CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ THỰC THI CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH THOÁT NGHÈO BỀN VỮNG TRÊN ĐỊA BÀN CẤP HUYỆN
Quan niệm về nghèo và thoát nghèo bền vững
1.1.1 Quan niệm về thoát nghèo
Nghèo là một hiện tượng kinh tế xã hội toàn cầu, không chỉ xuất hiện ở các quốc gia kém phát triển mà còn ở cả các nước phát triển Tính chất và mức độ nghèo đói khác nhau tùy thuộc vào điều kiện tự nhiên, thể chế chính trị xã hội và tình hình kinh tế của mỗi quốc gia Mỗi quốc gia đều áp dụng các khái niệm và phương pháp đo lường khác nhau để xác định mức độ nghèo khổ.
Theo UNESCO, nghèo đói được định nghĩa là thiếu khả năng tối thiểu để tham gia hiệu quả vào các hoạt động xã hội Nghèo không chỉ là việc thiếu thốn về thực phẩm và trang phục, mà còn bao gồm việc không có cơ hội học tập, chăm sóc sức khỏe, đất đai để canh tác, hoặc nghề nghiệp để tự nuôi sống Ngoài ra, nghèo còn thể hiện sự thiếu an toàn, quyền lợi, và dễ bị loại trừ, bạo hành, sống trong điều kiện rủi ro, cùng với việc không tiếp cận được nước sạch và các công trình vệ sinh.
Tại Hội nghị chống đói nghèo khu vực châu Á-Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức ở Băng Cốc vào tháng 9 năm 1993, khái niệm nghèo được định nghĩa là tình trạng mà một bộ phận dân cư không được đáp ứng các nhu cầu cơ bản của con người Những nhu cầu này được xã hội công nhận tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế-xã hội và phong tục tập quán của địa phương.
Theo quan niệm của Việt Nam, nghèo được hiểu là tình trạng mà một bộ phận dân cư chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu tối thiểu cơ bản cho cuộc sống, bao gồm y tế, giáo dục, nhà ở, nhà vệ sinh, nước sạch, dịch vụ viễn thông và tiếp cận thông tin Những người sống trong tình trạng nghèo thường có mức sống thấp hơn mức trung bình của cộng đồng trên mọi phương diện.
Hộ nghèo ở Việt Nam được phân loại theo vùng miền Tại vùng nông thôn, hộ nghèo về thu nhập là những hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ 700.000 đồng trở xuống, hoặc có thu nhập từ 700.000 đồng đến 1.000.000 đồng nhưng thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản Trong khi đó, ở vùng thành thị, hộ nghèo thu nhập là những hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ 900.000 đồng trở xuống, hoặc có thu nhập từ 900.000 đồng đến 1.300.000 đồng và cũng thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường tương tự.
Hộ cận nghèo được xác định là hộ có thu nhập bình quân đầu người từ 700.000 đến 1.000.000 đồng/tháng ở nông thôn và từ 900.000 đến 1.300.000 đồng/tháng ở thành thị, cùng với việc thiếu hụt dưới 3 chỉ số đo lường tiếp cận các dịch vụ xã hội Trên toàn thế giới, mức nghèo khổ thường được xác định dựa trên thu nhập tối thiểu cần thiết để người dân có thể duy trì cuộc sống, bao gồm khả năng mua sắm các vật dụng cơ bản phục vụ cho ăn, mặc, ở và các nhu cầu thiết yếu khác theo giá hiện hành.
Phương pháp đo lường nghèo đơn chiều dựa vào thu nhập không đủ để phản ánh tình trạng nghèo thực tế của người dân, dẫn đến việc nhiều quốc gia chuyển sang đo lường nghèo đa chiều để xác định chính xác hơn đối tượng hộ nghèo Tại Việt Nam, việc đánh giá nghèo chủ yếu dựa vào thu nhập và chuẩn nghèo được xác định theo mức chi tiêu tối thiểu, nhưng mức chuẩn này hiện nay được coi là thấp so với thế giới Nhiều hộ dân thoát nghèo nhưng vẫn ở gần mức chuẩn nghèo, dẫn đến tỷ lệ hộ cận nghèo và tái nghèo cao Để có cái nhìn đầy đủ hơn về thực trạng nghèo, Việt Nam cần khắc phục tình trạng bỏ sót đối tượng nghèo và đảm bảo tính công bằng trong chính sách giảm nghèo Ngày 19 tháng 11 năm 2015, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều cho giai đoạn 2016-2020.
Hộ nghèo đa chiều không chỉ gặp khó khăn về thu nhập mà còn thiếu hụt trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản như y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh Có 10 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt, bao gồm giáo dục người lớn, giáo dục trẻ em, khám chữa bệnh, bảo hiểm y tế, nhà ở, nước sạch, hố xí, dịch vụ viễn thông và tài sản phục vụ tiếp cận thông tin Các chỉ số này được trình bày chi tiết trong Bảng 1 dưới đây.
Bảng 1.1: Các chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản
Chiều nghèo Chỉ số đo lường Mức độ thiếu hụt Cơ sở pháp lý
1) Giáo dục 1.1 Trình độ giáo dục của người lớn
Hộ gia đình có ít nhất một thành viên trong độ tuổi từ 15 đến dưới 30 tuổi (sinh từ năm 1989 trở về trước) không hoàn thành trung học cơ sở và hiện tại không tham gia học tập.
NQ 15/NQ-TW Một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020
Nghị quyết số 41/2000/QH (bổ sung bởi Nghị định số 88/2001/NĐ-CP)
Chiều nghèo Chỉ số đo lường Mức độ thiếu hụt Cơ sở pháp lý
1.2 Tình trạng đi học của trẻ em
Hộ gia đình có ít nhất 1 thành viên trong độ tuổi đi học (5 – dưới 15 tuổi) hiện không đi học
Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
NQ 15/NQ-TW Một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020
2.1 Tiếp cận các dịch vụ y tế
Hộ gia đình có người bị ốm đau nặng, không thể đi khám chữa bệnh, thường gặp khó khăn trong cuộc sống Tình trạng ốm đau này được xác định là bệnh hoặc chấn thương nghiêm trọng, yêu cầu người bệnh phải nằm một chỗ và cần có người chăm sóc tại giường Ngoài ra, họ cũng không thể tham gia vào các hoạt động bình thường, nghỉ việc hoặc học tập trong suốt 12 tháng qua.
Hộ gia đình có ít nhất 1 thành viên từ 6 tuổi trở lên hiện tại không có bảo hiểm y tế
NQ 15/NQ-TW Một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020
Chiều nghèo Chỉ số đo lường Mức độ thiếu hụt Cơ sở pháp lý
Hộ gia đình đang ở trong nhà thiếu kiên cố hoặc nhà đơn sơ
(Nhà ở chia thành 4 cấp độ: nhà kiên cố, bán kiên cố, nhà thiếu kiên cố, nhà đơn sơ)
NQ 15/NQ-TW Một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020
3.2 Diện tích nhà ở bình quân đầu người
Diện tích nhà ở bình quân đầu người của hộ gia đình nhỏ hơn 8m2
Quyết định 2127/QĐ-Ttg của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030
Hộ gia đình không được tiếp cận nguồn nước hợp vệ sinh
NQ 15/NQ-TW Một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020
4.2 Hố xí/nhà vệ sinh
Hộ gia đình không sử dụng hố xí/nhà tiêu hợp vệ sinh
NQ 15/NQ-TW Một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020
5.1 Sử dụng dịch vụ viễn thông
Hộ gia đình không có thành viên nào sử dụng thuê bao điện thoại và internet
NQ 15/NQ-TW Một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020
5.2 Tài sản phục vụ tiếp cận thông tin
Hộ gia đình không sở hữu các tài sản như tivi, đài, máy vi tính và không tiếp cận được hệ thống loa đài truyền thanh của xã hoặc thôn.
Luật Thông tin Truyền thông
NQ 15/NQ-TW Một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020
Nghèo đói trên thế giới xuất phát từ nhiều nguyên nhân như chiến tranh, thiên tai, rủi ro, thiếu thu nhập và việc làm ổn định, cũng như thiếu cơ hội học tập Tại Việt Nam, các yếu tố khách quan như điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, thường xuyên xảy ra thiên tai, hạn hán và bão lũ, đã góp phần làm gia tăng tình trạng nghèo đói Ngoài ra, sâu bệnh là mối đe dọa thường trực đối với nông dân, trong khi đất đai cằn cỗi, địa hình phức tạp và giao thông khó khăn cản trở việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm địa phương, dẫn đến nghèo đói tại các vùng và khu vực nhất định.
Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến đói nghèo là do một bộ phận dân cư thiếu kiến thức kinh doanh, thiếu vốn đầu tư, có gia đình đông con nhưng không có lao động, không có việc làm ổn định, dễ rơi vào tệ nạn xã hội, lười biếng trong lao động, thường xuyên ốm đau hoặc gặp tai nạn rủi ro.
Nguyên nhân thứ ba liên quan đến cơ chế chính sách, bao gồm sự không đồng bộ trong các chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các khu vực khó khăn Điều này thể hiện qua việc cải thiện sinh kế, nhân rộng mô hình sản xuất, khuyến khích sản xuất, hỗ trợ vay vốn ngân hàng, tổ chức tập huấn hướng dẫn sản xuất, cũng như các chính sách trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, giáo dục đào tạo, y tế, giải quyết đất đai, định canh định cư và kinh tế mới Hơn nữa, nguồn lực đầu tư hiện tại vẫn còn hạn chế, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của các khu vực này.
Việc xác định và phân loại hộ nghèo, cùng với việc phân tích nguyên nhân nghèo, là rất cần thiết để xây dựng chính sách giảm nghèo phù hợp Điều này đảm bảo an sinh xã hội và hoạch định chính sách phát triển kinh tế-xã hội bền vững cho từng giai đoạn Quan niệm về hộ thoát nghèo cũng cần được làm rõ để hỗ trợ hiệu quả cho các hộ gia đình trong quá trình cải thiện đời sống.
THỰC TRẠNG THỰC THI CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH THOÁT NGHÈO BỀN VỮNG TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN TÂY GIANG, TỈNH QUẢNG NAM
Khái quát điều kiện kinh tế-xã hội huyện Tây Giang
2.1.1 Điều kiện tự nhiên-kinh tế xã hội
Tây Giang là huyện miền núi thuộc tỉnh Quảng Nam, có 8/10 xã giáp biên giới với Lào, với tổng chiều dài đường biên khoảng 67 km Huyện nằm cách tỉnh lỵ một khoảng gần.
Nằm cách 200 km về hướng Tây Bắc, khu vực này có diện tích tự nhiên 91.368 ha, với địa hình đồi núi phức tạp và độ cao trung bình khoảng 600m Phía Đông giáp huyện Đông Giang, phía Tây giáp nước bạn Lào, phía Bắc giáp huyện Alưới (Thừa Thiên Huế) và phía Nam giáp huyện Nam Giang Đất lâm nghiệp chiếm diện tích lớn, trong khi đất nông nghiệp phân tán và nhỏ lẻ Khí hậu và thổ nhưỡng nơi đây rất phù hợp cho sự phát triển của các loại cây dược liệu quý bản địa như Sâm Ba kích và Đẳng sâm, với nhiệt độ trung bình dao động từ 12-29 độ C.
Huyện có 10 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 63 thôn, với 6 xã thuộc khu vực III, 3 xã thuộc khu vực II, và 1 xã thuộc khu vực I Đặc biệt, 39 thôn đặc biệt khó khăn tại 8/10 xã được hỗ trợ đầu tư thông qua Chương trình 135.
Huyện có tổng dân số 20.419 người, bao gồm 14 thành phần dân tộc, trong đó dân tộc Cơtu chiếm 92,96% với 18.981 người tính đến tháng 12/2019 Dân cư được tổ chức tập trung tại các khu vực quy hoạch mới.
Tây Giang là một trong những huyện nghèo nhất Việt Nam, với đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn và tỷ lệ hộ nghèo cao Trong những năm qua, Đảng, chính quyền và nhân dân huyện Tây Giang đã quyết tâm khắc phục khó khăn, huy động mọi nguồn lực của xã hội để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh, nâng cao đời sống người dân và thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội.
Với quyết tâm cao và tinh thần chủ động, UBND huyện Tây Giang đã triển khai hiệu quả các chủ trương, nhiệm vụ từ Trung ương và tỉnh, góp phần vào phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc phòng-an ninh trong năm 2019 Những nỗ lực này đã mang lại kết quả tích cực cho huyện.
Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản năm 2019 ước đạt 141.177 triệu đồng, theo giá so sánh năm 2010, tăng 14,75% so với năm 2018 và hoàn thành 106,70% chỉ tiêu Nghị quyết đã đề ra.
- Giá trị sản xuất công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp và xây dựng ước đạt 181.413 triệu đồng, tăng 13,69% so với năm 2018, đạt 103,33% chỉ tiêu Nghị quyết đề ra
- Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ năm 2019 ước đạt 184.881 triệu đồng, tăng 12,02% so với năm 2018, đạt 98,44% chỉ tiêu Nghị quyết đề ra
- Thu nhập bình quân đầu người năm 2019 là 22,35 triệu đồng, tăng 0,22% so với năm 2018, đạt 100,20% chỉ tiêu Nghị quyết đề ra
* Lĩnh ự N ng –Lâm- Thủy ản
- Tổng diện tích gieo trồng: 3.015,8 ha/2.976 ha, đạt 101,34% so với Nghị quyết HĐND năm 2019
- Tổng sản lượng lương thực có hạt 4.039,48 tấn/4.103,4 tấn, đạt 98,44% Nghị quyết HĐND năm 2019
Diện tích cây cao su được khai thác mủ đạt 397,82 ha, với sản lượng mủ khô thu hoạch là 182 tấn Tổng diện tích trồng mới dược liệu đạt 179,26 ha trên tổng 190 ha, tương ứng với 94,37% chỉ tiêu Nghị quyết HĐND năm 2019 Ngoài ra, diện tích cây ăn quả có múi được trồng mới và nhân rộng trong năm 2019 là 37,5 ha.
Toàn huyện hiện có 130 khu chăn nuôi tập trung, tăng 11 khu so với năm 2018 Tổng đàn gia súc đạt 9.976 con, tương đương 76,74% so với mục tiêu 13.000 con theo Nghị quyết HĐND năm 2019 Đặc biệt, tổng số gia cầm đạt 30.770 con, vượt 146,52% so với mục tiêu 21.000 con, tăng 9.540 con so với cùng kỳ năm trước.
Diện tích ao nuôi cá tại huyện đạt 49,45 ha, chủ yếu nuôi các loại cá như cá trắm, cá chép và cá rô phi Hầu hết các ao nuôi đều nhỏ lẻ và chưa có quy mô lớn, chủ yếu phục vụ nhu cầu tiêu thụ của các hộ gia đình.
Theo Nghị định số 156/2018/NĐ-CP ngày 16/11/2018 của Chính phủ, tổng diện tích rừng tự nhiên được đưa vào thực hiện chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng là 57.623,23 ha Đồng thời, tổng diện tích khoán bảo vệ rừng theo Nghị định 75/2015/NĐ-CP cũng được ghi nhận.
CP của Chính phủ là 917,95 ha Khoán bảo vệ rừng theo Quyết định số 886/QĐ- TTg của Chính phủ là 1.000 ha
Công tác quản lý và bảo vệ rừng được triển khai tích cực với 103 đợt tuần tra và truy quét, phát hiện 03 vụ phá rừng trái pháp luật và xử lý 02 vụ khai thác gỗ trái phép Ngoài ra, 12 đợt tuyên truyền đã được tổ chức trong cộng đồng, thu hút 1.926 người tham gia.
Trong năm 2019, tổng diện tích keo trồng mới ước đạt 654,3 ha, vượt chỉ tiêu Nghị quyết HĐND với tỷ lệ 130,86% Người dân đã khai thác keo trên diện tích khoảng 450 ha, với sản lượng đạt từ 50-55 tấn/ha Tỷ lệ che phủ rừng trong khu vực đạt 75%.
Theo Nghị quyết số 12 của HĐND tỉnh, huyện Tây Giang đã thực hiện bố trí, sắp xếp và ổn định dân cư cho 512 hộ tại 9 xã: Lăng, Bhalêê, Tr’hy, Avương, Anông, Atiêng, Axan, Dang, Ch’ơm Tổng kinh phí tỉnh phân bổ cho chương trình này là 23.500 triệu đồng.
- Hộ dân sử dụng nước hợp vệ sinh trên địa bàn huyện là 19.002/19.590 người, 4.660/4.804 hộ, đạt tỷ lệ 97%
* Lĩnh ự đầ tư, xây ựng
Trong năm 2019, tổng nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản đạt 280.290,85 triệu đồng, bao gồm 72.043,67 triệu đồng từ ngân sách Trung ương, 125.193,36 triệu đồng từ ngân sách tỉnh, 27.104,87 triệu đồng từ ngân sách huyện và 55.948,95 triệu đồng từ nguồn vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư Dự kiến, số vốn thực hiện giải ngân đạt 256.735,40 triệu đồng, tương đương 91,60% kế hoạch vốn.
* Lĩnh ực tài chính, ngân sách, tín dụng