NỘI DUNG
Tội hiếp dâm, theo Điều 111 của Bộ Luật hình sự Việt Nam năm 1999, được định nghĩa là hành vi sử dụng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ của nạn nhân để thực hiện hành vi giao cấu trái ý muốn Đây là một tội phạm nghiêm trọng, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và danh dự của con người.
1.1.2 Khái niệm “hiếp dâm trẻ em”
Hiếp dâm, hãm hiếp, cưỡng hiếp và các hành vi dở trò đồi bại là những hành vi sử dụng vũ lực, đe dọa hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ của nạn nhân để thực hiện giao cấu trái ý muốn của họ.
1.2.1 Cơ sở pháp lý về tội hiếp dâm trong pháp luật hình sự Việt Nam qua các thời kì
1.2.1.1 Cơ sở pháp lý về tội hiếp dâm trong giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành BLHS
Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Trong giai đoạn này, chính quyền non trẻ đối mặt với nhiều khó khăn như nền kinh tế xã hội lạc hậu, thiệt hại nặng nề do chiến tranh, tình hình tài chính cạn kiệt và rối ren từ kẻ thù bên ngoài Do đó, Nhà nước chưa đủ điều kiện để xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh Trước tình thế khẩn trương, xã hội cần có pháp luật, nhưng không thể ban hành kịp thời các văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là quy định về tội phạm hiếp dâm và HDTE Vì vậy, vào ngày 10/10/1945, Nhà nước đã khẩn trương ban hành các quy định cần thiết.
Cơ sở lý luận về tội hiếp dâm trẻ em theo quy định trong Luật hình sự Việt Nam năm 1999 ( sửa đổi Bổ sung năm 2009)
Khái niệm
Tội hiếp dâm, theo Điều 111 của Bộ Luật Hình sự Việt Nam năm 1999, được định nghĩa là hành vi sử dụng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ của nạn nhân để thực hiện giao cấu trái với ý muốn của họ Đây là một tội phạm nghiêm trọng, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và danh dự của con người.
1.1.2 Khái niệm “hiếp dâm trẻ em”
Hiếp dâm, hãm hiếp, cưỡng hiếp và các hành vi dở trò đồi bại là những hành vi sử dụng vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực, hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ của nạn nhân để thực hiện giao cấu trái ý muốn của họ.
Cơ sở pháp lý
1.2.1 Cơ sở pháp lý về tội hiếp dâm trong pháp luật hình sự Việt Nam qua các thời kì
1.2.1.1 Cơ sở pháp lý về tội hiếp dâm trong giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành BLHS
Vào ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Trong giai đoạn này, chính quyền non trẻ đối mặt với nhiều khó khăn, bao gồm nền kinh tế xã hội lạc hậu do chiến tranh tàn phá, tình hình tài chính cạn kiệt và sự hỗn loạn từ kẻ thù bên ngoài Do đó, nhà nước chưa đủ điều kiện để xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh Trước tình thế khẩn cấp, xã hội cần có pháp luật nhưng không thể ban hành kịp thời các văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là quy định về tội phạm hiếp dâm Vì vậy, vào ngày 10/10/1945, Nhà nước đã ban hành Sắc lệnh số 47-SL, cho phép tạm thời giữ lại các luật lệ cũ, bao gồm Bộ “Luật hình An Nam”, Bộ “Hoàng Việt hình luật” và Bộ “Hình luật pháp tu chính”, với điều kiện không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể Dân chủ Cộng hòa.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, các tòa án vẫn áp dụng Luật hình cũ Tuy nhiên, sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, miền Bắc hoàn toàn giải phóng và bắt đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong khi miền Nam tiếp tục kháng chiến chống đế quốc Mỹ Điều này đã dẫn đến sự thay đổi mạnh mẽ về chính trị, xã hội, kinh tế và văn hóa ở miền Bắc, khiến các luật lệ cũ không còn phù hợp Từ năm 1955, toàn bộ các luật cũ không còn được áp dụng và các tòa án bắt đầu xử theo án lệ, theo đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước Đến nay, Nhà nước vẫn chưa ban hành văn bản pháp luật hình sự mới quy định về tội hiếp dâm nói chung và hiếp dâm trẻ em nói riêng.
Trước tình hình gia tăng tội phạm hiếp dâm, đặc biệt là hiếp dâm trẻ em, và sự thiếu thốn quy định về tội này, vào ngày 15/6/1960, Tòa án nhân dân tối cao đã ra chỉ thị số 1024 nhằm hướng dẫn xử lý tội phạm hiếp dâm Chỉ thị này được ban hành để khắc phục khuynh hướng coi nhẹ tính chất nghiêm trọng của tội phạm, đặc biệt là đối với những vụ hiếp dâm có nạn nhân là trẻ em.
Để đảm bảo các quy định pháp luật được đầy đủ và toàn diện, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc xét xử thực tiễn, vào năm 1967, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành bản tổng kết số 329/HS2 ngày 11/5/1967 Bản hướng dẫn này nhằm chỉ đạo đường lối xét xử đối với tội hiếp dâm trẻ em và các tội phạm khác liên quan đến xâm phạm tình dục, dựa trên kinh nghiệm thực tiễn xét xử.
Bản tổng kết này đề cập đến bốn hình thức phạm tội nghiêm trọng, bao gồm hiếp dâm (có cả hiếp dâm trẻ em), cưỡng dâm (bao gồm cưỡng dâm trẻ em), giao cấu với người dưới 16 tuổi, và dâm ô (trong đó có dâm ô với trẻ em).
Hiếp dâm trẻ em là một tội phạm nghiêm trọng thuộc nhóm tội xâm phạm tình dục trẻ em, và được coi là một hình thức hiếp dâm.
+Các đặc điểm riêng của hành vi hiếp dâm trẻ em cũng được nhấn mạnh ngay trong phần khái niệm của tội hiếp dâm.
Bản tổng kết hướng dẫn cách định tội danh, phân biệt hiếp dâm trẻ em với giao cấu với người dưới 16 tuổi Cụ thể, hành vi giao cấu với trẻ dưới 13 tuổi, bất kể có sự đồng thuận hay không, đều được coi là hiếp dâm do trẻ chưa đủ khả năng tự vệ và biểu lộ ý chí đúng đắn Đối với trẻ từ 13 đến 14 tuổi, trong một số trường hợp đặc biệt, nếu trẻ đã dậy thì và thực sự đồng thuận, cần xem xét mọi tình tiết của vụ án (như tính tình, thân hình, thái độ) để xác định có phải là hiếp dâm trẻ em hay chỉ là giao cấu với người dưới 16 tuổi.
Bản tổng kết 329-HS2 đã nêu rõ đường lối xử lý nghiêm khắc đối với hành vi xâm phạm tình dục trẻ em, đặc biệt là hiếp dâm trẻ em Các trường hợp cần xử nặng bao gồm hiếp dâm người dưới 18 tuổi, hiếp dâm người thân, hiếp dâm nhiều người, và hiếp dâm với động cơ đê hèn Ngược lại, những trường hợp phạm tội chưa đạt, tác hại hạn chế, hoặc bị cáo còn trẻ tuổi, có tình tiết giảm nhẹ như có cống hiến và thái độ hối cải sẽ được xem xét xử nhẹ hơn.
Bản tổng kết 329-HS2 ngày 11/5/1967 có vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn công tác xét xử các loại tội phạm liên quan đến tình dục, nhằm nâng cao hiệu quả xử lý và tuyên truyền, phổ biến pháp luật để ngăn ngừa tội phạm Mặc dù pháp luật vẫn đang trong quá trình hoàn thiện, tài liệu này đã được áp dụng cho đến khi Bộ luật Hình sự 1985 ra đời và có hiệu lực.
Trước khi BLHS năm 1985 có hiệu lực, miền Nam đã ban hành nhiều quy định pháp luật hình sự, trong đó có các điều khoản liên quan đến hành vi hiếp dâm, đặc biệt là đối với vị thành niên và trẻ em.
Bộ Hình Luật ngày 20/12/1972 do Chính quyền Sài Gòn ban hành là một văn bản quan trọng, quy định nhiều điều khoản liên quan đến việc trừng trị các tội xâm phạm tình dục, đặc biệt là các tội xâm phạm tình dục trẻ em Cụ thể, các Điều 355 và 356 của Bộ Hình Luật quy định rằng kẻ hiếp dâm vị thành niên dưới 15 tuổi sẽ phải chịu hình phạt khổ sai hữu hạn.
Sau khi Miền Nam hoàn toàn giải phóng, Hội đồng Chính phủ lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã ban hành Sắc luật 03/SL ngày 15/3/1976, quy định các tội phạm và hình phạt để xử lý các hành vi xâm phạm chế độ chính trị, kinh tế, xã hội, tài sản công cộng và quyền lợi của công dân Đặc biệt, Điều 5 quy định về tội xâm phạm đến thân thể và nhân phẩm của công dân, trong đó nêu rõ hình phạt đối với tội hiếp dâm vị thành niên là từ 5 đến 7 năm tù, và trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, mức án có thể lên tới 20 năm, chung thân hoặc tử hình Mức hình phạt này thể hiện sự nghiêm khắc đối với hành vi hiếp dâm vị thành niên và trẻ em.
Để thực hiện Nghị quyết 76/CP của Hội đồng chính phủ Việt Nam ngày 6/7/1977, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Chỉ thị số 54/TANDTC nhằm hướng dẫn việc thi hành pháp luật thống nhất trên toàn quốc, trong đó nhấn mạnh việc áp dụng Điều 5 của Sắc luật 03/SL Sắc luật 03/SL đã được sử dụng cho đến khi Bộ luật Hình sự năm 1985 có hiệu lực.
Trong giai đoạn này, pháp luật về tội hiếp dâm, bao gồm cả hiếp dâm trẻ em, còn thiếu sót và chủ yếu được xét xử dựa trên án lệ cùng hướng dẫn từ Tòa án nhân dân tối cao Trước khi Bộ luật Hình sự ra đời, quy định về tội hiếp dâm chỉ tồn tại dưới hình thức văn bản không phải luật.
Giá trị pháp lý của các văn bản liên quan đến tội hiếp dâm trẻ em hiện còn thấp, với quy định chưa cụ thể và rõ ràng, dẫn đến việc áp dụng không thống nhất và gây khó khăn trong quá trình xét xử Điều này ảnh hưởng đến chất lượng xét xử và hiệu quả trong cuộc đấu tranh chống tội phạm này Mặc dù bản tổng kết 329-HS2 ngày 11/5/1967 đã đề cập đến hành vi giao cấu với trẻ em dưới 13 tuổi và từ 13 đến 14 tuổi, nhưng tội hiếp dâm trẻ em vẫn chưa được quy định thành một tội danh độc lập Hình phạt cho tội hiếp dâm trẻ em cũng không được xác định trong một khung cụ thể mà phải dựa vào các tình tiết quy định tại Khoản 2 phần B về hình phạt của tội hiếp dâm.
Dấu hiệu pháp lý về tội Hiếp dâm trẻ em quy định trong Luật hình sự năm 1999 ( sửa đổi bổ sung năm 2009)
1.3.1 Chủ thể của tội hiếp dâm trẻ em
Luật Hình sự xác định rằng chỉ có con người cụ thể mới có thể là chủ thể của tội phạm, trong đó bao gồm cả tội hiếp dâm trẻ em Quan niệm này phù hợp với nguyên tắc có lỗi và nguyên tắc chịu trách nhiệm cá nhân trong Luật Hình sự, đồng thời đáp ứng mục đích giáo dục và cải tạo khi áp dụng các biện pháp trách nhiệm hình sự.
Chủ thể của tội phạm phải là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, đáp ứng hai điều kiện quan trọng: năng lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi theo quy định của pháp luật Theo giáo trình Luật hình sự Việt Nam, chủ thể của tội phạm được định nghĩa là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi theo luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể.
Hành vi hiếp dâm trẻ em là một tội phạm nghiêm trọng, mặc dù người phạm tội nhận thức được tính chất nguy hiểm của hành vi này nhưng vẫn lựa chọn thực hiện Bộ luật Hình sự năm 1999 không quy định cụ thể về năng lực trách nhiệm hình sự (TNHS), chỉ xác định độ tuổi chịu TNHS theo Điều 12 và các trường hợp mất năng lực TNHS theo Điều 13 Do đó, người có năng lực TNHS được hiểu là người đã đạt độ tuổi chịu TNHS và không thuộc trường hợp mất năng lực Việc kiểm tra yếu tố chủ thể của tội phạm đã được đơn giản hóa, thường chỉ cần xác định độ tuổi, và chỉ trong trường hợp nghi ngờ mới cần kiểm tra tình trạng không có năng lực TNHS.
Để chịu trách nhiệm hình sự (TNHS), một cá nhân không chỉ cần có năng lực TNHS mà còn phải đạt độ tuổi nhất định theo quy định của pháp luật.
Theo Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 1999, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi loại tội phạm Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Theo Khoản 3 Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 1999, tội phạm rất nghiêm trọng là những hành vi gây nguy hại lớn cho xã hội, với mức án tối đa lên đến 15 năm tù Trong khi đó, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có mức án cao hơn 15 năm, có thể là tù chung thân hoặc tử hình So với quy định tại Điều 112 Bộ luật Hình sự năm 1999, Khoản 1 thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng, còn các Khoản 2, 3 và 4 thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng Do đó, để chịu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm trẻ em, đối tượng phải từ đủ 14 tuổi trở lên.
Điều 112 Bộ luật Hình sự năm 1999 yêu cầu chủ thể của tội hiếp dâm trẻ em phải có dấu hiệu đặc biệt liên quan đến giới tính.
Bản tổng kết số 329/HS2 ngày 11/5/1967 được xem như một tài liệu quan trọng trong việc tổng hợp kinh nghiệm xét xử, đặc biệt trong lĩnh vực tội hiếp dâm và tội hiếp dâm trẻ em Đến nay, văn bản này vẫn được các nhà khoa học pháp lý và luật sư sử dụng như một hướng dẫn khoa học cho nghiên cứu, xây dựng và xét xử các vụ án liên quan Theo bản tổng kết, khái niệm giao cấu được định nghĩa rõ ràng, góp phần quan trọng trong việc áp dụng pháp luật.
Giao cấu được định nghĩa là hành vi cọ sát trực tiếp dương vật vào bộ phận sinh dục của người phụ nữ, từ môi lớn trở vào, với ý thức ấn vào trong Hành vi này không phụ thuộc vào độ sâu của sự xâm nhập hay có xuất tinh hay không, mà vẫn được coi là tội hiếp dâm Khi đó, nhân phẩm và danh dự của người phụ nữ đã bị xâm phạm nghiêm trọng.
Hành vi giao cấu thường được coi là do nam giới thực hiện đối với nữ giới, nhưng phụ nữ cũng có thể liên quan đến tội hiếp dâm trẻ em Cụ thể, họ có thể đóng vai trò là người xúi giục, giúp sức hoặc tổ chức Một ví dụ điển hình là vụ án của Nguyễn Hồng Quyên (35 tuổi) tại Cần Thơ, người đã phạm tội hiếp dâm trẻ em với vai trò đồng phạm, hỗ trợ chồng là Nguyễn Văn Tài (48 tuổi) trong việc hiếp dâm một bé gái 8 tuổi Vào ngày 11/9/2009, Tài đã gọi bé gái vào phòng mình để thực hiện hành vi giao cấu, trong khi Quyên chứng kiến nhưng không ngăn cản mà còn ép bé phải để cho chồng mình thực hiện hành vi đó.
Khi phân tích dấu hiệu pháp lý của Tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112 BLHS), cần chú ý phân biệt tội phạm này với một số tội phạm khác có nhiều điểm tương đồng như Tội cưỡng dâm trẻ em, Tội dâm ô trẻ em và Tội giao cấu với trẻ em Sự khác nhau cơ bản giữa các tội phạm này được thể hiện rõ trong bảng so sánh.
Tội hiếp dâm trẻ em (Điều
Tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 114 BLHS)
Tội giao cấu với trẻ em (Điều 116
Tội dâm ô đối với trẻ em (Điều 115
Hành vi khách quan của tội phạm
Sử dụng bạo lực, đe dọa bạo lực, lợi dụng tình trạng không thể tự vệ của nạn nhân hoặc áp dụng các thủ đoạn khác để thao túng nạn nhân là những hành vi nghiêm trọng cần được lên án.
Lợi dụng sự phụ thuộc của người khác vào mình hoặc người khác đang ở trong tình trạng quẫn bách ép họ phải giao cấu
Giao cấu với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới
Sử dụng mọi thủ đoạn dâm dục để thỏa mãn dục vọng mà không có sự đồng ý của nạn nhân trong hành vi giao cấu là một hành động vi phạm nghiêm trọng.
Trái ý muốn của nạn nhân
Nạn nhân miễn cưỡng chấp nhận giao cấu
Chủ thể của tội phạm
Có thể là nam giới hoặc nữ giới nhưng chủ thể thực hành chỉ có thể là nam giới, đủ tuổi chịu TNHS (≥14 tuổi)
Chủ thể thực hành có thể là nam giới hoặc nữ giới, đủ tuổi chịu TNHS (≥14 tuổi)
Chủ thể thực hành có thể là nam giới hoặc nữ giới và phải là người đã thành niên (≥18 tuổi)
Chủ thể thực hành tội phạm có thể là nam hoặc nữ và phải là người đã đủ 18 tuổi trở lên Đối tượng tác động của tội phạm này bao gồm những người có liên quan đến hành vi vi phạm pháp luật.
Trẻ em gái Trẻ em không phân biệt nam nữ
Trẻ em không phân biệt nam nữ
Trẻ em không phân biệt nam nữ
1.3.2 Khách thể của tội hiếp dâm trẻ em
Khách thể của tội phạm được định nghĩa là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và có thể bị xâm hại Theo Luật hình sự Việt Nam, những quan hệ xã hội này được xác định là khách thể bảo vệ, cụ thể được nêu rõ trong Điều 8 của Bộ luật Hình sự.
Thực trạng tội Hiếp dâm trẻ em tại Việt Nam hiện nay
Báo cáo từ 63 tỉnh, thành phố cho thấy trung bình mỗi năm cả nước xảy ra khoảng 1.000 vụ xâm hại tình dục, với số vụ năm sau thường cao hơn năm trước Đặc biệt, trẻ em bị hiếp dâm chiếm đến 65% tổng số vụ việc Thông tin này được công bố tại buổi họp báo về thực trạng và giải pháp phòng chống bạo lực, xâm hại trẻ em, cũng như chương trình hành động vì trẻ em năm 2012.
Theo thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, hiện cả nước có hơn 25 triệu trẻ em, chiếm 29% tổng dân số, trong đó hơn 1,4 triệu trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và hơn 1,2 triệu trẻ em bị khuyết tật Tuy nhiên, tình trạng ngược đãi, xâm hại, bạo lực và bóc lột trẻ em đang diễn biến phức tạp, trở thành vấn đề bức xúc cho xã hội Đặc biệt, các vụ xâm hại trẻ em ngày càng nghiêm trọng, với những hình thức như hiếp dâm tập thể, hiếp dâm trẻ em dưới 5 tuổi và thầy giáo xâm hại học sinh Số trẻ em bị xâm hại tình dục nhiều lần chiếm 28,8%, trong khi đó, tỷ lệ trẻ em bỏ học, sống lang thang và bị xâm hại tình dục là 11,6%.
Nạn bắt cóc trẻ em cũng nhức nhối không kém khi mỗi năm có đến gần
Trong thời gian gần đây, khoảng 100 trẻ em đã bị bắt cóc để bán sang Trung Quốc, chủ yếu tập trung tại các tỉnh như Hà Giang, Điện Biên và Lai Châu Tình trạng trẻ em gái bị dụ dỗ và lừa bán sang Campuchia, đặc biệt ở các tỉnh biên giới như An Giang và Tây Ninh, cũng đang diễn ra phổ biến, khiến vấn đề buôn bán người trở nên nghiêm trọng hơn.
Tình trạng bạo hành trẻ em vẫn diễn ra phổ biến tại Việt Nam, với gần 4.000 vụ bạo lực trẻ em và khoảng 100 trẻ em bị giết trong giai đoạn 2008-2010 Đáng chú ý, một số trẻ em bị chính cha mẹ, cô giáo hoặc người thân xâm hại và bạo lực.
Bạo lực học đường đang trở thành một vấn đề nghiêm trọng, gây lo lắng cho phụ huynh và nhà trường Theo báo cáo của Bộ GD-ĐT, từ năm học 2009-2010 đến nay, cả nước đã ghi nhận hơn 1.600 vụ học sinh đánh nhau, nhiều vụ có tính chất nguy hiểm, gây thương tích và thậm chí tử vong Một số nữ sinh đã tổ chức đánh nhau và quay clip phát tán trên mạng, dẫn đến tình trạng học sinh bỏ học và hình thành các băng nhóm sử dụng hung khí, gây ra nhiều vụ án nghiêm trọng Những bài báo về hành vi này ngày càng nhiều, cho thấy tính chất nghiêm trọng của vấn đề Trước vành móng ngựa, các bị cáo thường đưa ra lý do biện minh cho hành động của mình nhằm giảm nhẹ hình phạt, nhưng cuối cùng họ vẫn phải nhận án phạt thích đáng.
Giở trò đồi bại với cháu bé hàng xóm
Tại phiên tòa xét xử bị cáo Nguyễn Khắc Đủ, sinh năm 1978, ở thôn Ngăm Mạc, xã Lãng Ngâm, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã tuyên phạt bị cáo 12 năm tù về tội "hiếp dâm trẻ em".
Vào khoảng 13h ngày 12/3/2012, Nguyễn Khắc Đủ, một thợ sửa chữa xe, đã tiếp nhận chiếc xe của cháu Nguyễn Thị H (sinh năm 2002) để vá săm Sau khi hoàn thành việc sửa chữa, Đủ đã có ý định cưỡng hiếp cháu H bằng cách trò chuyện để tiếp cận gần hơn và có hành động sờ vào người cháu.
Nguyễn Khắc Đủ đã lừa cháu H bằng cách yêu cầu cháu chờ để kiểm tra vết vá của xe, mặc dù cháu H cảm thấy sợ hãi Lúc này, vợ Đủ đang đi cấy, con gái đi học, chỉ còn lại cậu con trai nhỏ đang xem tivi, khiến bản năng xấu xa trong Đủ trỗi dậy Hắn tìm mọi cách để dụ cháu H xuống nhà ngang của gia đình mình.
Nguyễn Khắc Đủ đã khống chế cháu H để thực hiện hành vi hiếp dâm, mặc cho cháu H chống cự quyết liệt Trong lúc đang thực hiện hành vi đồi bại, Đủ nghe thấy con trai ở nhà trên gọi mình, lo sợ bị phát hiện, hắn vội buông cháu H ra, rồi đưa cho cháu 2.000 đồng kèm theo lời đe dọa không được nói chuyện này cho ai biết.
Khi cháu H về nhà, bố mẹ phát hiện con có biểu hiện bất thường và hoảng sợ Sau khi được hỏi, cháu H đã kể lại sự việc đã xảy ra Nguyễn Khắc Đủ đã thừa nhận toàn bộ hành vi hiếp dâm đối với cháu H Án phạt dành cho kẻ xâm hại trẻ em đang được xem xét.
Ngày 23/8, Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng đã mở phiên tòa xét xử sơ thẩm đối với bị cáo Ngô Tuấn Anh (SN 1993), cư trú tại thị trấn Mỹ Xuyên, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng, về tội "hiếp dâm trẻ em".
Cuối tháng 4/2012, Ngô Tuấn Anh đã đưa cháu Lê Thị Yến N (SN 1999) đi chơi tại tỉnh Bạc Liêu Khoảng 23h cùng ngày, Tuấn Anh chở Yến N về nhà ông ngoại ở huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng để ngủ qua đêm, và tại đây, cả hai đã có hành vi quan hệ tình dục.
Ngày hôm sau, mẹ của Yến N đến đón con gái về nhà và phát hiện sự việc bất thường, vì vậy đã trình báo với cơ quan công an Ngô Tuấn Anh đã có mặt tại Công an huyện để làm rõ vụ việc.
Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng, đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình Theo lời khai của Tuấn Anh, đây không phải là lần đầu tiên anh thực hiện hành vi giao cấu với cháu Yến N., mà trước đó anh đã thực hiện hành vi này hai lần và cháu Yến N không phản đối.
Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng đã tuyên án 13 năm tù giam đối với bị cáo Ngô Tuấn Anh vì tội "hiếp dâm trẻ em" Ngoài hình phạt tù, bị cáo còn phải bồi thường 30 triệu đồng cho gia đình nạn nhân để bù đắp tổn thất tinh thần.
Nguyên nhân dẫn đến tội Hiếp dâm trẻ em hiện nay tại Việt Nam
2.2.1 Nguyên nhân gia đình và nhận thức của giới trẻ
Cục trưởng Chăm Sóc Bảo Vệ trẻ em Nguyễn Hải Hữu cho rằng sự phân hoá giàu nghèo là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng trẻ em bị bỏ rơi và xao nhãng Khó khăn về kinh tế trong một số gia đình đã tạo điều kiện cho các hành vi ngược đãi, xâm hại tình dục, bạo lực và bóc lột trẻ em, cũng như việc trẻ em vi phạm pháp luật.
Như nguồn tin của Vietnamnet:
Theo tiến sĩ Kim Quý, nhiều hành vi trước đây bị coi là vi phạm đạo đức nghiêm trọng hiện nay đã bị xem nhẹ Chẳng hạn, việc mang thai ngoài ý muốn từng bị xem là điều tồi tệ, nhưng giờ đây mọi người có cái nhìn thoáng hơn Quan niệm về quan hệ tình dục như nhu cầu thiết yếu hàng ngày đang được nhiều bạn trẻ ủng hộ.
Thế giới ngày càng phẳng, với nhiều trào lưu du nhập, nhưng nếu không biết tiếp thu có chọn lọc, có thể dẫn đến những hệ lụy khó lường Một ví dụ điển hình là hiện tượng hội đổi vợ mới đây tại Sài Gòn.
TS Kim nhấn mạnh rằng nhiều khi báo chí chỉ phản ánh hiện tượng theo cách một chiều mà không có sự phân tích sâu sắc, điều này có thể tạo ra hiệu ứng ngược, khiến cho giới trẻ dễ dàng học theo những thông điệp không chính xác.
Số vụ hiếp dâm trẻ em ngày càng gia tăng, trong đó nhiều trường hợp có sự chủ động từ cả hai phía Theo TS Kim Quý, độ tuổi dậy thì ở trẻ em đang ngày càng bị rút ngắn Trước đây, độ tuổi dậy thì phổ biến là từ 14-15 tuổi đối với bé gái và 15-16 tuổi đối với bé trai, nhưng hiện nay đã giảm xuống chỉ còn 11 tuổi.
Dạy thì sớm xảy ra do nhiều yếu tố, bao gồm chế độ ăn uống đầy đủ và ảnh hưởng từ môi trường xã hội Thời kỳ dạy thì không chỉ đơn thuần là sự phát triển thể chất mà còn gắn liền với nhu cầu tìm hiểu và thích người khác giới, thể hiện qua sự quan tâm và tình cảm yêu đương.
Nhu cầu quan hệ tình dục đang gia tăng, nhưng nhiều bạn trẻ chưa phát triển đầy đủ về tâm lý xã hội và kinh nghiệm sống Điều này dẫn đến sự không đồng nhất giữa sự phát triển thể chất và tâm lý xã hội của họ.
Các em thiếu kỹ năng, thiếu kiến thức nên ham muốn không được khống chế và không chiến thắng được bản năng
Ở độ tuổi dậy thì, các em thường tò mò và muốn khám phá mọi thứ xung quanh Việc tiếp nhận thông tin từ sách, báo và truyện tranh sẽ kích thích sự tò mò này, đồng thời khơi dậy bản năng khám phá của các em.
Nếu cha mẹ thiếu kiểm soát và không có kiến thức về sức khỏe sinh sản, cùng với việc nhà trường không cung cấp thông tin về giới tính, thì trẻ em sẽ gặp khó khăn trong việc tự bảo vệ bản thân, dẫn đến nguy cơ quan hệ tình dục sớm.
Trong quá trình tư vấn, TS Kim Quý nhận thấy nhiều em gọi điện đến trung tâm để hỏi về những vấn đề rất ngây ngô, đặc biệt là ở độ tuổi từ 12 trở lên.
Nhiều em gái 12 tuổi đặt câu hỏi về khả năng mang thai khi quan hệ với bạn trai cùng lớp, như “Có thai không?” hay “Giờ phải làm thế nào?” Điều này không chỉ xảy ra ở trẻ em thành phố, mà còn nhiều em nhỏ ở nông thôn cũng tìm kiếm thông tin về những vấn đề tương tự.
Theo TS Kim Quý, chương trình giáo dục cho lứa tuổi 10-13 hiện nay hầu như chưa đề cập đến các vấn đề sức khỏe sinh sản, chỉ có những bài học mang tính chất hình thức như phân biệt các bộ phận trên cơ thể mà chưa đi sâu vào nội dung thực tiễn và cần thiết.
Trong khi đó, nhiều em đã dậy thì từ trước đó Nói đúng hơn chương trình bị lạc hậu so với thực tế ”
Xã hội ngày càng phát triển kéo theo những luồng sống văn hóa khác nhau, tốt cũng có và xấu cũng không ít
Sự biến đổi giá trị sống và lối sống thực dụng, cùng với việc quá coi trọng giá trị đồng tiền, đã dẫn đến các sang chấn tâm lý và hành vi lệch chuẩn ở cả trẻ em và người lớn Trẻ em hiện đang đối mặt với nguy cơ cao bị bỏ rơi, đi lang thang kiếm sống, vi phạm pháp luật, và trở thành nạn nhân của bạo lực, xâm hại Bên cạnh đó, các dịch vụ xã hội, đặc biệt là dịch vụ bảo vệ trẻ em, chưa đáp ứng kịp thời với những thay đổi nhanh chóng của xã hội.
Theo ông Trần Đức Châm, tình trạng phạm tội hiếp dâm trẻ em là một thực trạng đau lòng và cần có biện pháp ngăn ngừa, xử lý kịp thời Nguyên nhân dẫn đến hành vi xâm hại tình dục (XHTD) có thể liên quan đến ảnh hưởng của văn hóa phẩm đồi truỵ Cả người lớn và trẻ em khi tiếp xúc với phim ảnh, tài liệu khiêu dâm đều có phản ứng sinh lý rõ rệt, dẫn đến tăng nhu cầu và ham muốn giải quyết sinh lý Nhiều bé gái khi xem các cảnh tình cảm trong phim có thể phát sinh ham muốn, dẫn đến hành vi tự thoả mãn Việc tiếp xúc với phim ảnh tình cảm lãng mạn và băng hình khiêu dâm là những yếu tố làm gia tăng sự khơi dậy tình dục.
Hành vi hiếp dâm đang trở thành một hiện tượng xã hội đáng báo động, theo TS tâm lý Nguyễn Thị Kim Quý Bà cho rằng xã hội hiện nay đang phải đối mặt với một vấn đề nghiêm trọng, khi tình trạng suy đồi đạo đức diễn ra phổ biến.
Một số giải pháp, phương hướng nhằm ngăn chặn, hạn chế tội hiếp dâm trẻ em tại Việt Nam
Hình phạt của pháp luật ta đối với tội phạm này hết sức nghiêm khắc
Hình phạt là biện pháp cứng rắn nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền lợi của người phạm tội, được quy định trong Bộ luật Hình sự và do tòa án quyết định (Điều 26 BLHS năm 1999) Theo Điều 112, ba hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt của Luật hình sự bao gồm tù có thời hạn, tù chung thân và tử hình Ngoài ra, còn có hình phạt bổ sung áp dụng cho những người thực hiện hành vi phạm tội hiếp dâm trẻ em.
Tử hình là hình phạt nghiêm khắc nhất, chủ yếu nhằm mục đích trừng trị Hình phạt này thể hiện tính nghiêm khắc cao nhất qua việc loại bỏ vĩnh viễn người phạm tội khỏi cộng đồng xã hội, bằng cách tước đoạt quyền thiêng liêng nhất của họ - quyền được sống.
Hình phạt tử hình được ghi nhận trong khoản 3, khoản 4 Điều 112 BLHS năm
Luật hình sự năm 1999 và các sửa đổi, bổ sung năm 2009 đã giữ nguyên hình phạt tử hình đối với tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112 BLHS), trong khi bỏ hình phạt nghiêm khắc nhất đối với tội hiếp dâm người lớn (Điều 111 BLHS) Quy định này hoàn toàn hợp lý vì hành vi hiếp dâm trẻ em có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng không thể lường trước Trong thực tiễn xét xử, hình phạt tử hình vẫn được áp dụng đối với những vụ hiếp dâm trẻ em có mức độ nguy hiểm cao cho xã hội Việc quy định hình phạt tử hình là cần thiết nhằm trừng trị kẻ phạm tội cũng như răn đe, phòng ngừa tình trạng phạm tội gia tăng.
Hình phạt tù có thời hạn là một hình thức xử lý nghiêm khắc theo Luật hình sự, buộc người bị kết án phải cách ly khỏi xã hội trong một khoảng thời gian nhất định để học tập, lao động và cải tạo Trong thời gian này, họ bị hạn chế tự do tại trại giam và phải tuân theo các nội quy, quy chế của nơi giam giữ Mục đích của hình phạt này không chỉ là trừng trị mà còn nhằm cách ly người phạm tội khỏi xã hội, ngăn chặn khả năng tái phạm Do đó, hình phạt tù thường được áp dụng cho hầu hết các loại tội phạm, bao gồm cả tội hiếp dâm trẻ em.
Tù chung thân là một hình phạt nghiêm khắc, chỉ sau hình phạt tử hình, với bản chất tương đồng với hình phạt tù có thời hạn Người bị kết án sẽ bị giam giữ tại các trại giam, cách ly khỏi xã hội và phải cải tạo theo các quy chế học tập, lao động Tuy nhiên, mức độ nghiêm khắc của tù chung thân thể hiện ở việc thời gian giam giữ là suốt đời, không có thời hạn Hình phạt này thường áp dụng cho những người phạm tội hiếp dâm trẻ em, do tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi mà họ đã gây ra cho xã hội, không thể chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn nhưng cũng chưa đủ để áp dụng hình phạt tử hình.
Hành vi hiếp dâm trẻ em thường dẫn đến hậu quả nghiêm trọng, bao gồm cả cái chết của nạn nhân Nhiều yếu tố có thể làm tăng tính chất nghiêm trọng của tội phạm, như phương pháp thực hiện tội ác quá tàn bạo hoặc có hệ thống, cũng như nhân thân xấu của người phạm tội.
Hình phạt bổ sung được áp dụng cho người phạm tội nhằm tăng cường hiệu lực và hiệu quả của hình phạt chính đã được đưa ra Mục đích chủ yếu của hình phạt bổ sung là để phòng ngừa người bị kết án tái phạm tội.
Khoản 5 Điều 112 BLHS năm 1999 quy định hình phạt bổ sung đối với người phạm tội hiếp dâm trẻ em, bao gồm việc cấm đảm nhiệm chức vụ, hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một đến năm năm Hình phạt này được áp dụng nhằm loại bỏ môi trường và điều kiện thuận lợi cho người bị kết án có thể tái phạm, đặc biệt là trong các trường hợp liên quan đến trẻ em Ví dụ, những người giữ chức vụ như hiệu trưởng, hiệu phó hoặc các công việc trong trường học, tổ chức bảo vệ trẻ em sẽ bị cấm Ngoài ra, các nghề nghiệp như giáo viên, bác sĩ, y tá trong các viện dành cho trẻ em cũng nằm trong diện bị xử lý Đây là một điểm mới so với quy định trước đây về tội hiếp dâm trẻ em trong Bộ luật hình sự.
1985, nhằm tăng tính hiệu quả của hình phạt đối với người phạm tội, ngăn ngừa việc họ phạm tội lại.
Hình phạt bổ sung nhằm mục đích ngăn ngừa và triệt tiêu môi trường phạm tội, giúp người bị kết án không có cơ hội tái phạm Thời điểm áp dụng hình phạt bổ sung bắt đầu từ ngày mãn hạn chấp hành hình phạt tù hoặc từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật nếu được hưởng án treo Theo khoản 5 Điều 112 Bộ luật Hình sự, thời hạn cấm đảm nhiệm chức vụ, nghề nghiệp hoặc công việc cụ thể là từ một năm đến năm năm, với thời hạn cụ thể do tòa án quyết định trong từng trường hợp.
Nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng hình phạt bổ sung để hạn chế tình trạng tái phạm của người bị kết án Vào cuối tháng 10 năm 2009, hai viện của Ba Lan đã thông qua dự luật làm mất khả năng giao cấu của những người mãn hạn tù vì tội hiếp dâm trẻ em hoặc phạm tội loạn luân bằng phương pháp y học Chính phủ Ba Lan cho rằng mục đích của hành động này là chữa bệnh tâm thần cho những người phạm tội, giảm ham muốn tình dục và giảm nguy cơ tái phạm Phần lớn công dân Ba Lan ủng hộ luật này; tuy nhiên, nó đã gặp phải sự phản đối từ các tổ chức nhân quyền và thành viên Nghị viện châu Âu do bị cho là vi phạm nhân quyền.
Quy định về hình phạt bổ sung trong Bộ luật Hình sự năm 1999 đối với tội hiếp dâm trẻ em tại Việt Nam thể hiện tính nhân đạo hơn đối với người phạm tội, đồng thời vẫn có khả năng ngăn ngừa họ tái phạm.
Nhưng tình hình tội phạm vẫn chưa giảm bao nhiêu, từng lúc, từng nơi lại có khuynh hướng gia tăng.
Nguyên nhân gây ra nạn XHTDTE hiện nay cho thấy rằng các em thường có xu hướng giao tiếp ra xa xã hội, trong khi kinh nghiệm và kỹ năng sống của các em còn thiếu hụt Điều này dẫn đến việc các em chưa nhận được sự hướng dẫn cần thiết khi bước vào đời.
Sự nuông chiều con cái quá mức từ cha mẹ là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng gia tăng tội phạm Bên cạnh đó, việc tiếp cận phim ảnh đồi truỵ từ các trang web độc hại trên internet cũng góp phần làm gia tăng tình trạng này Theo thống kê từ các cơ quan chức năng, có tới 40% tội phạm đã xem phim khiêu dâm và sử dụng rượu trước khi thực hiện hành vi phạm tội.
Vấn đề truyền thông nhằm nâng cao nhận thức của người dân và giáo dục trẻ em về tệ nạn xã hội, đặc biệt là việc bảo vệ trẻ em khỏi nạn xâm hại tình dục, hiện vẫn còn nhiều hạn chế từ chính quyền và các đoàn thể địa phương.
Sự quan tâm chưa đầy đủ của các cơ quan, ban, ngành địa phương đối với việc quản lý các dịch vụ xã hội như quán bar và dịch vụ internet đang ảnh hưởng đến hiệu quả phòng ngừa và phát hiện sớm các nguy cơ cho trẻ em bị xâm hại tình dục Cần có các biện pháp can thiệp kịp thời để giảm thiểu hoặc loại bỏ những nguy cơ này.
KẾT LUẬN
1 Đề tài đã nêu được những nét cơ bản khái quát quá trình hoàn thiện các quy định về tội Hiếp dâm trẻ em trong lịch sử lập pháp nước ta từ năm 1945 đến giai đoạn hiệu lực của BLHS năm 1999
Trước khi Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1999 ra đời, hiếp dâm trẻ em đã được quy định trong các văn bản pháp luật hình sự khác, nhưng chưa cụ thể và rõ ràng Qua quá trình sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện, các quy định này ngày càng chi tiết hơn, tạo tiền đề cho quy định về tội hiếp dâm trẻ em trong BLHS năm 1999 Trước BLHS năm 1985, quy định về tội hiếp dâm, bao gồm hiếp dâm trẻ em, chỉ có giá trị pháp lý thấp và chưa rõ ràng Việc xét xử trong giai đoạn này chủ yếu dựa vào hướng dẫn của Tòa án Nhân dân tối cao Trong giai đoạn hiệu lực của BLHS năm 1985, hiếp dâm trẻ em đã được quy định thành một tội riêng và ngày càng được hoàn thiện với các quy định cụ thể hơn về dấu hiệu pháp lý và các tình tiết định khung tăng nặng.
Các quy định về tội hiếp dâm trẻ em tại Điều 112 BLHS năm 1999 là sự kế thừa và phát triển từ Điều 112a BLHS năm 1985 đã được sửa đổi, bổ sung Những quy định này được xây dựng cụ thể và rõ ràng hơn so với các quy định về tội này trong BLHS năm 1985, cả về mặt hình thức lẫn nội dung.
2 Đề tài tập trung làm rõ được dấu hiệu pháp lý của tội Hiếp dâm trẻ em, cũng như đường lối xử lý đối với người phạm tội Hiếp dâm trẻ em trong BLHS năm 1999, phân biệt với một số tội cùng nhóm tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em như Tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 114 BLHS), Tội dâm ô đối với trẻ em(Điều
116 BLHS), Tội giao cấu với trẻ em(Điều 115 BLHS).
3 Ngoài ra, đề tài cũng đã nêu ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của BLHS năm 1999 về tội Hiếp dâm trẻ em:
- Về định khung hình phạt trong trường hợp nạn nhân chưa đủ 13 tuổi
Áp dụng tình tiết tăng nặng định khung "biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội" sẽ giúp xác định rõ trách nhiệm hình sự của người phạm tội, đặc biệt trong các trường hợp hiếp dâm trẻ em Điều này nhấn mạnh rằng người phạm tội có ý thức về tình trạng sức khỏe của mình nhưng vẫn tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm, từ đó gia tăng mức độ nghiêm trọng của tội danh.
Áp dụng tình tiết tăng nặng định khung “có tính chất loạn luân” yêu cầu phải có cơ sở chứng minh rằng người phạm tội biết hoặc buộc phải biết nạn nhân là con đẻ của mình.
DANH MỤC TÀI LIỆU
1 Hiến pháp năm 1992 của nước CHXHCNVN
2 Bộ Luật hình sự năm 1999 ( sửa đổi, bổ sung năm 2009)
3 Bộ Luật hình sự năm 1985
4 Bộ Luật hình sự của nước CHDCND Trung Hoa
5 Sắc Lệnh số 47- SD
6 Thông Tư liên tịch số 01/1998/TANDTC-VKSNDTC-BNV
8 Công Văn số 73/TK ngày 02/03/1995 của TANDTC
9 Bản Tổng Kết 329-HS2 ngày 11/05/1967
10 Gíao Trình Luật Hình Sự
11 Nguồn tin :www.tinmoi.vn
12 Trang tài liệu: http://hocmai.infogate.vn
1 Lý do chọn đề tài 1
4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2
Chương 1: Cơ sở lý luận về tội hiếp dâm trẻ em theo quy định trong Luật hình sự Việt Nam năm 1999 ( sửa đổi Bổ sung năm 2009) 3
1.1.2 Khái niệm “hiếp dâm trẻ em” 3
1.2.1 Cơ sở pháp lý về tội hiếp dâm trong pháp luật hình sự Việt Nam qua các thời kì 3
1.2.1.1 Cơ sở pháp lý về tội hiếp dâm trong giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành BLHS 3
1.2.1.2 Cơ sở pháp lý về tội hiếp dâm trẻ em trong BLHS năm 1985 7
1.2.1.3 Cơ sở pháp lý về tội hiếp dâm trẻ em trong BLHS năm 1999 11
1.2.2 Pháp luật của một sô quôc gia trên thế giới về tội hiếp dâm 12
1.3 Dấu hiệu pháp lý về tội Hiếp dâm trẻ em quy định trong Luật hình sự năm 1999 ( sửa đổi bổ sung năm 2009) 13
1.3.1 Chủ thể của tội hiếp dâm trẻ em 13
1.3.2 Khách thể của tội hiếp dâm trẻ em 16
1.3.3 Mặt khách quan của tội hiếp dâm trẻ em 18
1.3.4 Mặt chủ quan của tội hiếp dâm trẻ em 22