung Quốc cũng đã có những chuyến thăm Mỹ, tuy nhiên, Mỹ vẫn duy trì chính sách kiềm chế Trung Quốc, áp dụng “tiêu chuẩn kép” trong chống khủng bố, tăng cường quan hệ quân sự với Nhật Bản, Ấn Độ và Việt Nam, đồng thời duy trì sự hiện diện quân sự tại Đông Á, Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, cùng với việc tiếp tục bán vũ khí cho Đài Loan.

Quan hệ Trung Quốc - Mỹ không chỉ quan trọng đối với hai quốc gia mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến toàn bộ khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đặc biệt là Đài Loan Mối quan hệ này đã có tác động toàn cầu, thu hút sự quan tâm của các nước láng giềng và cường quốc khác Vấn đề Đài Loan là một trong những điểm nóng quan trọng, và kể từ khi kết thúc Chiến tranh Lạnh, căng thẳng giữa hai nước về vấn đề này đã gia tăng, dẫn đến nhiều cuộc đối đầu nghiêm trọng Sau khi chính quyền Bush nhậm chức, các chính sách liên quan đến Eo biển Đài Loan trở nên rõ ràng hơn, cho thấy rằng sự ổn định ở khu vực này là điều kiện tiên quyết cho sự ổn định của châu Á - Thái Bình Dương Trung Quốc mong muốn duy trì quan hệ đối tác hợp tác với Mỹ, trong khi Mỹ cũng hy vọng vào sự phát triển ổn định của mối quan hệ này Tuy nhiên, chính quyền Bush đã có sự thay đổi đáng kể trong chiến lược châu Á – Thái Bình Dương và chính sách đối với Trung Quốc.

Mặc dù có những mâu thuẫn về vấn đề Đài Loan, Trung Quốc và Mỹ vẫn duy trì hợp tác trong nhiều lĩnh vực kinh tế Quan hệ chính trị giữa hai nước không mấy tốt đẹp, thường xảy ra cọ sát giữa các chính phủ, nhưng quan hệ kinh tế và thương mại lại phát triển mạnh mẽ sau chiến tranh lạnh Kim ngạch thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ đã tăng từ 11,7 tỷ USD năm 1990 lên 85 tỷ USD năm 2000, cho thấy sự tăng trưởng nhanh chóng Mối quan hệ này không chỉ đơn thuần giữa các quốc gia mà còn trở thành mối quan hệ giữa hai xã hội, với nhiều nhóm xã hội và lực lượng chính trị tại Mỹ tham gia vào việc định hình chính sách đối với Trung Quốc Do đó, chính phủ Mỹ thường phải phản ứng với áp lực xã hội, dẫn đến những biến cố không mong muốn Trong khi đó, Trung Quốc cũng trải qua những thay đổi sâu sắc trong mối quan hệ giữa nhà nước và xã hội, đặc biệt trong chính sách đối ngoại của Mỹ, nơi quan hệ với Trung Quốc ngày càng trở nên quan trọng và cấp thiết.

Năm 1844, Hiệp ước Wangxia đánh dấu sự khởi đầu của quan hệ chính thức giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ, trong đó Hoa Kỳ được xem là nước mạnh và Trung Quốc tương đối yếu Tuy nhiên, sự trỗi dậy của Trung Quốc sau Chiến tranh Lạnh đã làm thay đổi cục diện, buộc cả hai quốc gia phải cân bằng sức mạnh trong bối cảnh toàn cầu mới Điều này đặt ra thách thức cho Hoa Kỳ trong việc thích ứng với một Trung Quốc ngày càng mạnh mẽ, trong khi Trung Quốc cần nhận thức rõ vai trò ngày càng quan trọng của mình trong chính sách của Mỹ và cộng đồng quốc tế Tương lai của mối quan hệ Trung - Mỹ sẽ phụ thuộc vào các chính sách của Trung Quốc trong một bối cảnh phức tạp.

Các văn kiện ký kết giữa hai nước cho thấy sự phát triển đáng kể trong mối quan hệ bán chính thức với Đài Loan, điều này trái ngược với quan điểm mà Mỹ thường tuyên truyền về chính sách "một Trung Quốc".

Quan hệ Trung – Nhật

Trong mối quan hệ giữa Nhật Bản và Trung Quốc, hai cường quốc này đã thực hiện những giao dịch thương mại đầu tư khổng lồ, mặc dù vẫn tồn tại nhiều bất đồng về quan điểm chính trị Quan hệ giữa hai nước trở nên căng thẳng dưới thời cựu Thủ tướng Nhật Koizumi, đặc biệt sau khi Trung Quốc phản đối Nhật Bản trở thành thành viên chính thức của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc.

Trong những năm gần đây, căng thẳng trong quan hệ Nhật-Trung chủ yếu xuất phát từ tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo mà Nhật gọi là Senkaku và Trung Quốc gọi là Điếu Ngư Vào năm 2010, sự kiện Nhật Bản bắt giữ thuyền trưởng tàu cá Trung Quốc vì va chạm với tàu Nhật ở vùng biển tranh chấp đã dẫn đến yêu cầu đối thoại từ phía Trung Quốc và việc tạm dừng các hoạt động trao đổi sinh viên giữa hai nước.

Mâu thuẫn gần như tới mức đỉnh điểm khi chính quyền thành phố

Quyết định quốc hữu hóa một số đảo thuộc quần đảo Senkaku của Tokyo đã gây ra sự phẫn nộ mạnh mẽ từ dư luận và chính quyền Trung Quốc Tình hình căng thẳng không chỉ diễn ra trên biển mà còn lan rộng trên đất liền, với hàng loạt cuộc biểu tình chống chính phủ Nhật Bản diễn ra rầm rộ tại nhiều thành phố Trung Quốc Nhiều nhà máy và hàng hóa Nhật Bản ở Trung Quốc đã bị tấn công và tẩy chay.

Mối quan hệ "chính trị lạnh" đi đôi với "kinh tế nóng" đã hình thành một chuẩn mực quan trọng, khẳng định rằng ràng buộc kinh tế chính là nền tảng cho hòa bình.

Trung Quốc hiện đang là đối tác thương mại lớn nhất của Nhật Bản, trong khi Nhật Bản đứng thứ hai trong danh sách các đối tác thương mại của Trung Quốc.

Nhật Bản là một trong những nhà đầu tư lớn nhất của Trung Quốc, với đầu tư trực tiếp tăng gấp mười lần trong thập kỷ qua Nhiều công ty Nhật Bản đã chuyển các cơ sở sản xuất sang Trung Quốc, cho thấy sự quan trọng của mối quan hệ đầu tư giữa hai nước.

Sự phụ thuộc kinh tế giữa Trung Quốc và Nhật Bản đã gia tăng đáng kể kể từ tháng 5/2012, khi chính phủ Trung Quốc quyết định cho phép hoán đổi giữa đồng yên và nhân dân tệ Nhật Bản, với vị trí là đối tác kinh tế lớn thứ hai của Trung Quốc, đã trở thành sự lựa chọn hàng đầu của Bắc Kinh trong mối quan hệ này.

Mối quan hệ Nhật Bản - Trung Quốc thường xuyên bị chi phối bởi tranh cãi về chủ quyền và chính trị, tạo ra bầu không khí đối đầu Tuy nhiên, những ràng buộc kinh tế vẫn giữ hai nước gắn bó chặt chẽ Để hiểu rõ hơn về quan hệ giữa hai cường quốc này, cần nhìn nhận sự phức tạp và thống nhất trong lợi ích của họ Gần đây, ảnh hưởng của Mỹ đã trở thành yếu tố chi phối mối quan hệ này, khi Trung Quốc thể hiện thái độ hiếu chiến hơn, thúc đẩy sự gắn kết giữa Mỹ và Nhật Tokyo và Washington đang tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực tình báo, hệ thống phòng thủ tên lửa, an ninh không gian và công nghệ cao.

3.4: Triển vọng của vấn đề Đài Loan

Thế kỉ XXI chứng kiến nhân loại đối mặt với nhiều cuộc chiến tranh và xung đột, từ quy mô lớn với vũ khí hiện đại đến những xung đột khu vực và tôn giáo, để lại hậu quả nghiêm trọng Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, thế giới chuyển sang thời kì mới với xu thế đối thoại và hợp tác, thay thế cho đối đầu Tuy nhiên, khi những mâu thuẫn cũ dần được giải quyết, thì những xung đột mới lại nảy sinh, tạo nên những chuyển biến lớn lao trong bối cảnh toàn cầu.

Trong thập niên đầu thế kỷ XXI, tình hình thế giới diễn ra phức tạp khi chuyển từ trật tự cũ sang trật tự mới Trật tự chính trị quốc tế hiện nay đang trong trạng thái “Nhất siêu - đa cường”, trong đó Mỹ giữ vai trò siêu cường với sức mạnh vượt trội và mong muốn thiết lập một trật tự “đơn cực”.

Mỹ đang chi phối trật tự thế giới, trong khi nhiều quốc gia như Nga, Trung Quốc, Nhật Bản và Ấn Độ mong muốn thiết lập một hệ thống đa cực, trong đó mỗi quốc gia và khu vực sẽ đảm nhận vai trò riêng biệt như một cực.

Bước vào thế kỷ XXI, tình hình thế giới vẫn chưa ổn định với nhiều cuộc xung đột và chiến tranh diễn ra Những cuộc chiến đầu tiên của thế kỷ này bao gồm chiến tranh Iraq và chiến tranh Afghanistan, phản ánh sự căng thẳng toàn cầu và những thách thức an ninh hiện nay.

Tình hình an ninh thế giới hiện nay đang trở nên phức tạp với những xung đột tại bán đảo Triều Tiên, vấn đề Eo biển Đài Loan và các cuộc tấn công khủng bố toàn cầu Sự gia tăng các cuộc xung đột địa-chính trị và tranh giành ảnh hưởng đang mở rộng về phạm vi và tăng cường mức độ căng thẳng Các khu vực như Trung Đông (với tâm điểm là Iraq và Iran), Trung Á (bao gồm Afghanistan và các nước cộng hòa cũ của Liên Xô), Ban-căng (tâm điểm Kosovo), biển Caxpi (với Gruzia), Bắc Cực, châu Phi, Đông Bắc Á và Đông Nam Á đang thể hiện rõ sự cạnh tranh giữa các quốc gia, tạo ra những nguy cơ tiềm tàng cho xung đột và tranh chấp cả khu vực lẫn toàn cầu.

Thập niên đầu của thế kỷ XXI đã ghi nhận những biến đổi sâu sắc trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hóa trên toàn cầu.

Cuối thế kỷ XX, cách mạng khoa học - công nghệ đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất toàn cầu, làm thay đổi nhận thức của con người về chiến tranh, hòa bình, tăng trưởng và phát triển kinh tế Quan hệ giữa các nước đang phát triển ngày càng đa dạng và đa phương, với hợp tác kinh tế là nền tảng để giải quyết các vấn đề song phương trên cơ sở bình đẳng và cùng có lợi Xu thế đa cực hóa và toàn cầu hóa kinh tế đang mở ra cơ hội cho hòa bình và phát triển, giúp mỗi quốc gia tận dụng bối cảnh hòa bình và môi trường hợp tác để cùng nhau phát triển.

triển vọng của vấn đề hai bờ Eo biển Đài Loan

Gần đây, quan hệ giữa hai bờ Eo biển Đài Loan đã có những chuyển biến tích cực Sự gặp gỡ gần đây của hai bên cho thấy kinh tế Đài Loan ngày càng phụ thuộc vào kinh tế Đại Lục, làm tăng nguy cơ lệ thuộc về mặt chính trị Việc Đài Loan trở về với Đại Lục có thể chỉ là vấn đề thời gian, khi Trung Quốc đang sử dụng sức mạnh kinh tế để thu phục Đài Loan Do đó, tình hình giữa hai bờ Eo biển Đài Loan đang mở ra một chân trời mới.

Ngày đăng: 27/08/2021, 11:16

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w