1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Quan hệ chính trị, an ninh quốc phòng giữa ấn độ và việt nam từ năm 2007 đến năm 2016

175 13 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 175
Dung lượng 2,17 MB

Cấu trúc

  • A. MỞ ĐẦU (5)
    • 5. Nguồn tài liệu, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu (12)
    • 7. Bố cục của đề tài (13)
  • B. NỘI DUNG (14)
  • Chương 1: NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ CHÍNH TRỊ, QUỐC PHÒNG, AN NINH ẤN ĐỘ – VIỆT NAM TỪ NĂM 2007 ĐẾN NĂM (14)
    • 1.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực (0)
      • 1.1.1. Bối cảnh quốc tế (0)
      • 1.1.2. Bối cảnh khu vực (16)
    • 1.2. Quan hệ Ấn Độ – Việt Nam trước năm 2007 (21)
      • 1.2.1. Quan hệ Ấn Độ – Việt Nam trước 1972 (21)
      • 1.2.2. Quan hệ Ấn Độ – Việt Nam từ 1972 đến 2007 (27)
    • 1.3. Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Ấn Độ và chính sách của Ấn Độ đối với Việt Nam (32)
    • 1.4. Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam và chính sách của Việt Nam, (36)
  • Chương 2: QUAN HỆ ẤN ĐỘ – VIỆT NAM TRÊN LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ, QUỐC PHÒNG, AN NINH TỪ NĂM 2007 ĐẾN NĂM 2016 (40)
    • 2.1 Quan hệ chính trị ngoại giao (40)
    • 2.2. Quan hệ quốc phòng (71)
      • 2.2.1. Quốc phòng (71)
      • 2.2.2. An ninh (84)
    • 2.3. Vấn đề Biển Đông trong quan hệ Ấn Độ - Việt Nam (88)
  • Chương 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ QUAN HỆ CHÍNH TRỊ, AN NINH – QUỐC PHÒNG ẤN ĐỘ – VIỆT NAM TỪ NĂM 2007 ĐẾN NĂM 2016 (98)
    • 3.1. Những nét nổi bật trong quan hệ chính trị, an ninh - quốc phòng giữa Ấn Độ và Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2016 (0)
    • 3.2. Tác động của quan hệ chính trị, quốc phòng, an ninh Ấn Độ – Việt Nam đối với mỗi nước, khu vực Đông Nam Á (107)
      • 3.2.1. Đối với Việt Nam (107)
      • 3.2.2. Đối với Ấn Độ (112)
      • 3.2.3. Đối với khu vực Đông Nam Á (122)
    • 3.3. Thuận lợi, thách thức và triển vọng (124)
      • 3.3.1 Thuận lợi và thách thức (124)
      • 3.3.2 Triển vọng (127)
    • C. KẾT LUẬN (131)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (135)

Nội dung

NỘI DUNG

NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ CHÍNH TRỊ, QUỐC PHÒNG, AN NINH ẤN ĐỘ – VIỆT NAM TỪ NĂM 2007 ĐẾN NĂM 2016

1.1 Bối cảnh thế giới và khu vực

Trong những năm đầu thế kỉ XXI, sự vận động và phát triển của thế giới đã tác động mạnh mẽ đến quan hệ Việt Nam - Ấn Độ

Quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, lôi cuốn hầu hết các quốc gia vào vòng quay của nó, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế với sự phổ biến của nền kinh tế thị trường Mặc dù có nhiều mâu thuẫn, toàn cầu hóa mang lại tác động tích cực trong việc phân chia nguồn lực phát triển kinh tế một cách công bằng hơn, góp phần tạo dựng một cấu trúc đa cực trong quan hệ quốc tế Tính tập thể và luật pháp trong quan hệ quốc tế được củng cố nhờ vào việc thừa nhận những hiểm họa chung của nhân loại Trong bối cảnh này, các quốc gia như Việt Nam và Ấn Độ cần xem xét sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các vấn đề nội tại và tác động từ thế giới bên ngoài.

Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ từ các nền kinh tế lớn đã lan tỏa và gây ra những cú sốc lớn cho nhiều quốc gia Mỹ, nền kinh tế lớn nhất thế giới, là nguồn gốc của cơn khủng hoảng nhưng lại phục hồi chậm chạp Các nước G7 và EU cũng đang gặp khó khăn trong phát triển do những vấn đề trong liên kết kinh tế.

NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ CHÍNH TRỊ, QUỐC PHÒNG, AN NINH ẤN ĐỘ – VIỆT NAM TỪ NĂM 2007 ĐẾN NĂM

Quan hệ Ấn Độ – Việt Nam trước năm 2007

1.2.1 Quan hệ Ấn Độ – Việt Nam trước 1972

Văn minh Ấn Độ, một trong những nền văn minh cổ xưa nhất thế giới, đã để lại dấu ấn sâu sắc trong văn hóa nhiều quốc gia, bao gồm cả Việt Nam Sự xâm nhập hòa bình cùng những điểm tương đồng về phong tục, tập quán và tín ngưỡng đã giúp văn hóa Ấn Độ hòa quyện vào văn hóa Việt, trở thành phần không thể tách rời và làm phong phú thêm bản sắc văn hóa Việt Nam Mối liên hệ lâu dài này chính là nền tảng vững chắc cho quan hệ giữa hai nước trong tương lai.

Bước vào thời kỳ cận đại, Việt Nam và Ấn Độ đều trở thành mục tiêu xâm lược của các nước thực dân phương Tây, dẫn đến việc cả hai quốc gia đều rơi vào tình trạng thuộc địa Trong bối cảnh đó, nhân dân hai nước đã cùng nhau tiến hành cuộc đấu tranh gian khổ nhằm giành độc lập và tự do Sự tương đồng trong hoàn cảnh đã giúp nhân dân Ấn Độ và Việt Nam dễ dàng thông cảm và gần gũi với nhau hơn.

XX các sĩ phu yêu nước của Việt Nam đã chủ trương tổ chức Đông Á đồng

Vào năm 1927, Phan Bội Châu đã viết bài giới thiệu về M Gandhi, ca ngợi cuộc đấu tranh của nhân dân Ấn Độ như một nguồn cảm hứng cho cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam Tại Brussels, "Đại hội các dân tộc bị áp bức" được tổ chức với sự tham gia của Nguyễn Ái Quốc, người sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa, cùng với Jawaharlal Nehru, đại diện của Đảng Quốc đại Cuộc gặp gỡ bất ngờ giữa Nguyễn Ái Quốc và Nehru, cùng với Pandi Mootilan Nehru, đã tạo nên mối quan hệ bạn bè tốt đẹp, thể hiện tinh thần yêu nước và độc lập của cả hai dân tộc.

Hồ Chí Minh và gia đình J Nehru đã có cuộc gặp gỡ đáng nhớ, làm sâu sắc thêm tình cảm của Nguyễn Ái Quốc đối với đất nước Ấn Độ Sự kiện này diễn ra liên tiếp trong các tháng 3, 4, 5, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa hai nhân vật lịch sử quan trọng.

1928, Nguyễn Ái Quốc đã viết nhiều bài về Ấn Độ với các nhan đề: “Thư từ Ấn Đô”, “Phong trào Công nhân Ấn Độ”…

Trước năm 1945, quan hệ Ấn Độ và Việt Nam được thể hiện qua ba vấn đề chính: ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Ấn Độ đối với văn hóa Việt Nam; sự thông cảm và hỗ trợ lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống thực dân để giành độc lập; và mối quan hệ đặc biệt giữa J Nehru và Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, hai nhân vật vĩ đại của châu Á Những yếu tố này đã tạo nền tảng vững chắc cho mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nước trong cuộc chiến vì độc lập và tiến bộ xã hội sau này.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, nhân dân Việt Nam đã thành công trong cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945, dẫn đến việc thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Tuy nhiên, ngay sau đó, thực dân Pháp đã trở lại xâm lược lần thứ hai, buộc nhân dân Việt Nam phải tiếp tục cuộc kháng chiến kéo dài 9 năm chống lại thực dân.

Ngay sau khi Chính phủ lâm thời Ấn Độ do J Nehru lãnh đạo được thành lập vào tháng 9 năm 1946, Ấn Độ đã công khai phản đối hành động xâm lược của Pháp đối với nhân dân ba nước Đông Dương Trong một cuộc họp báo tại Delhi vào ngày 26 tháng 9 năm 1946, Thủ tướng J Nehru nhấn mạnh sự quan tâm của Ấn Độ đối với tình hình ở Palestine, Iran, Indonesia, Thái Lan và Đông Dương, bày tỏ sự ủng hộ đối với nguyện vọng của các dân tộc này trong cuộc đấu tranh vì hòa bình và tự do.

Hồ Chí Minh đã thăm Calcutta, Ấn Độ, nơi ông gặp gỡ các chính khách và nhận được sự ủng hộ từ nhân dân Ấn Độ cho cuộc đấu tranh giành độc lập của Việt Nam Vào tháng 1/1947, các nhà lãnh đạo Ấn Độ kêu gọi nhân dân nước này hỗ trợ nhân dân Đông Dương trong cuộc chiến chống chủ nghĩa thực dân, nhấn mạnh rằng cuộc đấu tranh của Đông Dương là một phần của phong trào giải phóng dân tộc châu Á Cùng năm, M Gandhi đã gửi thư bày tỏ sự ủng hộ đối với cuộc đấu tranh của Việt Nam Chính phủ Ấn Độ cũng đã công nhận ngày 21/01/1947 là “ngày Việt Nam”.

Vào ngày 15/8/1947, Ấn Độ chính thức giành độc lập, điều này đã mang lại niềm vui lớn cho Chính phủ và nhân dân Việt Nam Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi bức điện chúc mừng Thủ tướng J Nehru, bày tỏ sự hân hoan của Việt Nam trước thắng lợi của nhân dân Ấn Độ Ông bày tỏ niềm tin vào sự thành công của các dân tộc châu Á trong cuộc đấu tranh giành tự do và tiến bộ, đồng thời hy vọng về một mối quan hệ thân thiện và bền chặt giữa hai dân tộc, hướng tới một kỷ nguyên thịnh vượng, hạnh phúc và hòa bình cho khu vực châu Á.

Năm 1950, khi nước Cộng hòa Ấn Độ ra đời, Chính phủ Việt Nam DCCH đã chúc mừng nồng nhiệt chính phủ và nhân dân Ấn Độ Sự kiện này đã mở ra một giai đoạn mới trong quan hệ Ấn Độ - Việt Nam, với việc Chính phủ Ấn Độ chấp nhận đại diện của Việt Nam tại Ấn Độ và cho phép tổ chức phòng thông tin tuyên truyền về cuộc kháng chiến của Việt Nam tại New Delhi.

Từ năm 1946 đến 1953, Chính phủ Ấn Độ đã thực hiện một chính sách nhất quán đối với vấn đề Đông Dương, bên cạnh các hoạt động khác trong giai đoạn này.

Vào đầu thập niên 1950, trong bối cảnh nhiều quốc gia xã hội chủ nghĩa thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Ấn Độ lại không công nhận chính quyền Bảo Đại cũng như chính phủ Việt Nam DDCCH.

Năm 1953, khi tình hình chiến trường ở Đông Dương có lợi cho quân và dân Việt Nam, Ấn Độ đã có những thay đổi tích cực trong chính sách đối với khu vực này Vào tháng 2/1954, Ấn Độ kêu gọi các bên tham chiến ngừng bắn và đến tháng 4/1954, chính phủ Ấn Độ cấm máy bay chở quân và vũ khí cho Đông Dương bay qua lãnh thổ của mình Hiệp định Genève, được ký vào ngày 21/7/1954, đã ghi nhận sự đóng góp tích cực của Ấn Độ, dẫn đến việc nước này được chọn làm Chủ tịch Ủy ban kiểm soát và giám sát quốc tế Thủ tướng J Nehru cam kết nỗ lực vì hòa bình ở Đông Dương và thực hiện Hiệp định Genève Ngày 7/10/1954, ông Nehru cùng con gái J Gandhi đã có chuyến thăm lịch sử tới Việt Nam, đánh dấu chuyến thăm đầu tiên của một nguyên thủ nước ngoài.

Kể từ khi ra đời vào năm 1945, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã khẳng định được vị thế của mình trên trường quốc tế, và chuyến thăm gần đây đã góp phần nâng cao uy tín của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Nhìn chung, trong nửa cuối những năm 50 của thế kỷ XX, quan hệ giữa

Mối quan hệ giữa Ấn Độ và Việt Nam DCCH diễn ra thân thiện, với Ấn Độ ủng hộ Việt Nam trong cuộc tổng tuyển cử tự do dự kiến vào năm 1956 theo Hiệp định Genève Việt Nam DCCH cũng đã thể hiện sự ủng hộ đối với Ấn Độ trong việc tổ chức hội nghị Á-Phi và các nguyên tắc chung sống hòa bình, bao gồm 10 nguyên tắc của Hội nghị Băng Đung, mà Ấn Độ là một trong những tác giả Thủ tướng Phạm Văn Đồng đại diện cho Việt Nam DCCH đã tích cực tham gia Hội nghị Băng Đung vào tháng 5/1955.

Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Ấn Độ và chính sách của Ấn Độ đối với Việt Nam

Độ đối với Việt Nam

Sau khi giành độc lập vào năm 1947, Ấn Độ đã theo đuổi một chiến lược phát triển kinh tế độc lập, tránh phụ thuộc vào nước ngoài Kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm, bắt đầu từ kế hoạch đầu tiên (1951 - 1956), tập trung vào các mục tiêu như tăng trưởng kinh tế, hiện đại hóa, tự lực cánh sinh và công bằng xã hội Chiến lược này đã giúp Ấn Độ đạt được những bước tiến quan trọng, đưa đất nước trở thành một trong bảy nền kinh tế hàng đầu thế giới trong thập niên đầu thế kỷ XXI.

Cuối thập niên 80 thế kỉ XX, Ấn Độ trải qua khủng hoảng kinh tế và chính trị - xã hội nghiêm trọng, với mức tăng trưởng GDP chỉ đạt 0,8% trong năm tài chính 1991-1992 và lạm phát vượt ngưỡng 13% Dự trữ ngoại tệ giảm xuống còn khoảng 1 tỷ USD vào tháng 5/1991, chỉ đủ cho 20 ngày nhập khẩu, trong khi cán cân thanh toán bị thâm hụt lớn và khả năng thanh toán nợ nước ngoài 70 tỷ USD trở nên khó khăn Sự tan rã của Liên Xô và Đông Âu đã làm suy yếu vị thế kinh tế, chính trị và quốc phòng của Ấn Độ, đồng thời giảm sút vai trò quốc tế của quốc gia này trong Phong trào Không liên kết và thế giới thứ ba.

Ấn Độ cần điều chỉnh chính sách đối ngoại nhằm cải thiện tình hình kinh tế trong nước và khẳng định vị thế quốc tế phù hợp trong bối cảnh trật tự thế giới mới đang hình thành.

Một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc điều chỉnh chính sách đối ngoại của Ấn Độ là sự gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc ở Nam Á và Ấn Độ Dương, khiến Ấn Độ cảm thấy lo ngại Mâu thuẫn lợi ích giữa Trung Quốc và Ấn Độ đã tồn tại từ lâu, đặc biệt là tranh chấp biên giới, với đỉnh điểm là cuộc chiến tranh biên giới Trung - Ấn vào năm 1962.

Những khó khăn từ tình hình quốc tế và bất ổn trong nước đã thúc đẩy Ấn Độ thực hiện cải cách sâu rộng Vào tháng 7/1991, chính phủ Ấn Độ đã tiến hành cải cách kinh tế và điều chỉnh chính sách đối ngoại, hướng tới các nước lớn và các trung tâm kinh tế toàn cầu Ấn Độ chuyển từ nền kinh tế tập trung, quan liêu sang nền kinh tế thị trường năng động và cạnh tranh cao, từng bước hội nhập vào khu vực và quốc tế Nhờ những nỗ lực này, Ấn Độ đã dần thoát khỏi khủng hoảng kinh tế.

Nhờ vào cuộc cải cách mang tính cách mạng và toàn diện theo hướng tự do hóa, GDP của Ấn Độ đã liên tục tăng trưởng kể từ năm bắt đầu cải cách.

Từ năm 1991 đến nay, Ấn Độ đã trải qua sự chuyển mình mạnh mẽ, thay đổi cơ cấu và diện mạo nền kinh tế Quốc gia này không chỉ thoát khỏi khủng hoảng và tình trạng trì trệ, mà còn đạt được mức tăng trưởng GDP ấn tượng, từ 1,1% vào năm 1991 lên trung bình 5,5% trong 11 năm tiếp theo.

Từ năm 1991 đến 2001, Ấn Độ ghi nhận tăng trưởng kinh tế bình quân 7,5% mỗi năm trong giai đoạn 11 năm tiếp theo (2002-2012) Đặc biệt, Ấn Độ đang nổi lên như một siêu cường trong lĩnh vực phần mềm máy tính, với tốc độ xuất khẩu phần mềm tăng từ 35-40% hàng năm, đạt giá trị 13,5 tỷ USD Trong sản xuất công nghiệp, Ấn Độ đứng thứ ba trong số các nền kinh tế đang phát triển, chỉ sau Brazil và Mexico, với tỷ trọng ngành công nghiệp chiếm 30%, nông nghiệp 25% và dịch vụ 45%.

Theo dự báo của Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ quốc tế, nền kinh tế Ấn Độ sẽ có sự biến đổi mạnh mẽ trong những thập niên đầu thế kỷ XXI, với khả năng trở thành một trong bảy nền kinh tế lớn nhất thế giới Goldman Sachs dự đoán rằng đến giữa thế kỷ XXI, Ấn Độ có thể đạt GDP gần 30.000 tỷ USD, vượt Nhật Bản và chỉ đứng sau Trung Quốc và Mỹ Đến năm 2030, GDP của Trung Quốc và Ấn Độ sẽ vượt tổng GDP của nhóm G7, khẳng định vị thế của họ như những nền kinh tế chủ đạo trong nền kinh tế toàn cầu.

Mục tiêu đối ngoại của Ấn Độ trong thời kỳ cải cách là đa phương hóa quan hệ quốc tế, nhưng vẫn giữ vững nguyên tắc độc lập và tự cường Thủ tướng Narashimha Rao nhấn mạnh rằng sự thay đổi là cần thiết trong bối cảnh thế giới đang thay đổi, tuy nhiên, Ấn Độ sẽ không từ bỏ các nguyên tắc cốt lõi của mình Việc điều chỉnh chính sách đối ngoại là cần thiết, nhưng mục tiêu nguyên tắc của Ấn Độ vẫn sẽ được giữ vững.

Ấn Độ đã điều chỉnh chính sách đối ngoại nhằm tăng cường quan hệ với các cường quốc như Mỹ, Nhật Bản và Tây Âu, đồng thời chú trọng đến mối quan hệ với các nước láng giềng như Trung Quốc và Pakistan Quốc gia này đã tích cực thúc đẩy việc thành lập Hiệp hội Hợp tác Nam Á (SAARC) để tăng cường hợp tác khu vực Kể từ sau Chiến tranh Lạnh, Đông Nam Á và châu Á - Thái Bình Dương đã trở thành những khu vực phát triển năng động nhất thế giới Tư tưởng chiến lược của Ấn Độ là duy trì vị thế tại Nam Á, mở rộng ra Ấn Độ Dương và hướng ra toàn cầu Để đạt được mục tiêu này, Ấn Độ đã triển khai chính sách “hướng Đông” từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX.

Chính sách của Ấn Độ nhằm tăng cường quan hệ hợp tác với các quốc gia trong khu vực Nam Á, ASEAN và châu Á - Thái Bình Dương, đồng thời mở rộng quan hệ với các nước lớn như Mỹ, Nhật Bản, châu Âu, Nga và Trung Quốc, cũng như châu Phi và Mỹ La tinh Kể từ cuối năm 2014, Thủ tướng N.Modi đã nâng cấp chính sách hướng Đông thành Hành động hướng Đông, tập trung vào việc thúc đẩy quan hệ với các nước ASEAN và các quốc gia trong khu vực Chính sách này không chỉ củng cố quan hệ giữa Ấn Độ và các nước trong khu vực mà còn tạo ra cơ hội hợp tác mạnh mẽ giữa Ấn Độ và Việt Nam.

Ấn Độ đã có sự phát triển mạnh mẽ từ năm 1991 nhờ thay đổi chính sách kinh tế và đối ngoại, thích ứng với tình hình quốc tế và khu vực sau Chiến tranh Lạnh Việt Nam, với mối quan hệ lịch sử văn hóa lâu đời, đã gắn bó với Ấn Độ trong thời kỳ chống thực dân Cả hai nước đều chịu ảnh hưởng từ sự tan rã của Liên Xô Sự phát triển kinh tế của Việt Nam và vai trò trong ASEAN là yếu tố quan trọng cho chiến lược phát triển của Ấn Độ Chính sách hướng Đông của Ấn Độ xem Việt Nam là bạn bè truyền thống, giúp nước này thâm nhập vào Đông Nam Á và châu Á Thái Bình Dương Sự trỗi dậy của Trung Quốc cũng tạo ra thách thức cho vị thế của Ấn Độ, trong khi căng thẳng lãnh thổ ở Biển Đông mở ra cơ hội cho Ấn Độ khẳng định vị thế lớn trong khu vực.

Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam và chính sách của Việt Nam,

Sau hơn 10 năm thống nhất, Việt Nam đã đối mặt với một cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội nghiêm trọng do nhiều nguyên nhân Để giải quyết tình hình này, Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định thực hiện công cuộc đổi mới từ năm 1986.

Sau 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường Văn hóa - xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi

Từ năm 2010 đến 2015, GDP bình quân tăng trưởng đạt trên 5,9%/năm, với quy mô nền kinh tế tiếp tục mở rộng, GDP năm 2015 đạt 193,4 tỉ USD và bình quân đầu người khoảng 2.109 USD Ngành công nghiệp phục hồi với giá trị gia tăng tăng 6,9%/năm, trong khi nông nghiệp phát triển ổn định, giá trị gia tăng tăng 3,0%/năm và độ che phủ rừng đạt 40,7% Chất lượng tăng trưởng được cải thiện nhờ vào sự đóng góp của khoa học và công nghệ, năng suất lao động tăng 4,2%/năm, cùng với việc sử dụng hiệu quả vốn đầu tư và tăng trưởng nhờ năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP).

Từ năm 2011 đến 2015, Việt Nam đạt khoảng 29% tăng trưởng, với sự phát triển văn hóa và xã hội, đảm bảo an sinh xã hội cơ bản và cải thiện đời sống nhân dân Nền chính trị ngày càng ổn định, đặc biệt trong lĩnh vực ngoại giao, Việt Nam đã tích cực đa phương hóa và đa dạng hóa quan hệ quốc tế, tham gia hội nhập sâu rộng vào đời sống khu vực và quốc tế.

Việt Nam hiện đang tham gia 33 tổ chức lớn trên thế giới như WTO, APEC, và WB Năm 2008, Việt Nam được bầu làm ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, đánh dấu sự nâng cao vị thế của đất nước trong lịch sử phát triển Việt Nam đã hội nhập sâu rộng vào khu vực, trở thành một thành viên tích cực của ASEAN, góp phần phát triển kinh tế xã hội và quảng bá hình ảnh đất nước tới các nước Á – Âu Đại hội đảng toàn quốc lần thứ XII xác định mục tiêu phát triển kinh tế nhanh, bền vững, nâng cao đời sống nhân dân, đồng thời kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, giữ gìn hòa bình và chủ động hội nhập quốc tế để nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Việt Nam hiện nay vẫn là một nước nhỏ trong quan hệ quốc tế, với trình độ phát triển còn thấp và mức độ hội nhập quốc tế đang ở giai đoạn đầu Trước bối cảnh cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, Việt Nam cần xây dựng một chiến lược đối ngoại linh hoạt, tận dụng các ưu thế trong quan hệ với các cường quốc, đặc biệt là Ấn Độ.

Việt Nam, với vị thế là một nước lớn có tiếng nói quan trọng trong khu vực và mối quan hệ lịch sử văn hóa lâu dài với Ấn Độ, luôn coi việc phát triển quan hệ với Ấn Độ là ưu tiên trong chính sách đối ngoại Trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược gia tăng giữa các nước lớn ở Đông Nam Á và những diễn biến phức tạp tại Biển Đông, vị thế và tiếng nói tương đồng của Ấn Độ đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an ninh chính trị cho Việt Nam.

Quan hệ chính trị và an ninh quốc phòng giữa Ấn Độ và Việt Nam trong giai đoạn 2007 – 2016 chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố khách quan và chủ quan.

Mối quan hệ giữa Ấn Độ và Việt Nam diễn ra trong bối cảnh quốc tế đầy biến động đầu thế kỷ XXI, với sự gia tăng của toàn cầu hóa và những thách thức như khủng hoảng tài chính 2008-2009, khủng hoảng nợ công 2011, sự trỗi dậy của IS, vấn đề Crimea, khủng hoảng nhập cư châu Âu và sự kiện Brexit Những biến cố này đã buộc các quốc gia phải điều chỉnh chính sách đối ngoại và thắt chặt quan hệ truyền thống, đặc biệt là giữa Ấn Độ và Việt Nam, trong bối cảnh cũng phải đối mặt với các vấn đề như bệnh tật, đói nghèo và môi trường.

Quan hệ Ấn Độ - Việt Nam giai đoạn 2007 – 2016 diễn ra trong bối cảnh khu vực phức tạp, với sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc và tham vọng bá quyền trên Biển Đông sau khi công bố yêu sách đường 9 đoạn năm 2009 Mỹ thực hiện chính sách xoay trục và tái cân bằng lực lượng tại châu Á – Thái Bình Dương, trong khi các nước lớn như Nhật Bản, Australia và Nga cũng có nhiều hành động hướng về Đông Nam Á Sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, cùng với tham vọng của Trung Quốc, đặt ra những thách thức lớn cho khu vực Đông Nam Á, tiềm ẩn nguy cơ đe dọa hòa bình và an ninh Đồng thời, sự phát triển mạnh mẽ của ASEAN thu hút sự quan tâm của các cường quốc.

35 vừa là cơ hội, thách thức cho mỗi nước, vừa là nhân tố thúc đẩy quan hệ Ấn Độ

- Việt Nam phát triển lên tầm cao mới

Sự phát triển vượt bậc của Ấn Độ sau cuộc cải cách năm 1991 đã thúc đẩy quốc gia này xác định rõ hơn vai trò của mình như một nước lớn trong khu vực Từ Chính sách Hướng Đông năm 1992 đến chiến lược Hành động Hướng Đông, Ấn Độ đã có những bước đi mạnh mẽ nhằm tăng cường ảnh hưởng và hợp tác với các quốc gia trong khu vực.

Năm 2014 đánh dấu một bước phát triển mạnh mẽ của Ấn Độ, chuyển mình từ một cường quốc ôn hòa sang một cường quốc khu vực năng động và có hành động thực tế Sự tiến về phía Đông không chỉ mang lại lợi ích kinh tế và văn hóa xã hội mà còn giúp Ấn Độ khẳng định vai trò của mình trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược với Trung Quốc, một mối quan hệ luôn căng thẳng từ trước đến nay.

Năm 1962, những thành tựu từ công cuộc đổi mới tại Việt Nam cùng với các vấn đề liên quan đến chủ quyền biển Đông đã tạo động lực cho nước này tăng cường quan hệ với các cường quốc, đặc biệt là Ấn Độ.

Mối quan hệ Ấn Độ - Việt Nam, được hình thành từ truyền thống văn hóa và lịch sử lâu đời, đã trải qua thử thách trong cuộc đấu tranh chống thực dân và đế quốc Sau gần 45 năm thiết lập quan hệ chính thức, mối quan hệ này đã phát triển mạnh mẽ và đạt được những bước tiến mới.

QUAN HỆ ẤN ĐỘ – VIỆT NAM TRÊN LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ, QUỐC PHÒNG, AN NINH TỪ NĂM 2007 ĐẾN NĂM 2016

Quan hệ chính trị ngoại giao

Năm 2007 là năm đánh dấu bước chuyển căn bản trong quan hệ Việt Nam

- Ấn Độ sau 35 năm thiết lập quan hệ 1972 – 2007 với việc hai nước chính thức thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện

Nhận lời mời của Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã thực hiện chuyến thăm cấp Nhà nước tới Ấn Độ từ ngày 4 đến 6/7/2007 Trong chuyến thăm, ông đã có các cuộc hội đàm với nhiều lãnh đạo cao cấp của Ấn Độ như Tổng thống A.P.J Abdul Kalam và Thủ tướng M Singh, đồng thời tham dự cuộc họp lần thứ năm của Hội đồng Hợp tác Kinh doanh Việt Nam – Ấn Độ Các cuộc hội đàm diễn ra trong không khí ấm áp, thể hiện mối quan hệ hữu nghị lâu dài và gần gũi giữa hai nước, với trọng tâm là tăng cường quan hệ song phương và làm sâu sắc hơn quan hệ đối tác giữa Việt Nam và Ấn Độ.

Chuyến thăm đã đạt được thành tựu lớn nhất khi hai nước quyết tâm củng cố quan hệ Việt Nam - Ấn Độ thông qua việc thiết lập quan hệ Đối tác Chiến lược, dựa trên "Tuyên bố chung về Khuôn khổ Hợp tác Toàn diện giữa Việt Nam và Ấn Độ bước vào thế kỷ 21" ký tháng 5/2003 Quan hệ Đối tác Chiến lược này sẽ gắn kết và giúp đa dạng hóa, làm sâu sắc hơn quan hệ giữa hai quốc gia trong bối cảnh quốc tế đang biến đổi nhanh chóng trong những năm tới, bao gồm các lĩnh vực chính trị và kinh tế.

Lãnh đạo Việt Nam và Ấn Độ cam kết nâng cao hợp tác trong các lĩnh vực an ninh, quốc phòng, văn hóa, khoa học và kỹ thuật, đồng thời định hướng quan hệ hợp tác giữa hai nước trong các diễn đàn khu vực và đa phương Để đạt được điều này, hai bên đánh giá cao vai trò của các cơ chế hiện có như Ủy ban Hỗn hợp Việt Nam - Ấn Độ và các cuộc tham khảo giữa hai Bộ Ngoại giao Họ cũng nhấn mạnh việc thiết lập cơ chế Đối thoại Chiến lược ở cấp Thứ trưởng Ngoại giao nhằm tăng cường hợp tác và hiểu biết lẫn nhau, đồng thời khẳng định quyết tâm thúc đẩy quan hệ quốc phòng và an ninh lên tầm cao mới.

Thủ tướng Ấn Độ khẳng định cam kết hỗ trợ Việt Nam qua viện trợ và tín dụng ưu đãi cho các lĩnh vực quan trọng cho sự phát triển kinh tế, dựa trên nhu cầu của Việt Nam Lãnh đạo hai nước đã chỉ đạo Bộ trưởng Thương mại gặp gỡ để xây dựng chiến lược nâng cấp hợp tác kinh tế và thương mại, đồng thời hình thành kế hoạch hợp tác trong các diễn đàn khu vực và đa phương Thủ tướng Ấn Độ đồng ý hỗ trợ Việt Nam hội nhập với nền kinh tế toàn cầu và công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường đầy đủ Hai bên cam kết khuyến khích doanh nghiệp hợp tác, phấn đấu nâng kim ngạch thương mại hai chiều lên 2 tỷ USD vào năm 2010 và 5 tỷ USD vào năm 2015 Họ cũng nhất trí tăng cường hợp tác giữa các Phòng Thương mại và Công nghiệp để hỗ trợ khu vực tư nhân thông qua việc thiết lập đầu mối liên hệ cho doanh nghiệp và tổ chức các hội chợ thương mại, hội thảo hàng năm.

Hai nước đã thống nhất tăng cường liên doanh và đầu tư trong các lĩnh vực bổ sung như dầu khí, than đá và năng lượng, đồng thời khuyến khích các công ty dầu khí tăng cường đối thoại để đạt thỏa thuận có lợi Việt Nam ghi nhận sự quan tâm của các công ty Ấn Độ trong việc xây dựng nhà máy lọc dầu và hoan nghênh sự tham gia của họ trong đấu thầu nhập khẩu dầu thô Thủ tướng Ấn Độ thông báo về khoản tín dụng 45 triệu USD cho Việt Nam để xây dựng nhà máy thủy điện Hai nước cũng nhất trí tăng cường hợp tác song phương và với các nước ASEAN để phát triển liên kết vận tải đường bộ Việt Nam đánh giá cao các cơ hội đào tạo cho người Việt Nam thông qua Chương trình Hợp tác kinh tế và kỹ thuật của Ấn Độ (ITEC) và các suất học bổng tại Ấn Độ.

Lãnh đạo cam kết tăng cường vai trò của Liên Hợp Quốc, nhằm xây dựng một hệ thống đa phương hiệu quả hơn dựa trên luật pháp quốc tế và Hiến chương LHQ Hai nhà lãnh đạo nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thúc đẩy các mục tiêu toàn cầu một cách cân bằng để thực hiện Tuyên bố Thiên niên kỷ và đạt các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ Việt Nam ủng hộ Ấn Độ ứng cử làm thành viên thường trực HĐBA khi tổ chức này cải tổ, trong khi Ấn Độ cũng hỗ trợ Việt Nam ứng cử làm thành viên không thường trực HĐBA LHQ nhiệm kỳ 2008 – 2009 Thủ tướng Việt Nam đánh giá cao chính sách “Hướng Đông” của Ấn Độ và sự phát triển của quan hệ đối tác ASEAN-Ấn Độ, được củng cố qua “Quan hệ đối tác ASEAN-Ấn Độ vì hòa bình.”

Hai bên đã thống nhất về "39 tiến bộ và thịnh vượng chung" cùng với Chương trình hành động chi tiết, đồng thời cam kết trao đổi quan điểm và phối hợp lập trường trên các vấn đề chung tại các diễn đàn đa phương như ARF, ASEM và Liên hợp quốc.

Trong chuyến thăm, Thủ tướng Việt Nam và Ấn Độ đã ký Tuyên bố chung về Quan hệ đối tác chiến lược, đồng thời chứng kiến lễ ký kết 7 văn kiện hợp tác quan trọng Các văn kiện bao gồm: Bản ghi nhớ về hợp tác nghề cá và nuôi trồng thủy sản; Bản ghi nhớ giữa Bộ Khoa học Công nghệ Việt Nam và Bộ Năng lượng nguyên tử Ấn Độ về hợp tác năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình; Bản ghi nhớ về trao đổi đất và tài sản cho cơ quan đại diện ngoại giao; Bản ghi nhớ thành lập Trung tâm đào tạo tiếng Anh tại Đà Nẵng; Chương trình giao lưu văn hóa; Kế hoạch hợp tác nghiên cứu nông nghiệp và giáo dục giai đoạn 2007-2009 giữa Bộ Nông nghiệp hai nước; và chương trình trao đổi hợp tác giáo dục giữa Chính phủ hai nước.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã chứng kiến lễ ký thỏa thuận hợp tác xây dựng thủy điện giữa Tổng công ty xây dựng và thủy lợi với Công ty Athena, đầu tư 300 triệu USD Đồng thời, hợp đồng thỏa thuận liên doanh khai thác dầu giữa Công ty SOVICO và Công ty Sun có giá trị 200 triệu USD cũng đã được ký kết Trong chuyến thăm này, doanh nghiệp hai nước đã ký nhiều hợp đồng và thỏa thuận hợp tác kinh doanh, với tổng trị giá gần 4,5 tỷ USD.

Quyết định thiết lập quan hệ Đối tác Chiến lược giữa Ấn Độ và Việt Nam đánh dấu một bước ngoặt quan trọng, mở ra chương mới trong tình hữu nghị và hợp tác giữa hai quốc gia.

Hợp tác giữa Việt Nam và Ấn Độ đã có những bước phát triển mạnh mẽ vào năm 2007, với nhiều hoạt động diễn ra ở nhiều cấp độ Một trong những sự kiện quan trọng là Đại hội Hội hữu nghị Việt Nam - Ấn Độ được tổ chức vào ngày 29/7/2007 tại Hà Nội, nhằm thúc đẩy quan hệ hữu nghị giữa nhân dân hai nước Tiếp đó, vào ngày 26/9/2007, Tổng Bí thư đã có những hoạt động tại Trụ sở Trung ương Đảng, tiếp tục củng cố mối quan hệ này.

Thủ tướng Nông Đức Mạnh đã có buổi tiếp và trao đổi thân mật với Tổng Bí thư Arhendu Bhushan Bardhan, người đứng đầu Đoàn đại biểu cấp cao Đảng Cộng sản Ấn Độ đang thăm Việt Nam Hai nước đã tổ chức nhiều chuyến thăm cấp chính phủ và bộ ngành, thể hiện mối quan hệ hợp tác ngày càng chặt chẽ.

Vào ngày 9/10/2007, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Ấn Độ S.V.Patil đã dẫn đầu đoàn đại biểu thăm và làm việc tại Việt Nam, hội đàm với Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết và Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng cùng các bộ trưởng liên quan Hai bên thống nhất tăng cường hợp tác trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt trong đào tạo công nghệ thông tin, phòng chống tội phạm công nghệ cao, và chia sẻ kinh nghiệm quản lý an ninh trật tự xã hội.

Năm 2008 chứng kiến các hoạt động ngoại giao sôi nổi từ cấp Nhà nước, Đảng đến địa phương Từ 23 đến 27 tháng 3, Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam do ông Nguyễn Bắc Son dẫn đầu đã tham dự Đại hội XX Đảng Cộng sản Ấn Độ tại Haiđơruhát Vào ngày 4 tháng 7, tại Hà Nội, Liên hiệp các Tổ chức Hữu nghị Việt Nam, Bộ Ngoại giao và Hội hữu nghị Việt Nam - Ấn Độ đã tổ chức lễ kỷ niệm 1 năm thiết lập quan hệ đối tác chiến lược giữa Việt Nam và Ấn Độ.

Sau một năm, quan hệ Việt Nam-Ấn Độ đã phát triển mạnh mẽ, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế - thương mại Năm 2007, kim ngạch thương mại song phương đạt 1,5 tỷ USD, và chỉ trong 3 tháng đầu năm 2008, con số này đã vượt 1 tỷ USD Dự báo cho cả năm 2008, kim ngạch thương mại hai chiều có thể đạt 3 tỷ USD, tăng hơn 50% so với năm trước và sớm hơn 2 năm so với mục tiêu năm 2010 Kể từ khi thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, nhiều nhà đầu tư lớn từ Ấn Độ đã tìm kiếm cơ hội tại Việt Nam.

Quan hệ quốc phòng

Trong chuyến thăm Ấn Độ của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng từ 4 đến 6/7/2007, Việt Nam và Ấn Độ đã khẳng định vai trò quan trọng trong việc tăng cường an ninh khu vực và hoan nghênh sự phát triển vững chắc của quan hệ an ninh, quốc phòng song phương Hai nhà lãnh đạo nhấn mạnh tầm quan trọng của các khuôn khổ thể chế hiện tại trong hợp tác an ninh và quốc phòng, cam kết củng cố hợp tác về cung cấp quốc phòng, các dự án chung, đào tạo và trao đổi thông tin tình báo Đồng thời, lãnh đạo hai nước nhất trí cần tăng cường hơn nữa các cuộc tiếp xúc và trao đổi đoàn giữa các tổ chức quốc phòng và an ninh.

Vào tháng 11/2007, tại Hội nghị Đối thoại an ninh Việt Nam - Ấn Độ lần thứ 3 ở New Delhi, hai nước đã thống nhất thiết lập cơ chế đối thoại an ninh hàng năm Mục tiêu là chia sẻ các vấn đề cùng quan tâm, tăng cường trao đổi đoàn nhằm hiểu rõ hơn về yêu cầu và vấn đề của nhau, đồng thời thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực an ninh.

Việt Nam đã chính thức tham gia hợp tác đào tạo sĩ quan với Ấn Độ và được mời làm quan sát viên trong các cuộc tập trận của nước này Đây là bước khởi đầu quan trọng trong việc thực hiện các thỏa thuận về đối tác chiến lược, được ký kết trong chuyến thăm Ấn Độ của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vào tháng 7/2007.

Vào ngày 17/12/2007, Bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ A.K Antony cùng đoàn đại biểu cấp cao quân đội đã có chuyến thăm và làm việc tại Việt Nam Trong khuôn khổ chuyến thăm, Bộ trưởng A.K Antony đã hội đàm với Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam, Đại tướng Phùng Quang Thanh, và có buổi chào xã giao Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.

Trong buổi làm việc với lãnh đạo Bộ Quốc phòng Việt Nam, hai bên đã thống nhất thành lập nhóm làm việc chung để đàm phán ký kết Biên bản hợp tác giữa hai Bộ Quốc phòng, nhằm thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực hải quân, phòng không không quân và đào tạo Bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ A K Antony thông báo Ấn Độ sẽ cung cấp 5.000 phụ tùng cho các tàu lớp Petya của Việt Nam và cử đội ngũ 4 thành viên đến Việt Nam để đào tạo sĩ quan tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc vào nửa đầu năm 2008 Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định Chính phủ Việt Nam sẽ nỗ lực thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác chiến lược với Ấn Độ lên tầm cao mới Bộ Quốc phòng Ấn Độ cam kết hỗ trợ Bộ Quốc phòng Việt Nam, đặc biệt trong việc tăng cường số sĩ quan Việt Nam sang học tập tại Ấn Độ về các lĩnh vực chuyên môn kỹ thuật Chuyến thăm của đoàn đại biểu quân sự cấp cao Ấn Độ do Bộ trưởng Quốc phòng AK Antony dẫn đầu đã mở ra chương mới trong hợp tác quốc phòng giữa hai nước.

Vào ngày 26/2/2009, nhằm củng cố quan hệ hợp tác giữa quân đội Việt Nam và Ấn Độ, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng các lực lượng vũ trang Ấn Độ, Sureesh Mehta, đã thăm Việt Nam Trong chuyến thăm, ông đã hội đàm với Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh và gặp gỡ Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết Các cuộc thảo luận đã thể hiện sự tin cậy và hiểu biết lẫn nhau, mở ra nhiều cơ chế mới để tăng cường hợp tác trên nhiều lĩnh vực, phù hợp với mối quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước Lãnh đạo quốc phòng hai bên đã xác định các lộ trình để ký kết các thỏa thuận hợp tác quốc phòng, đồng thời cam kết triển khai các lĩnh vực hợp tác giữa Việt Nam và Ấn Độ trong thời gian sớm nhất.

Từ ngày 17 đến 21/4/2009, Tư lệnh Hải quân miền Đông Ấn Độ R.P.Suthan cùng hai tàu hải quân đã thăm Việt Nam Trong cuộc hội đàm với Trung tướng Trần Quang Khuê, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, hai bên khẳng định rằng các chuyến thăm và diễn tập hải quân giữa hai nước sẽ góp phần tăng cường sự hiểu biết và hợp tác hữu nghị giữa lực lượng hải quân và quân đội của hai quốc gia.

Vào ngày 9/10/2009, Hội nghị Đối thoại an ninh thường niên lần thứ 4 giữa Việt Nam và Ấn Độ đã diễn ra, với sự tham gia của Thứ trưởng Quốc phòng Ấn Độ, Vijai Singh Trong chuyến thăm này, Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam, đã có buổi tiếp ông Vijai Singh Sự kiện này đánh dấu bước tiến quan trọng trong quan hệ quốc phòng giữa hai nước.

Vào tháng 11/2009, Quang Thanh đã đến Ấn Độ, nơi hai bộ trưởng quốc phòng của hai nước đã ký kết Biên bản ghi nhớ (MoU) về hợp tác quốc phòng Sự kiện này đánh dấu một bước tiến quan trọng trong mối quan hệ hợp tác quốc phòng giữa Việt Nam và Ấn Độ.

Ngày 12/10/2010, Đoàn đại biểu Quân sự cấp cao Ấn Độ do ông A.K.Antony, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng làm trưởng đoàn đã thăm chính thức

Việt Nam tham dự Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng, vào sáng 13/10 tại Trụ sở Bộ Quốc phòng Đoàn đại biểu quân sự cấp cao Việt Nam do Đại tướng Phùng Quang Thanh dẫn đầu đã có buổi hội kiến với Đoàn đại biểu Quân sự cấp cao Ấn Độ Tại buổi tiếp, hai bên đã thống nhất sớm triển khai Bản ghi nhớ về hợp tác quốc phòng song phương nhằm thúc đẩy hòa bình, ổn định và phát triển trong khu vực Đồng thời, hai bên cũng cam kết tăng cường trao đổi đoàn quân sự, đào tạo cán bộ, chia sẻ kinh nghiệm tìm kiếm cứu hộ và cứu nạn, góp phần củng cố mối quan hệ hợp tác hữu nghị giữa quân đội và nhân dân hai nước.

Vào ngày 19/7/2011, tàu đổ bộ xe tăng "Ira Watts" của hải quân Ấn Độ đã thăm Nha Trang, Việt Nam Tư lệnh quân chủng Hải quân Việt Nam, Nguyễn Văn Hiến, đã mời Ấn Độ đóng quân lâu dài tại đây, và phản ứng của Ấn Độ là tương đối tích cực Việt Nam cảm nhận áp lực lớn từ Trung Quốc trong tranh chấp Biển Đông, do đó, việc lôi kéo Ấn Độ làm đối tác chiến lược là cần thiết để đối phó với Trung Quốc Lời mời này không chỉ tạo cơ hội cho Ấn Độ thực hiện chính sách đông tiến mà còn thắt chặt quan hệ giữa hai nước Ấn - Việt thông qua các hoạt động ngoại giao quân sự.

Trong chuyến thăm Ấn Độ của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang từ ngày

Từ ngày 11 đến 13/10/2011, Việt Nam và Ấn Độ đã nhấn mạnh sự cần thiết phải tăng cường hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng và an ninh Hai bên bày tỏ sự hài lòng với kết quả cuộc họp Đối thoại an ninh lần thứ 6 cấp Thứ trưởng và đã thống nhất thiết lập cơ chế đối thoại hai năm một lần giữa Bộ Nội vụ Ấn Độ và Bộ Công an Việt Nam Ngoài ra, hai bên cũng cam kết hợp tác để hoàn thành Trung tâm Indra Gandhi về khôi phục dữ liệu và chứng cứ tội phạm tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Việt Nam hoan nghênh đề nghị huấn luyện và nâng cao năng lực cho lực lượng công an, đồng thời hai nước đã nhất trí tăng cường quan hệ đối tác chiến lược toàn diện dựa trên các trụ cột chính như chính trị, quốc phòng, an ninh, kinh tế, văn hóa và hợp tác phát triển nguồn nhân lực Sự khẳng định hợp tác quốc phòng, an ninh giữa hai nước thể hiện sự thay đổi nhận thức mạnh mẽ về vị thế của nhau trong cấu trúc an ninh khu vực.

Từ ngày 11 đến 12/7/2013, trong kỳ họp thứ 15 giữa UBHH Việt Nam và Ấn Độ, hai bên đã thống nhất tăng cường hợp tác quốc phòng, một trụ cột quan trọng trong quan hệ đối tác chiến lược Hợp tác này bao gồm đào tạo nguồn nhân lực, phát triển công nghiệp quốc phòng, và chia sẻ kinh nghiệm trong phòng chống tội phạm công nghệ cao, khủng bố, và tội phạm ma túy Đồng thời, Việt Nam cũng nhận được sự hỗ trợ trong việc tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc.

Tại Đối thoại Quốc phòng Việt Nam - Ấn Độ lần thứ 8 diễn ra vào tháng 11 năm 2013 tại TP Hồ Chí Minh, Ấn Độ đã cam kết tăng cường hợp tác đa diện với Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực quốc phòng Hai bên nhất trí tiếp tục thúc đẩy hợp tác chiến lược, trao đổi đoàn, đào tạo và hợp tác trong ngành công nghiệp quốc phòng, với trọng tâm là hợp tác hải quân Đồng thời, hai nước sẽ tăng cường hợp tác trên các diễn đàn đa phương như ARF và ADMM+, và triển khai hiệu quả sáng kiến hành động mìn nhân đạo Viện Quan hệ quốc tế về quốc phòng và Viện Chiến lược Quốc phòng Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác với các viện nghiên cứu của Ấn Độ nhằm hỗ trợ trong lĩnh vực nghiên cứu, dự báo và tư vấn chiến lược.

Vấn đề Biển Đông trong quan hệ Ấn Độ - Việt Nam

Vấn đề Biển Đông đã tồn tại từ nhiều thập kỷ trước, và trong giai đoạn hiện nay, nhận thức về vấn đề này giữa Ấn Độ và Việt Nam chủ yếu được xem xét từ hai phương diện: lập trường của Ấn Độ về Biển Đông và quan hệ Ấn Độ - Việt Nam trong bối cảnh này Ấn Độ giữ lập trường nhất quán, thể hiện vai trò của một cường quốc có trách nhiệm thông qua các cam kết về hòa bình và an ninh tại Biển Đông, đồng thời tích cực tham gia vào việc thúc đẩy an ninh khu vực trên các diễn đàn quốc tế.

Vào ngày 7/5/2009, Trung Quốc chính thức gửi Công hàm yêu cầu lưu truyền trong cộng đồng các nước thành viên Liền Hợp Quốc bản đổ thể hiện

"Đường lưỡi bò" hay còn gọi là đường chữ U, đường 9 đoạn, trên Biển Đông đã gây ra nhiều lo ngại trong cộng đồng quốc tế về tham vọng của Trung Quốc tại khu vực này Vấn đề Biển Đông, vốn đã tồn tại từ lâu, trở thành điểm nóng khi các quan chức Trung Quốc tuyên bố đây là "lợi ích cốt lõi" của họ.

Tại Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+) lần thứ nhất vào tháng 10/2010 ở Hà Nội, Ấn Độ đã nhấn mạnh tầm quan trọng của an ninh hàng hải ở Châu Á-Thái Bình Dương Bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ A.K Antony cho biết rằng an ninh các tuyến giao thông đường biển là thiết yếu trong thế giới hiện đại, với sự cần thiết phải bảo đảm tự do hàng hải, bảo vệ nguồn cung năng lượng và thương mại Ông cũng chỉ ra rằng cướp biển vẫn là một thách thức lớn, như đã thấy ở Vịnh Aden, và Hải quân Ấn Độ đã tích cực tham gia tuần tra và hộ tống chống cướp biển tại khu vực này trong hơn hai năm qua.

Ấn Độ cam kết hợp tác với các quốc gia khác trong nỗ lực chống cướp biển, cho thấy an ninh hàng hải và cách tiếp cận an ninh hàng hải tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương đang trở thành mối quan tâm hàng đầu của Ấn Độ.

Ấn Độ đã thể hiện lập trường rõ ràng về vấn đề Biển Đông qua thông cáo báo chí ngày 1/9/2011, nhấn mạnh sự ủng hộ cho tự do hàng hải trong các vùng biển quốc tế và quyền lưu thông theo luật pháp quốc tế Tại Hội nghị thượng đỉnh Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) vào tháng 11/2012, Ấn Độ tiếp tục khẳng định cam kết của mình đối với tự do hàng hải, giải quyết hòa bình các tranh chấp và tiếp cận tài nguyên như thủy sản và khí đốt, phù hợp với các nguyên tắc của luật pháp quốc tế và các diễn đàn chính trị-an ninh như Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS) và ARF.

Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+) đã kêu gọi các nhà lãnh đạo hợp tác để xây dựng một cấu trúc khu vực mở, cân bằng, toàn diện và minh bạch Tuyên bố Tầm nhìn cấp cao 20 năm ASEAN - Ấn Độ vào tháng 12/2012 nhấn mạnh cam kết tăng cường hợp tác đảm bảo an ninh hàng hải và tự do hàng hải, cũng như an toàn cho các tuyến giao thông trên biển, phù hợp với luật pháp quốc tế, bao gồm UNCLOS Để khẳng định tầm quan trọng của Biển Đông, Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ, S Krishna, vào năm 2012 đã nhấn mạnh rằng Biển Đông là tài sản chung của thế giới và không ai có quyền đơn phương kiểm soát khu vực này, đồng thời khẳng định khả năng của Ấn Độ trong việc bảo vệ lợi ích của mình Phản ứng trước tuyên bố này, tờ "Hoàn cầu Thời báo" đã có những bình luận về vấn đề Biển Đông.

86 toàn cầu là một sai lầm Các quốc gia khác không thể cho rằng lãnh thổ của một quốc gia là tài sản toàn cầu”

Dưới áp lực từ Trung Quốc tại Biển Đông, Ấn Độ đã thể hiện rõ quan điểm của mình Tại Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS) ở Brunei vào tháng 10/2013, Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh nhấn mạnh sự ủng hộ đối với cam kết của các quốc gia liên quan trong việc tuân thủ DOC 2002 và nỗ lực đạt được COC dựa trên sự đồng thuận Ông cũng hoan nghênh việc thành lập Diễn đàn Hàng hải ASEAN mở rộng nhằm phát triển các tiêu chuẩn hàng hải, góp phần củng cố luật pháp quốc tế về an ninh hàng hải.

Trong bài phát biểu tại Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) ở Myanmar ngày 22/8/2014, Ngoại trưởng Ấn Độ khẳng định ủng hộ giải pháp hòa bình cho các tranh chấp khu vực, tự do hàng hải và tuân thủ luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 Tuyên bố chung giữa Ấn Độ và Việt Nam năm 2014 kêu gọi các bên liên quan ở Biển Đông kiềm chế và giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình Để cân bằng ảnh hưởng với Trung Quốc, Ấn Độ đã tăng cường quan hệ với ASEAN, thực hiện các cuộc tập trận quân sự chung với một số quốc gia ASEAN tại Biển Đông, từ đó nâng cao khả năng gây ảnh hưởng trong khu vực.

Vào tháng 3/2015, tại "Đối thoại Delhi hàng năm về vấn đề hợp tác giữa Ấn Độ và ASEAN", Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Ấn Độ Anil Wadhwa đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thảo luận về cấu trúc an ninh khu vực và các vấn đề liên quan đến Biển Đông, an ninh hàng hải, và an ninh mạng Ngày 12/7/2016, Tòa trọng tài PCA đã bác bỏ tuyên bố của Trung Quốc tại Biển Đông và lên án hành động ngăn cản Philippines khai thác tại bãi cạn Scarborough, đồng thời khẳng định rằng việc cải tạo và xây dựng đảo nhân tạo của Trung Quốc là bất hợp pháp Mặc dù có phán quyết này, Trung Quốc vẫn duy trì chính sách quyết liệt Việt Nam và các nước liên quan đã nỗ lực tìm kiếm giải pháp thoát khỏi bế tắc thông qua hợp tác song phương và đa phương Ấn Độ, với cam kết ủng hộ tự do hàng hải và hàng không dựa trên luật pháp quốc tế, khuyến khích các quốc gia giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, không sử dụng vũ lực, nhằm duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực.

Ấn Độ đang thể hiện lập trường mạnh mẽ chống lại sự bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông thông qua các cơ chế hợp tác song phương và đa phương trong khuôn khổ Ấn Độ - ASEAN, điều này mang lại lợi ích rõ rệt cho Việt Nam.

Lập trường của Ấn Độ về vấn đề Biển Đông được thể hiện rõ nét trong quan hệ với Việt Nam Từ năm 2009 đến 2016, các tuyên bố chung trong các chuyến thăm cấp cao giữa hai nước đã nhấn mạnh quan điểm của Ấn Độ đối với vấn đề này.

Trong chuyến thăm Ấn Độ của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang từ ngày 11 đến 13/10/2011, hai bên đã nhất trí về tầm quan trọng của việc duy trì hòa bình và an ninh trên Biển Đông, nhấn mạnh rằng các tranh chấp cần được giải quyết bằng biện pháp hòa bình, không sử dụng vũ lực, theo các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, bao gồm UNCLOS 1982 và DOC 2002 Trong chuyến thăm Ấn Độ của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vào tháng 10/2014, Ấn Độ cũng khẳng định mối quan hệ hợp tác với Việt Nam và chia sẻ quan ngại về an ninh hàng hải Thủ tướng Narendra Modi nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giải quyết hòa bình các tranh chấp trên biển Vào ngày 03/4/2015, Cố vấn An ninh quốc gia Ấn Độ A.K.Doval đã thăm Việt Nam, tiếp tục khẳng định cam kết của Ấn Độ trong việc duy trì hòa bình, an ninh và tự do hàng hải, đồng thời nhấn mạnh việc thực hiện đầy đủ DOC và xây dựng COC.

Thông qua việc cho phép các công ty Ấn Độ thăm dò và khai thác dầu mỏ và khí đốt ở Việt Nam, Ấn Độ đã gián tiếp can dự vào tranh chấp tại Biển Đông Vào tháng 10/2011, Ấn Độ đã ký một hiệp định với Việt Nam nhằm mở rộng thăm dò dầu mỏ ở khu vực này, và khẳng định sẽ tiếp tục hoạt động bất chấp sự phản đối từ Trung Quốc về tính hợp pháp của sự hiện diện của Ấn Độ Trung Quốc yêu cầu New Delhi cần có sự cho phép của họ đối với các công ty dầu mỏ và khí đốt nhà nước của Ấn Độ để khai thác năng lượng tại hai lô mà Trung Quốc tuyên bố là hải phận của mình Để đối phó với tình huống này, Trung Quốc đã kêu gọi đấu thầu quốc tế cho cùng lô dầu mà Việt Nam đã cho Ấn Độ thuê.

Vào ngày 9/10/2011, trước chuyến thăm Ấn Độ, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã khẳng định rằng các dự án hợp tác dầu khí giữa Việt Nam và các đối tác nước ngoài, bao gồm Công ty dầu khí Ấn Độ (ONGC), hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNLOC) năm 1982 Việt Nam hoan nghênh sự hợp tác của các đối tác nước ngoài trong lĩnh vực này và cam kết bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ.

Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ đã bác bỏ các tuyên bố phản đối của Trung Quốc, nhấn mạnh rằng những ý kiến này "không có cơ sở pháp lý".

MM Pallam Raju đã khẳng định: “Tôi nghĩ rằng, cũng như bất kỳ quốc gia nào

MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ QUAN HỆ CHÍNH TRỊ, AN NINH – QUỐC PHÒNG ẤN ĐỘ – VIỆT NAM TỪ NĂM 2007 ĐẾN NĂM 2016

Ngày đăng: 25/08/2021, 16:23

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Bài phát biểu của Ông Phạm Bình Minh, Bộ trưởng Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam tại Kỳ họp thứ 6 (Quốc hội Ấn Độ) về chủ đề "Quan hệ Ấn Độ - Việt Nam và các vấn đề khu vực", ngày 12 tháng 7 năm 2013, http://www.icwa.in/pdfs/fmspeech12072013.pdf Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quan hệ Ấn Độ - Việt Nam và các vấn đề khu vực
2. Đỗ Thanh Bình (Chủ biên) (2010), Lịch sử thế giới hiện đại, quyển 1, Nxb. Đại học Sư phạm Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử thế giới hiện đại
Tác giả: Đỗ Thanh Bình (Chủ biên)
Nhà XB: Nxb. Đại học Sư phạm Hà Nội
Năm: 2010
3. Đỗ Thanh Bình (Chủ biên) (2010), Lịch sử thế giới hiện đại, quyển 2, Nxb. Đại học Sư phạm Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử thế giới hiện đại
Tác giả: Đỗ Thanh Bình (Chủ biên)
Nhà XB: Nxb. Đại học Sư phạm Hà Nội
Năm: 2010
4. Đỗ Thanh Bình, Văn Ngọc Thành (Chủ biên) (2012), Quan hệ quốc tế thời hiện đại, những vấn đề mới đặt ra, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quan hệ quốc tế thời hiện đại, những vấn đề mới đặt ra
Tác giả: Đỗ Thanh Bình, Văn Ngọc Thành (Chủ biên)
Nhà XB: NXB Chính trị quốc gia
Năm: 2012
5. Ngô Xuân Bình (chủ biên), (2013), Nghiên cứu Ấn Độ tại Việt Nam năm 2013, NXB. KHXH, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu Ấn Độ tại Việt Nam năm 2013
Tác giả: Ngô Xuân Bình (chủ biên)
Nhà XB: NXB. KHXH
Năm: 2013
6. Ngô Xuân Bình, (2013), Thúc đẩy quan hệ Việt Nam - Ấn Độ trong bối cảnh hiện nay, Nxb.Khoa học xã hội, H.2013, tr.151 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thúc đẩy quan hệ Việt Nam - Ấn Độ trong bối cảnh hiện nay
Tác giả: Ngô Xuân Bình
Nhà XB: Nxb.Khoa học xã hội
Năm: 2013
7. Bộ Ngoại giao Việt Nam,(2007), Tuyên bố chung về quan hệ đối tác chiến lược giữa Việt Nam và Ấn Độ,http://www.mofa.gov.vn/vi/nr040807104143/nr040807105001/ns070709161527 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tuyên bố chung về quan hệ đối tác chiến lược giữa Việt Nam và Ấn Độ
Tác giả: Bộ Ngoại giao Việt Nam
Năm: 2007
8. Bộ Ngoại giao Việt Nam,(2007), Lễ đón Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thăm Ấn Độ, http://www.mofa.gov.vn/vi/nr040807104143/nr040807105001/ns070709082443 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lễ đón Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thăm Ấn Độ
Tác giả: Bộ Ngoại giao Việt Nam
Năm: 2007
9. Bộ Ngoại giao Việt Nam,(2007), Lãnh đạo Nhà nước và CP tiếp Bộ trưởng Bộ Nội vụ Ấn Độ, http://www.mofa.gov.vn/vi/nr040807104143/nr040807105001/ns071010085719 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lãnh đạo Nhà nước và CP tiếp Bộ trưởng Bộ Nội vụ Ấn Độ
Tác giả: Bộ Ngoại giao Việt Nam
Năm: 2007
10. Bộ Ngoại giao Việt Nam,(2007), Tăng cường hợp tác về quốc phòng giữa Việt Nam và Ấn Độ, http://www.mofa.gov.vn/vi/nr040807104143/ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tăng cường hợp tác về quốc phòng giữa Việt Nam và Ấn Độ
Tác giả: Bộ Ngoại giao Việt Nam
Năm: 2007
11. Bộ Ngoại giao Việt Nam,(2007), Lãnh đạo Nhà nước và Chính phủ tiếp Bộ trưởng Bộ Nội vụ Ấn Độ, http://www.mofa.gov.vn/vi/nr040807104143/nr040807105001/ns071010085719 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lãnh đạo Nhà nước và Chính phủ tiếp Bộ trưởng Bộ Nội vụ Ấn Độ
Tác giả: Bộ Ngoại giao Việt Nam
Năm: 2007
12. Bộ Ngoại giao Việt Nam,(2008), Kỷ niệm 1 năm thiết lập quan hệ chiến lược Việt Nam-Ấn Độ, http://www.mofa.gov.vn/vi/nr040807104143/nr040807105001/ns080707090843 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kỷ niệm 1 năm thiết lập quan hệ chiến lược Việt Nam-Ấn Độ
Tác giả: Bộ Ngoại giao Việt Nam
Năm: 2008
13. Bộ Ngoại giao Việt Nam,(2008), Vun đắp tình hữu nghị nhân dân Việt - Ấn, http://www.mofa.gov.vn/vi/nr040807104143/nr040807105001/ns080813101742 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vun đắp tình hữu nghị nhân dân Việt - Ấn
Tác giả: Bộ Ngoại giao Việt Nam
Năm: 2008
14. Bộ Ngoại giao Việt Nam,(2008), Tuyên bố chung nhân chuyến thăm cấp Nhà nước của Bà P Pa-tin, Tổng thống nước CH Ấn Độ, tới Việt Nam, http://www.mofa.gov.vn/vi/nr040807104143/nr040807105001/ns081128135436 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tuyên bố chung nhân chuyến thăm cấp Nhà nước của Bà P Pa-tin, Tổng thống nước CH Ấn Độ, tới Việt Nam
Tác giả: Bộ Ngoại giao Việt Nam
Năm: 2008
15. Bộ Ngoại giao Việt Nam,(2008), Tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị truyền thống giữa hai quân đội Việt Nam và Ấn Độ vì mục tiêu ổn định khuvực và thế giới, http://www.mofa.gov.vn/vi/nr040807104143/nr040807105001/ns080227093021 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị truyền thống giữa hai quân đội Việt Nam và Ấn Độ vì mục tiêu ổn định khu "vực và thế giới
Tác giả: Bộ Ngoại giao Việt Nam
Năm: 2008
16. Bộ Ngoại giao Việt Nam,(2008), Tư lệnh hải quân miền đông Ấn Độ thăm Việt Nam, http://www.mofa.gov.vn/vi/nr040807104143/nr040807105001/ns080422144911 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tư lệnh hải quân miền đông Ấn Độ thăm Việt Nam
Tác giả: Bộ Ngoại giao Việt Nam
Năm: 2008
17. Bộ Ngoại giao Việt Nam,(2008), Việt Nam và Ấn Độ tăng cường hợp tác an ninh,http://www.mofa.gov.vn/vi/nr040807104143/nr040807105001/ns080326090305 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Việt Nam và Ấn Độ tăng cường hợp tác an ninh
Tác giả: Bộ Ngoại giao Việt Nam
Năm: 2008
18. Bộ Ngoại giao Việt Nam,(2009), Phó Chủ tịch nước kết thúc thăm chính thức Ấn Độ, http://www.mofa.gov.vn/vi/nr040807104143/nr040807105001/ns091005114828 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phó Chủ tịch nước kết thúc thăm chính thức Ấn Độ
Tác giả: Bộ Ngoại giao Việt Nam
Năm: 2009
19. Bộ Ngoại giao Việt Nam,(2009), Tăng cường quan hệ Quốc hội Việt Nam- Ấn Độ, http://www.mofa.gov.vn/vi/nr040807104143/nr040807105001/ns100225084141 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tăng cường quan hệ Quốc hội Việt Nam-Ấn Độ
Tác giả: Bộ Ngoại giao Việt Nam
Năm: 2009
34. Bộ Ngoại giao Việt Nam,(2014), Thông cáo chung giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước CH Ấn Độ, http://www.mofa Link

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w