NỘI DUNG
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ
1.1 Quan niệm về cán bộ, công chức cấp xã
Vào cuối những năm 80 của thế kỷ trước, khái niệm “cán bộ, công chức” được sử dụng để chỉ chung tất cả những người làm việc cho Nhà nước mà không có sự phân biệt rõ ràng Đội ngũ này được hình thành từ nhiều con đường khác nhau, bao gồm bầu cử, phân công sau khi tốt nghiệp các trường chuyên nghiệp, cũng như qua tuyển dụng và bổ nhiệm Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm
Luật Cán bộ, Công chức năm 1998 là văn bản pháp lý cao nhất tại Việt Nam, nhưng không quy định cụ thể về cán bộ, công chức cấp xã, chỉ đề cập chung đến ba đối tượng: cán bộ, công chức và viên chức Điều này dẫn đến sự không rõ ràng trong việc phân định ai là cán bộ, ai là công chức, ai là viên chức, khi mà tất cả đều được quy định chung là công dân Việt Nam trong biên chế Thuật ngữ "cán bộ" được sử dụng như một ước lệ, chưa thể hiện rõ tính chất hành chính và nội hàm của khái niệm, đây là một hạn chế của Pháp lệnh Cán bộ, Công chức.
Năm 2003, Uỷ Ban Thường vụ Quốc hội đã sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998, quy định về cán bộ, công chức cấp xã Theo đó, cán bộ, công chức được xác định là công dân Việt Nam, trong biên chế, bao gồm: a) Những người được bầu cử để đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, và người đứng đầu tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở xã, phường, thị trấn; b) Những người được tuyển dụng và giao giữ chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã.
Theo Nghị định 114/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ, cán bộ, công chức cấp xã được xác định bao gồm cả cán bộ chuyên trách và không chuyên trách, dựa trên cơ sở Pháp lệnh Cán bộ, công chức (sửa đổi, bổ sung năm 2003).
- Cán bộ chuyên trách gồm:
Cán bộ chuyên trách cấp xã là những người được bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ, bao gồm các vị trí như Bí thư, Phó Bí thư đảng uỷ, Thường trực đảng uỷ (nơi không có Phó Bí thư chuyên trách công tác đảng), Bí thư, Phó Bí thư chi bộ (nơi chưa thành lập đảng uỷ cấp xã), Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, và Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản.
Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ, Chủ tịch Hội Nông dân và Chủ tịch Hội Cựu chiến binh
Cán bộ không chuyên trách bao gồm nhiều vị trí quan trọng như Trưởng Ban Tổ chức đảng, Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo và một cán bộ Văn phòng Đảng uỷ Ngoài ra, còn có Phó Trưởng công an tại những nơi chưa có lực lượng công an chính quy, Phó Chỉ huy trưởng quân sự, cùng các cán bộ phụ trách kế hoạch, giao thông, thuỷ lợi, nông, lâm, ngư nghiệp, lao động, thương binh và xã hội, dân số, gia đình và trẻ em Các vị trí khác cũng bao gồm Thủ quỹ, văn thư, lưu trữ, cán bộ phụ trách đài truyền thanh, quản lý nhà văn hoá, và Phó Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng với Phó các đoàn thể cấp xã.
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân và Hội Cựu chiến binh, cùng với các tổ chức khác như Hội Người cao tuổi và Hội Chữ thập đỏ Việt Nam, đang hoạt động trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế Sự phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế đòi hỏi một sự điều chỉnh pháp luật rõ ràng hơn, cùng với yêu cầu về chuyên biệt hóa trong cải cách hành chính Luật Cán bộ, công chức, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2010, quy định cụ thể về cán bộ cấp xã, bao gồm các công dân Việt Nam được bầu giữ chức vụ trong các cơ quan chính quyền địa phương và tổ chức chính trị - xã hội.
Luật cán bộ, công chức năm 2008 xác định các chức vụ của cán bộ cấp xã bao gồm: Bí thư và Phó Bí thư đảng uỷ, Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch và Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ, Chủ tịch Hội Nông dân (đối với các xã, phường, thị trấn có hoạt động nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và tổ chức Hội Nông dân Việt Nam), cùng với Chủ tịch Hội Cựu chiến binh.
Khái niệm cán bộ cấp xã đã được quy định rõ ràng, bao gồm công dân Việt Nam được bầu giữ các chức vụ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy và người đứng đầu các tổ chức chính trị - xã hội.
Công chức là thuật ngữ chỉ những người được tuyển dụng vào làm việc thường xuyên trong các cơ quan nhà nước và hưởng lương từ ngân sách nhà nước Ở Việt Nam, khái niệm công chức gắn liền với sự phát triển của nền hành chính nhà nước, được quy định lần đầu tiên trong Sắc lệnh số 76/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 20 tháng 5 năm 1950 Để đáp ứng nhu cầu nhân lực trong bộ máy nhà nước, thuật ngữ “công chức” đã dần được thay thế bằng “cán bộ, công nhân, viên chức”, bao gồm tất cả những người làm việc trong các cơ quan nhà nước, Đảng, tổ chức xã hội và đơn vị kinh tế nhà nước Tất cả đều thuộc biên chế nhà nước và không phân biệt ai là cán bộ, công nhân, viên chức theo quan niệm truyền thống.
Theo Nghị định 92/2009/NĐ-CP, Chính phủ quy định chức danh và số lượng cán bộ, công chức ở cấp xã, phường, thị trấn cùng với các chế độ, chính sách áp dụng Các chức danh công chức cấp xã được nêu tại khoản 2, Điều 3 bao gồm: Trưởng Công an, Chỉ huy trưởng Quân sự, Văn phòng - thống kê, Địa chính - xây dựng - đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn) hoặc Địa chính - nông nghiệp - xây dựng và môi trường (đối với xã), Tài chính - kế toán, Tư pháp - hộ tịch, và Văn hóa - xã hội.
Theo Luật cán bộ, công chức năm 2008, công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng vào các chức danh chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, làm việc trong biên chế và nhận lương từ ngân sách nhà nước Các chức danh công chức cấp xã bao gồm nhiều vị trí khác nhau trong bộ máy chính quyền địa phương.
- Chỉ huy trưởng Quân sự;
Địa chính đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý xây dựng, đô thị và môi trường tại các phường, thị trấn, trong khi ở cấp xã, địa chính còn liên quan đến nông nghiệp Việc quản lý hiệu quả các lĩnh vực này không chỉ giúp cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân mà còn bảo vệ môi trường bền vững.
Việc quy định rõ ràng về công chức cấp xã trong các văn bản pháp luật là cần thiết và phù hợp với yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Cấp xã, là một trong bốn cấp chính quyền, nơi đông đảo nhân dân sinh sống và thực thi chính sách của Đảng cùng pháp luật của Nhà nước Công chức cấp xã thực hiện quyền hạn theo quy định pháp luật và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, nhân dân và cơ quan nhà nước cấp trên Đội ngũ công chức cấp xã đóng vai trò quan trọng trong phát triển địa phương và hệ thống chính trị.
1.2 Vai trò, đặc điểm của cán bộ, công chức cấp xã
1.2.1 Vai trò của cán bộ, công chức cấp xã
Xã là đơn vị hành chính cơ sở quan trọng nhất trong hệ thống quản lý, mặc dù ở cấp thấp nhất Cán bộ, công chức cấp xã đóng vai trò then chốt trong việc thực thi pháp luật và quản lý đời sống xã hội, thực hiện nhiệm vụ của Nhà nước Họ giữ gìn trật tự xã hội, ngăn chặn và xử lý vi phạm pháp luật, bảo vệ lợi ích của nhân dân, đồng thời điều hành các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội trong bộ máy nhà nước.