Vậy, giáo dục pháp luật cho hội viên hội nông dân là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục nhà nước, các tổ chức đoàn thể xã hội và các chủ thể khác tác đ
Trang 3MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 4
NỘI DUNG
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỘI VIÊN CỦA HỘI NÔNG DÂN 11
1.1 Khái niệm, đặc điểm, vai trò của giáo dục pháp luật cho hội viên của Hội nông dân 11
1.2 Nội dung giáo dục pháp luật cho hội viên Hội nông dân 28
1.3 Các điều kiện bảo đảm giáo dục pháp luật cho hội viên Hội nông dân 30
Kết luận chương 1 35
Chương 2: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỘI VIÊN HỘI NÔNG DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH NGHỆ AN
2.1 Khái quát đặc điểm tự nhiên kinh tế xã hội tỉnh Nghệ An 36
2.2 Khái quát chung về tình hình thực hiện công tác giáo dục pháp luật cho hội viên Hội Nông dân trên địa bàn tỉnh Nghệ An 40
2.3 Những kết quả đạt được và hạn chế trong lĩnh vực giáo dục pháp luật cho hội viên Hội Nông dân tỉnh Nghệ An 46
Tiểu kết chương 2 53
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỘI VIÊN HỘI NÔNG DÂN TỪ THỰC TIỄN 54
3.1 Quan điểm chung về công tác giáo dục pháp luật cho hội viên của Hội nông dân 55
3.2 Chủ trương của Tỉnh Nghệ An về giáo dục pháp luật cho hội viên của Hội nông tỉnh Nghệ An 56
3.3 Các giải pháp bảo đảm giáo dục pháp luật cho hội viên của Hội nông dân ở tỉnh Nghệ An hiện nay 63
Tiểu kết chương 3 85
KẾT LUẬN 87
DANH MỤC THAM KHẢO 90
Trang 4DANH MỤC BẢNG
Biểu 1: Tình hình hiểu biết, tiếp cận pháp luật của cán bộ, hội viên, nông dân trên địa bàn tỉnh Nghệ An 44 Biểu 2: Tình hình tham dự các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật 44 Biểu 3: Thực trạng hiểu biết và thực thi một số nội dung pháp luật cụ thể 45
Trang 5DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
GS TSKH Giáo sư, tiến sĩ khoa học
HĐND - UBND Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân
HĐPHPBGDPL Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật PBGDPL Phổ biến giáo dục pháp luật
Trang 6MỞ ĐẦU
1 Lí do chọn đề tài
Công tác giáo dục pháp luật (GDPL) là khâu đầu tiên của quá trình thi hành pháp luật và một trong những công tác quan trọng trong đời sống xã hội, đặc biệt đất nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập Quốc tế Giáo dục pháp luật là chiếc cầu nối và là phương tiện không thể thiếu trong việc nâng cao tri thức pháp luật, ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật của mọi tầng lớp nhân dân Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng pháp luật trong quản lý nhà nước và xã hội, mặt khác Người quan tâm đặc biệt đến giáo dục ý thức tiến bộ cho nhân dân trong đó bao gồm ý thức về pháp luật, Người kêu gọi: "Mọi người dân Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công việc xây dựng nhà nước" [39; tr 212] Người cũng cho rằng chấp hành pháp luật là nghĩa vụ cao cả của công dân và đòi hỏi công dân phải cùng nhau ra sức giữ gìn trật tự, tuyệt đối tuân theo mệnh lệnh của Chính phủ
Trong công cuộc đổi mới, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, công tác GDPL càng có ý nghĩa quan trọng và được quan tâm nhiều hơn ở mọi cấp, mọi ngành Công tác GDPL tốt sẽ giúp mọi người hiểu biết pháp luật, chấp hành pháp luật và luôn có ý thức:
"sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật", góp phần tích cực trong ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội và thúc đẩy kinh tế phát triển bền vững ở từng địa phương nói riêng và cả nước nói chung Công tác giáo dục pháp luật đặc biệt quan trọng và có ý nghĩa đối với mọi tầng lớp nhân dân nói chung và hội viên Hội nông dân nói riêng vì hiện nay nông dân chiếm hơn 70% dân số cả nước.Tại Văn kiện Hội nghị Trung ương lần thứ bảy (khóa X) chỉ rõ “ Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
Trang 7hóa, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước”
Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm chăm lo và đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách và pháp luật nhằm bảo đảm cho mọi người dân đặc biệt
là người nông dân được phát triển toàn diện nhưng trên thực tế, đời sống vật chất và tinh thần của người nông dân so với mặt bằng chung của toàn xã hội còn
ở mức thấp Tỷ lệ hộ nghèo cao, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số ít người, vùng sâu, vùng xa, đặc biệt trình độ dân trí thấp, nhận thức về pháp luật của người dân còn hạn chế Phần lớn người nông dân không có điều kiện tiếp cận với pháp luật và các dịch vụ pháp lý của nhà nước Đó cũng là nguyên nhân chính của tình trạng vi phạm pháp luật, tranh chấp, khiếu kiện, khiếu nại, tố cáo Việc giáo dục pháp luật cho người dân nói chung và hội viên của Hội nông dân nói riêng sẽ góp phần nâng cao ý thức pháp luật nhất là trong giai đoạn hội nhập hiện nay
Giáo dục pháp luật cho nông dân tuy đã được quan tâm nhưng chưa đảm bảo xứng tầm với yêu cầu đặt ra Vì vậy, cần phải tăng cường giáo dục và nâng cao ý thức pháp luật cho hội viên của Hội nông dân, để giúp họ không những bảo vệ được quyền, lợi ích của bản thân mà còn bảo vệ cả quyền, lợi ích của quốc gia, dân tộc và cả công dân khác trong xã hội
Trong những năm qua, tỉnh Nghệ An đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách tạo môi trường thuận lợi cho hội viên tham gia phát triển kinh tế Trong đó, công tác GDPL cho hội viên được triển khai mạnh mẽ bằng nhiều nội dung và hình thức mới và sáng tạo nên đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, từng bước làm chuyển biến nhận thức về pháp luật của các tầng lớp nhân dân nói chung và nông dân nói riêng
Trang 8Tuy nhiên, qua thực tiễn hiện nay trên địa bàn tỉnh Nghệ An cho thấy hầu hết người nông dân đều thiếu thông tin, kiến thức về pháp luật và là đối tượng dễ gánh chịu các rủi ro trong các quan hệ xã hội và thường ở vào vị thế bất lợi (như tham gia ký kết hợp đồng, giải quyết các tranh chấp, tham gia các quan hệ dân
sự, quan hệ tài sản, quan hệ hôn nhân, quyền thừa kế …) Hoặc do thiếu hiểu biết pháp luật nên khi có tranh chấp xảy ra thì thường dẫn tới khiếu kiện vượt cấp, nhất là khiếu kiện liên quan đến đền bù giải phóng mặt bằng, tranh chấp đất đai, thu hồi đất, các chính sách xã hội…ngoài ra hàng năm phát hiện và xử lý 103.588 vụ việc vi phạm pháp luật cũng do một phần người dân không hiểu biết
về các quy định của pháp luật Vì vậy, việc tăng cường công tác giáo dục pháp luật cho đối tượng này đang là vấn đề cấp thiết hiện nay
Xuất phát từ thực tế nêu trên, việc nghiên cứu, tìm hiểu về giáo dục pháp luật cho hội viên của Hội nông dân tỉnh Nghệ An là vấn đề có ý nghĩa thiết thực, cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn Với những kiến thức thu nhận qua học tập và kinh nghiệm thực tiễn trong tham mưu, triển khai công tác phổ biến giáo dục pháp luật ở địa phương và sự quan tâm đặc biệt đến đối tượng nông dân, tác giả
chọn đề tài “Giáo dục pháp luật cho hội viên hội nông dân Việt Nam từ thực
tiễn tỉnh Nghệ An” làm đề tài luận văn thạc sỹ
2 Tình hình nghiên cứu
Nhận thấy được tầm quan trọng của vấn đề này, trong những năm qua đã
có nhiều công trình nghiên cứu về giáo dục pháp luật như:
“Xây dựng ý thức pháp luật và lối sống theo pháp luật” của GS TSKH Đào Trí Úc chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội , 1995”; “Bàn về giáo dục pháp luật” của hai tác giả Trần Ngọc Đường và Dương Thanh Mai Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995”; “Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật” của trường Đại học Luật Hà Nội (2007), khoa Luật Đại học Quốc gia (2005), Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2004); “Một số vấn đề lý luận và
Trang 9thực tiên về phổ biến, giáo dục pháp luật trong công cuộc đổi mới”, Đề tài cấp
Bộ, mã số 92-98-223 ĐT của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ tư pháp Các đề tài khoa học đã nghiệm thu: “Đổi mới giáo dục pháp luật trong hệ thống các trường chính trị ở nước ta hiện nay” (2000), Đề tài khoa học cấp Bộ của Viện Nhà nước và pháp luật, học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; “tìm kiếm mô hình phổ biến, giáo dục pháp luật có hiệu quả trong một số dân tộc ít người và một số vấn đề về lý luận và thực tiến phổ biến, giáo dục pháp luật trong công cuộc đổi mới” (1995), Đề tài khoa học cấp bộ của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý thuộc Bộ tư pháp; “Cơ sở lý luận và thực tiến của việc xây dựng chương tình quốc gia về phổ biến, giáo dục pháp luật trong gia đoạn mới” (2004), Đề tài nghiên cứu cấp Bộ, Bộ Tư pháp
Các luận án, luận văn đã bảo vệ: Luận án Phó tiến sỹ Luật học “bàn về giáo dục pháp luật” (1996) của tác giả Trịnh Xuân Thảo; Luận án Phó tiến sỹ Luật học “ Giáo dục pháp luật trong các trường Đại học, chuyên nghiệp và dạy nghề” (không chuyên Luật) ở nước ta hiện nay”; Luận văn Thạc sỹ “Giáo dục pháp luật cho hội viên hội nông dân tỉnh Thanh Hóa” (2013) của tác giả Vũ Tiến Dũng; Luận văn Thạc sỹ “ Giáo dục pháp luật cho nông dân tỉnh Hưng Yên” của tác giả Trần Công Thuận (2015)
Các công trình nghiên cứu khoa học trên đã đề cập giáo dục pháp luật từ nhiều góc độ, nhiều đối tượng khác nhau và là nguồn tư liệu quý giá để học viên tham khảo nghiên cứu trong suốt quá trình thực hiện đề tài này Nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống về Giáo dục pháp luật cho hội viên hội nông dân Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Nghệ An
Nghệ An là tỉnh có diện tích 16.493.686 km2, lớn nhất Việt Nam thuộc vùng Bắc Trung Bộ, dân số (năm 2015) có 3.037.440 người Nghệ An có 21 huyện ,thành thị với 480 đơn vị hành chính cấp xã gồm 463 xã phường và 17 thị trấn Địa hình phức tạp vừa có 3/4 là đồi núi lại vừa có 82 km bờ biển, giao
Trang 10thông đi lại thuận tiện, mặt bằng dân trí và trình độ phát triển kinh tế giữa các vùng chưa đồng đều Chính từ sự đa dạng về địa hình, sự phức tạp về đặc điểm
và điều kiện dân cư đã tạo nên những sắc màu riêng cho công tác giáo dục pháp luật (GDPL) của tỉnh Việc nâng cao nhận thức pháp luật để từ đó xây dựng ý thức sống và làm việc theo pháp luật trong mọi tầng lớp nhân dân nói chung và nông dân nói riêng trên địa bàn tỉnh luôn là nhiệm vụ trọng tâm, đồng thời là thách thức lớn đối với các cơ quan quản lý nhà nước nói chung và Hội nông dân tỉnh Nghệ An nói riêng
3 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Đánh giá được đúng thực trạng và tập trung tìm ra các giải pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục pháp luật cho hội viên của Hội nông dân tỉnh Nghệ An, đảm bảo cho các tầng lớp nông dân trên địa bàn tỉnh đều được tiếp cận, tìm hiểu những quy định pháp luật liên quan đến đời sống, công tác của mình, qua đó góp phần giảm bớt các hành vi vi phạm pháp luật; ổn định an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
Một là, phân tích cơ sở lý luận về giáo dục pháp luật cho hội viên của Hội nông dân như khái niệm, đặc điểm, các yếu tố cấu thành và các điều kiện đảm bảo giáo dục pháp luật cho hội viên
Hai là, đánh giá thực trạng hoạt động giáo dục pháp luật của hội nông dân tỉnh Nghệ An cho hội viên và nguyên nhân của thực trạng ấy
Ba là, luận giải các quan điểm và giải pháp đảm bảo giáo dục pháp luật cho hội viên của Hội nông dân tỉnh Nghệ An
4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu các quan điểm khoa học về giáo dục pháp luật và giáo dục pháp luật cho hội viên hội nông dân Thực trạng công tác giáo dục pháp luật cho
Trang 11hội viên hội nông dân trên địa bàn tỉnh Nghệ An và các giải pháp thực hiện đảm bảo công tác giáo dục pháp luật cho hội viên hội nông dân trên địa bàn tỉnh Nghệ An đảm bảo hiệu quả
Phạm vị nghiên cứu: Tập trung khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng về công tác giáo dục pháp luật của Hội nông dân tỉnh Nghệ An và ý thức pháp luật, chấp hành pháp luật của cán bộ, hội viên Hội nông dân trong những năm gần đây (từ năm 2011 đến 2016)
5 Phương pháp nghiên cứu
5.1.Phương pháp luận nghiên cứu:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng về Nhà nước và pháp luật, về giáo dục, phổ biến pháp luật cho hội viên Hội nông dân Phương pháp luận của luận
văn là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
5.2 Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin để nghiên cứu chương 1, 2 và 3 Các phương pháp nghiên cứu phân tích, so sánh, tổng hợp, quy nạp, diễn dịch nghiên cứu chương 1 và 2; Phương pháp điều tra xã hội học, thống kê, phỏng vấn sử dụng trong cả 3 chương của luận văn
6 Đóng góp mới của đề tài
- Luận văn góp phần hệ thống hóa và làm rõ cơ sở lý luận về công tác giáo dục pháp luật cho hội viên của hội nông dân Việt Nam nói chung và Tỉnh Nghệ
An nói riêng
- Luận văn cũng khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng công tác giáo dục pháp luật cho hội viên của Hội nông dân Tỉnh Nghệ An, chỉ ra những ưu điểm
và những bất cập, tồn tại của công tác này trong thời gian qua
- Trên cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn tại tỉnh Nghệ An, luận văn đề xuất một
số giải pháp có tính khoa học và khả thi về công tác giáo dục pháp luật cho hội viên Hội nông dân ở Tỉnh Nghệ An nói riêng và Việt Nam nói chung
Trang 127 Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về giáo dục pháp luật cho hội viên của Hội nông dân Chương 2: Thực trạng giáo dục pháp luật cho hội viên của Hội nông dân từ
thực tiễn tỉnh Nghệ An
Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm giáo dục pháp luật cho hội
viên của Hội nông dân từ thực tiễn tỉnh Nghệ An
Trang 13NỘI DUNG Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO HỘI VIÊN CỦA HỘI NÔNG DÂN
1.1 Khái niệm, đặc điểm, vai trò của giáo dục pháp luật cho hội viên của Hội nông dân
1.1.1 Khái niệm giáo dục pháp luật cho Hội viên của Hội nông dân
1.1.1.1 khái niệm giáo dục
Để hiểu khái niệm giáo dục pháp luật đúng đắn phải dựa trên cơ sở quan điểm lý luận về giáo dục Mác xít, trong đó khái niệm giáo dục pháp luật thường xuất phát từ khái niệm của khoa học sư phạm Trong khoa học sư phạm, khái niệm giáo dục được hiểu theo hai phương diện sau:
Theo nghĩa rộng: Giáo dục đó là quá trình ảnh hưởng của những điều kiện khách quan (chế độ xã hội, trình độ phát triển kinh tế, môi trường sống ) và những tác động của nhân tố chủ quan (tác động tự giác, định hướng của nhân tố con người)
Theo nghĩa hẹp: Giáo dục đó là quá trình tác động định hướng của nhân tố chủ quan lên khách thể giáo dục (hay đối tượng) nhằm đạt mục đích nhất định Theo Từ điển Tiếng Việt định nghĩa “giáo dục là tác động có hệ thống đến
sự phát triển tinh thần, thể chất của con người, để họ dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra” [45,tr 734]
Theo Việt-Nam Tự điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, Trung- Bắc Tân – Văn (1931), “giáo” có nghĩa là dạy, “dục” có nghĩa là nuôi (không dùng một mình); giáo dục là dạy dỗ gây nuôi đủ cả trí - dục, đức - dục, thể - dục”
- Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về Nhà nước và pháp luật khẳng định: giáo dục pháp luật là một dạng giáo dục có tính độc lập tương đối trong hệ thống giáo dục nói chung
Trang 14Như vậy, giáo dục là một “Quá trình”, thể hiện ở mục đích, tính thường xuyên và có hệ thống để “dần dần” có được những phẩm chất và năng lực cần thiết Đó là quá trình tác động qua lại giữa hai yếu tố “truyền thụ”- chuyển tải có
hệ thống, có bài bản và “lĩnh hội”- tức là sự tiếp nhận những gì truyền thụ nhằm tạo ra những giá trị mới trong con người với tư cách là đối tượng của giáo dục nhằm bồi đắp, hình thành ở con người những tri thức hiểu biết mới, cả về trí lực, thể lực và thẩm mỹ để hình thành con người phát triển toàn diện
1.1.1.2 Khái niệm giáo dục pháp luật
Trong thực tiễn, tuy thừa nhận ảnh hưởng của các nhân tố khách quan là to lớn đối với việc hình thành ý thức cá nhân con người, nhưng các nhà lý luận, các nhà khoa học sư phạm vẫn nhấn mạnh các yếu tố tác động hàng đầu cực kỳ quan trọng, thậm chí mang yếu tố quyết định của nhân tố chủ quan trong giáo dục pháp luật Vì thế khái niệm giáo dục pháp luật thường được xây dựng theo nghĩa hẹp của khái niệm giáo dục trong khoa học sư phạm, được xác định trong các yếu tố sau:
Thứ nhất: Mặc dù sự hình thành ý thức của con người là quá trình ảnh
hưởng tác động thống nhất của các điều kiện khách quan lẫn nhân tố chủ quan nhưng nhân tố chủ quan bao giờ cũng là yếu tố tích cực, quyết định Về các điều kiện khách quan, quản điểm lý luận Mác – Lênin cho rằng: “Trong quá trình giáo dục người lao động không được tách rời những điều kiện tồn tại của xã hội như chế độ kinh tế, chính trị với những giai đoạn cụ thể của sự phát triển xã hội
ấy” [40, 158] Sự thay đổi của điều kiện đó sẽ tạo khả năng phát triển đời sống
tinh thần của quần chúng và do đó ảnh hưởng của giáo dục cũng khác nhau Vì vậy, nghiên cứu ảnh hưởng của các điều kiện khách quan tác động lên việc hình thành ý thức con người đã được các nhà giáo dục quan tâm trước khi tiến hành hoạt động giáo dục
Tuy thừa nhận ảnh hưởng của các điều kiện khách quan là to lớn đối với việc hình thành ý thức con người nhưng các nhà kinh điển lại nhấn mạnh tác
Trang 15động hàng đầu cực kỳ quan trọng của nhân tố chủ quan, mà trước hết là hoạt động giáo dục định hướng, có tổ chức, có chủ định của các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức xã hội C.Mác đã viết: “Con người chính là sản phẩm của
hoàn cảnh và giáo dục” [41, 251] Do đó con người thay đổi vẫn là sản phẩm
của hoàn cảnh, giáo dục đã thay đổi VI.Lênin cũng đã nhấn mạnh ý thức chính trị, ý thức pháp luật được hình thành trong quá trình giáo dục của con người Ông cho rằng giáo dục là phương pháp hoạt động chính của các tổ chức Đảng và các cơ quan Nhà nước
Trong tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã xác định rõ vấn đề giáo dục con người, Người viết: “Ngủ thì ai cũng như lương thiện; tỉnh dậy phân ra kẻ dữ
- hiền; hiền dữ đâu phải là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên” [38, 105]
Người cũng đã nhiều lần nhấn mạnh: “Muốn xây dựng Chủ nghĩa xã hội trước
hết phải có con người xã hội chủ nghĩa” [38, 125]
Như vậy sự hình thành ý thức cá nhân con người là sản phẩm của một quá trình phức tạp, trong đó có nhiều yếu tố cùng ảnh hưởng và tác động Trong đó điều kiện khách quan là nhân tố ảnh hưởng còn nhân tố chủ quan là nhân tố tác động Nhân tố ảnh hưởng (khách quan) có thể tự phát theo chiều này hoặc chiều khác, còn nhân tố tác động (chủ quan) bao giờ cũng là tự giác, có ý thức, có chủ định theo một hướng xác định
Thứ hai: Xây dựng khái niệm giáo dục pháp luật theo nghĩa hẹp của giáo
dục có ý nghĩa trong việc phân biệt phạm trù giáo dục pháp luật với phạm trù hình thành ý thức pháp luật
Hai phạm trù này có quan hệ mật thiết với nhau, nhưng không phải là đồng nhất Ở đây hoạt động giáo dục pháp luật đó chính là sự tác động của nhân tố chủ quan mà trước hết đó là hoạt động định hướng có tổ chức, có chủ định thành một
hệ thống của nhiều chủ thể, còn sự hình thành ý thức pháp luật là sản phẩm của các ảnh hưởng mà điều kiện khách quan lẫn sự tác động định hướng của nhân tố
Trang 16chủ quan Sự phân biệt hai phạm trù này có ý nghĩa trong việc phân định rõ về nội dung, phương pháp, hình thức, phương tiện giáo dục pháp luật cho phù hợp
Thực tiễn chỉ ra rằng, kết quả của giáo dục chỉ đạt được khi xác định đúng đắn nội dung, hình thức, phương tiện giáo dục đồng thời có nghệ thuật khéo léo định hướng các yếu tố phù hợp với từng giai đoạn, từng thời kỳ và đối với từng khách thể giáo dục khác nhau thì kết quả giáo dục mới đạt kết quả cao Ngược lại nếu buông trôi, thả lỏng các điều kiện và các yêu cầu nêu trên thì các ảnh hưởng tiêu cực khách quan sẽ có điều kiện lan rộng và phát triển
Thứ ba: Xuất phát từ nghĩa hẹp của khái niệm giáo dục trong khoa học sư
phạm để xây dựng khái niệm giáo dục pháp luật Ở mối quan hệ này theo triết học Mác - Lênin giáo dục pháp luật là cái riêng còn giáo dục là cái chung Cái chung bao hàm cái riêng, cái riêng sâu sắc hơn cái chung Chính từ mối quan hệ này cho phép chúng ta rút ra vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận hết sức quan trọng trong công tác giáo dục pháp luật Giáo dục pháp luật vừa phải thể hiện những nét chung của quá trình giáo dục, vừa chứng tỏ mình có những nét riêng đặc thù
Nét đặc thù của giáo dục pháp luật khác tương đối so với các dạng giáo dục khác ở những điểm sau:
Một là: Giáo dục pháp luật có mục đích riêng của mình Đó là hoạt động
nhằm hình thành tri thức, tình cảm và thói quen xử sự phù hợp với quy định của pháp luật, làm cho công dân tự giác tuân thủ, có ý thức pháp luật cao, góp phần tăng cường hiệu quả của pháp luật
Hai là: Giáo dục pháp luật có nội dung riêng Đó là sự tác động có định
hướng với nội dung cơ bản là chuyển tải từ tri thức về Nhà nước và pháp luật mà trong đó pháp luật thực định hiện hành của Nhà nước là bộ phận cơ bản quan trọng nhất
Ba là: Xét về yếu tố chủ thể, khách thể, đối tượng, hình thức và phương
pháp giáo dục cũng có thể chỉ ra nét đặc thù riêng của giáo dục pháp luật Chẳng
Trang 17hạn như so với các dạng giáo dục thì giáo dục pháp luật là quá trình tác động thường xuyên, liên tục, lâu dài hơn chứ không phải là sự tác động một lần như là đối tượng giáo dục Vì thế giáo dục pháp luật trở thành hoạt động thường xuyên trong các gia đình, nhà trường, các tập thể lao động, các tổ chức Đảng, Nhà nước và các đoàn thể xã hội
Pháp luật là những quy tắc xử sự chung do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận để điều chỉnh các quan hệ xã hội, bảo đảm cho các quan hệ xã hội vận hành “trong vòng trật tự” nhất định, phù hợp với ý chí và lợi ích của giai cấp thống trị [tr 5, 30] Như vậy, đứng trước pháp luật, hoặc khi tham gia vào đời sống Nhà nước và pháp luật, mọi chủ thể đều phải có tri thức hiểu biết về pháp luật, biết được giới hạn hành vi mà pháp luật cho phép, giới hạn của tự
do, ý chí, hành động để thực hiện cho đúng, đồng thời các chủ thể còn phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi của mình gây ra
Để thực hiện được điều đó, pháp luật phải đến được với các đối tượng
mà nó điều chỉnh thông qua quá trình tác động của các tổ chức, cá nhân với nhiều biện pháp, hình thức khác nhau đó chính là giáo dục pháp luật
Theo các tài liệu khoa học về pháp luật ở nước ta hiện nay, các tác giả đã khá thống nhất với khái niệm giáo dục pháp luật: Giáo dục pháp luật là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục một cách có hệ thống và thường xuyên nhằm mục đích hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm pháp lý và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của pháp luật hiện hành
Từ các khái niệm trên, có thể hiểu giáo dục pháp luật là sự tác động một cách có hệ thống, có mục đích và thường xuyên tới nhận thứ của con người nhằm trang bị cho họ một trình độ tri thức pháp lý nhất định để từ
đó có ý thức đúng đắn về pháp luật, tôn trọng và tự giác theo yêu cầu của pháp luật
Trang 181.1.1.3 Khái niệm nông dân
Theo từ điển Tiếng Việt, nông dân được hiểu là “người lao động trong các lĩnh vực nông, lâm, ngư, diêm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp” [tr 56] Còn trong tiếng Anh, nông dân (famer) được hiểu là người làm việc nghề nông, người cày cấy, trồng trọt, làm việc ở các nông trai, là chủ trang trại
Theo Wiliam Rosbery- nhà nghiên cứu xã hội học Mỹ “nông dân được coi
là những trang chủ gia đình, những người sản xuất lương thực cho bản thân và cho các nhóm xã hội khác có địa vị cao hơn Hoặc nông dân - một giai cấp chuyên sản xuất những sản phẩm nông nghiệp trên cơ sở tư hữu tư nhân hoặc sở hữu hợp tác xã về tư liệu sản xuất và tham gia bằng lao động của chính mình” Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nông dân Việt Nam là lực lượng chủ yếu, đông đảo nhất của dân tộc có hàng nghìn năm văn hiến Họ làm nên những giá trị văn hóa đặc sắc của dân tộc và những giá trị văn hóa đó lại kết tinh trong người nông dân Việt Nam, làm nên sức mạnh Việt Nam tiến những bước dài trong lịch sử nhiều thiên niên kỷ của dân tộc Với lịch sử hàng nghìn năm tồn tại, người nông dân Việt Nam luôn luôn tiêu biểu cho truyền thống yêu nước nồng nàn, cố kết cộng đồng, đoàn kết dân tộc, như bệ đỡ cho dân tộc bảo tồn và phát triển (theo trang thông tin điện tử Hội nông dân tỉnh Hưng Yên- Bài 1: tư tưởng Hồ Chí Minh về nông dân và công tác vận động nhân dân)
Như vậy, nói đến nông dân là nói đến một bộ phận dân cư lao động gắn liền với sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp có cuộc sống và thu nhập từ lao động nông nghiệp
1.1.1.4 Khái niệm hội nông dân
Theo điều 4, chương II, Điều lệ Hội nông dân Việt Nam quy định “nông dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tôn giáo, hoạt động trong các lĩnh vực nông, lâm, ngư, diêm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch
vụ và các lao động khác trên lãnh thổ Việt Nam nếu tán thành Điều lệ Hội, tự nguyện xin vào Hội được Ban chấp hành cơ sở Hội đồng ý thì kết nạp vào Hội”
Trang 19Hội nông dân Việt Nam gồm 4 cấp:
+ Trung ương;
+ Tỉnh, thành phố trực thuộc TW và tương đương (cấp tỉnh);
+ Huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh và tương đương (gọi
chung là cấp huyện);
+ Xã, phường, thị trấn và tương đương (cơ sở)
Chức năng nhiệm vụ: (Thực hiện theo quy định của Điều lệ Hội Nông dân Việt Nam thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V ngày 24/12/2008, sửa đổi bổ sung tại Đại hội VI ngày 7/3/2013)
2 Vận động, tập hợp, làm nòng cốt tổ chức các phong trào nông dân phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, xây dựng nông thôn mới
3 Chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của hội viên, nông dân Trực tiếp thực hiện và phối hợp thực hiện một số chương trình, đề án phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội nông thôn; Hướng dẫn phát triển các hình thức kinh tế tập thể trong nông nghiệp, nông thôn Tổ chức các hoạt động dịch vụ, tư vấn, hỗ trợ và
Trang 20dạy nghề, khoa học công nghệ giúp nông dân phát triển sản xuất, nâng cao đời sống, bảo vệ môi trường
4 Đoàn kết, tập hợp đông đảo nông dân vào tổ chức Hội, phát triển và nâng cao chất lượng hội viên Xây dựng tổ chức Hội vững mạnh về mọi mặt; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Hội đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước
5 Tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh Tham gia giám sát và phản biện xã hội theo quy chế Kịp thời phản ánh tâm tư nguyện vọng của nông dân với Đảng và Nhà nước; bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của hội viên, nông dân Thực hiện Pháp lệnh Dân chủ cơ sở, giữ gìn đoàn kết trong nội bộ nông dân; góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tệ nạn xã hội
6 Mở rộng hoạt động đối ngoại theo quan điểm, đường lối của Đảng, tăng cường hợp tác, trao đổi, học tập kinh nghiệm, tiến bộ khoa học, kỹ thuật, quảng
bá hàng hoá nông sản, văn hoá Việt nam với tổ chức nông dân, tổ chức quốc tế, các tổ chức chính phủ, các tổ chức phi chính phủ trong khu vực và trên thế giới.Vai trò, chức năng và nhiệm vụ của Hội Nông dân Việt Nam được quy định trong Hiến pháp và Điều lệ Hội Nông dân Việt Nam Cụ thể tại Khoản 2, Điều 9 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận: Hội Nông dân Việt Nam là tổ chức chính – xã hội được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình, cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam Điều lệ Hội Nông dân Việt Nam khẳng định: Hội Nông dân Việt Nam là đoàn thể chính trị - xã hội của giai cấp nông dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; cơ sở chính trị của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Hội Nông dân Việt Nam có vai trò tập hợp đoàn kết nông dân, xây dựng giai cấp nông dân vững mạnh về mọi mặt, xứng đáng là lực lượng tin cậy trong
Trang 21khối liên minh vững chắc công, nông, trí, bảo đảm thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
Từ các khái niệm nêu trên, cũng cần phải nhận thức lại rằng, hội viên hội nông dân và nông dân không đồng nhất với nhau Hay nói cách khác, khái niệm nông dân bao hàm (chứa) khái niệm hội viên hội nông dân Mọi hội viên hội nông dân là nông dân, nhưng không phải tất cả nông dân đều là hội viên của hội
mà là những nông dân tự nguyện xin vào Hội và được Hội đồng ý thì mới là hội viên Hội nông dân
Vậy, giáo dục pháp luật cho hội viên hội nông dân là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục( nhà nước, các tổ chức đoàn thể xã hội và các chủ thể khác) tác động lên đối tượng giáo dục (hội viên hội nông dân) một cách có hệ thống và thường xuyên nhằm mục đích hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm pháp lý và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của pháp luật hiện hành
1.1.2 Đặc điểm giáo dục pháp luật cho hội viên Hội nông dân
1.1.2.1 Chủ thể giáo dục pháp luật cho hội viên của Hội nông dân
Như đã nêu ở trên giáo dục pháp luật về cơ bản là sự tác động có mục đích
và định hướng của chủ thể giáo dục lên đối tượng giáo dục Do vậy, tất cả những
cá nhân, tổ chức đã tham gia góp phần vào thực hiện các mục tiêu giáo dục pháp luật được gọi là chủ thể của giáo dục pháp luật Chủ thể giáo dục pháp luật được phân ra làm hai loại: Chủ thể chuyên nghiệp và chủ thể không chuyên nghiệp + Chủ thể chuyên nghiệp: Là những người mà nhiệm vụ chủ yếu, trực tiếp thường xuyên thực hiện giáo dục pháp luật như các báo cáo viên, tuyên truyền viên về pháp luật ở hệ thống các cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức xã hội các cấp, các phóng viên, biên tập viên, phát thanh viên của các cơ quan thông tin đại chúng (báo, đài phát thanh truyền hình, tạp chí về chuyên mục pháp luật và các nội dung liên quan đến pháp luật), các giảng viên dạy pháp luật ở các trường,
Trang 22cán bộ và chuyên gia nghiên cứu và chỉ đạo giáo dục pháp luật tại các cơ quan Nhà nước, tổ chức nghề nghiệp ngành luật, các tổ chức xã hội Đây là lực lượng nòng cốt của các chủ thể giáo dục pháp luật
+ Chủ thể không chuyên nghiệp: Là những người làm việc ở nhiều lĩnh vực với mục tiêu khác nhau, nhưng trong đó có nhiệm vụ thực hiện các mục tiêu giáo dục pháp luật như: Đại biểu Quốc hội, Đại biểu HĐND các cấp, cán bộ các
cơ quan hành pháp, cán bộ là thành viên của các tổ chức chính trị xã hội, Đảng
và đoàn thể, các Luật gia, Luật sư đang hành nghề dịch vụ, tư vấn pháp luật, cán
bộ nhân viên các ngành kinh tế, quản lý Nhà nước, công dân
Chủ thể giáo dục pháp luật chuyên nghiệp cho hội viên hội nông dân chủ yếu là các báo cáo viên pháp luật thuộc các tổ chức như Hội đồng phổ biến, giáo dục pháp luật, Ban chấp hành hội nông dân các cấp Còn chủ thể giáo dục pháp luật không chuyên nghiệp cho hội viên hội nông dân là các cán bộ công chức, viên chức, người lao động của các cấp ủy Đảng, Chính quyền, các tổ chức đoàn thể ở cơ sở, những người có kiến thức pháp luật
1.1.2.2 Đối tượng giáo dục pháp luật cho hội viên của Hội nông dân
Đối tượng của giáo dục pháp luật là các cá nhân, công dân, những nhóm cộng đồng xã hội cụ thể tiếp nhận tác động của các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật Trong đó ý thức pháp luật, thói quen nếp sống ứng xử hợp pháp của công dân, của các nhóm cộng đồng toàn xã hội, thể hiện trình độ nhất định của nền văn hóa pháp lý là khách thể của giáo dục pháp luật
Trong phạm vi của luận văn này thì đối tượng giáo dục pháp luật chính là hội viên hội nông dân trên địa bàn tỉnh Nghệ An Bao gồm toàn bộ những người nông dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tôn giáo, hoạt động trong các lĩnh vực nông, lâm, ngư, diêm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ và các lao động khác trên lãnh thổ Việt Nam nếu tán thành Điều
lệ Hội, tự nguyện xin vào Hội được Ban chấp hành cơ sở Hội đồng ý”
Trang 23Đối với hội viên hội nông dân cư trú ở nông thôn sống bằng nghề trồng trọt, chăn nuôi là chủ yếu, số còn lại là những người làm dịch vụ cung cấp tiêu thủ sản phẩm, buôn bán nhỏ nên phần lớn trong số họ ít có điều kiện tiếp xúc với các kiến thức về pháp luật Bên cạnh đó so với mặt bằng chung về trình độ học vấn thấp hơn và không đồng đều (chủ yếu trình độ từ bậc tiểu học đến trung học) Điều này đã khiến cho nông dân gặp không ít khó khăn trong việc tiếp thu những kiến thức khoa học kỹ thuật cũng như kiến thức về pháp luật Do đó, Đảng và Nhà nước ta phải hết sức quan tâm đến công tác giáo dục pháp luật cho đối tượng này Một bộ phận hội viên hội nông dân được coi là đối tượng đặc thù đối với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (Tại Điều 17, mục 2 Luật phổ biến, giáo dục pháp luật được Quốc hội ban hành ngày 20/6/2012)
Từ đặc điểm của việc giáo dục pháp luật cho hội viên hội nông dân đã trình bày ở trên, nên cần có sự kết hợp giữa giáo dục pháp luật với giáo dục chính trị,
tư tưởng đạo đức, đồng thời có sự lựa chọn nội dung, hình thức phù hợp để đáp ứng nhu cầu thiết thực cho đối tượng này Có như vậy, công tác giáo dục pháp luật mới thu hút được sự quan tâm, hiệu quả
1.1.2.3 Đặc điểm về hình thức giáo dục pháp luật cho hội viên Hội nông dân
Tùy từng đối tượng, điều kiện cụ thể của từng đơn vị, có những hình thức, phương pháp cơ bản sau:
- Tuyên truyền miệng về pháp luật
Là hình thức người nói trực tiếp nói với người nghe về lĩnh vực pháp luật
đó, chủ yếu là phổ biến, giới thiệu các quy định pháp luật nhằm nâng cao nhận thức pháp luật cho người nghe, hướng cho người nghe hành động theo các chuẩn mực pháp luật
Tuyên truyền miệng là một công đoạn không thể thiếu trong phần lớn các hình thức giáo dục pháp luật, chủ yếu được thực hiện thông qua Hội nghị, hội thảo, tập huấn, sinh hoạt câu lạc bộ pháp luật; là hình thức tuyên truyền linh hoạt, có nhiều ưu thế, có thể tiến hành ở bất cứ nơi nào, trong bất kỳ điều kiện,
Trang 24hoàn cảnh nào với số lượng người nghe không hạn chế Khi thực hiện việc tuyên truyền miệng, người tuyên truyền có đủ điều kiện thuận lợi để giải thích, phân tích làm sáng tỏ nội dung cần tuyên truyền
- Tuyên truyền, giáo dục pháp luật qua thi tìm hiểu pháp luật
Là hình thức Thông qua các cuộc thi như: Thi nói (với các hình thức cụ thể như vấn đáp, sân khấu, hái hoa bốc thăm trả lời câu hỏi …); thi viết; thi trắc nghiệm; thi trên mạng internet …, những nội dung pháp luật được chuyển tải đến các đối tượng một cách đơn giản, ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, sinh động hơn, tránh sự cứng nhắc, khô khan; đối tượng tiếp nhận kiến thức pháp luật thoải mái
và hoàn toàn chủ động, hiểu biết về pháp luật, khả năng áp dụng pháp luật được nâng cao hơn
- Tuyên truyền, giáo dục pháp luật qua tài liệu và công cụ trực quan khác
Đây là hình thức tuyên truyền, giáo dục pháp luật được sử dụng thường xuyên Tài liệu tuyên truyền pháp luật được thể hiện dưới nhiều dạng; đề cương tuyên truyền pháp luật, sổ tay, sách bỏ túi, tờ gấp, pa nô, áp phích, đĩa CD, VCD… Ví dụ: Tờ gấp có thể dùng phát đại trà cho Hội viên trong quá trình tuyên truyền miệng, Tài liệu bỏ túi có thể chuyển tới phụ nữ sản xuất, cán bộ Hội cơ sở để tranh thủ đọc những lúc rảnh rổi Đĩa CD có thể dùng cho hệ thống loa truyền thanh nội bộ vào giờ nghỉ Pa nô, khẩu hiệu, tranh cổ động, bảng tin là những phương tiện tuyên truyền mang tính trực quan sinh động thông qua hình ảnh để nắm bắt nội dung…để Hội viên có thể tận dụng thời gian tìm hiểu pháp luật mọi lúc, mọi nơi
- Tuyên truyền, giáo dục pháp luật qua mạng lưới truyền thanh cơ sở
Là phương thức truyền tải những quy định pháp luật liên quan thiết thực đến đời sống hàng ngày của hội viên, cán bộ hội cơ sở, những sự việc, con người được phân công trong thực tiễn thi hành pháp luật là những sự việc, con người có thật tại địa phương, đơn vị; những băn khoăn, thắc mắc của hội viên, nông dân ở cơ sở về chính sách, pháp luật được giải đáp kịp thời…
Trang 25- Tuyên truyền, giáo dục pháp luật qua hoạt động tư vấn pháp luật
Tư vấn pháp luật là việc giải đáp pháp luật, hướng dẫn cá nhân, tổ chức trong nước và nước ngoài xử sự đúng pháp luật; cung cấp dịch vụ pháp lý giúp cho các cá nhân, tổ chức thực hiện và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
Phương thức tư vấn pháp luật rất đa dạng, có thể tư vấn bằng miệng, bằng văn bản, qua thư tín, điện thoại, hướng dẫn, soạn thảo văn bản hoặc góp ý kiến vào đơn từ, văn bản có liên quan đến quyền, nghĩa vụ công dân, hướng dẫn những thủ tục cần thiết và cung cấp địa chỉ cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ việc, hoặc tạo điều kiện cho đối tượng được tiếp cận những văn bản luật cần thiết nhằm giúp cho họ nâng cao nhận thức và vận dụng pháp luật
Phương thức tư vấn và trợ giúp pháp lý còn được thể hiện bằng việc đại diện hoặc trực tiếp tham gia trong các hoạt động thương lượng, ký kết, hoà giải, giữa các
cá nhân, cơ quan, tổ chức theo quy định của pháp luật, tham gia bào chữa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng trước toà án khi có yêu cầu
- Tuyên truyền, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động hoà giải ở cơ sở
Là việc các hòa giải viên bằng hoạt động hòa giải của mình với tinh thần: Giáo dục, thuyết phục, cảm hóa, công bằng, khách quan, thận trọng, kiên nhẫn trên tinh thần xây dựng, vận dụng mọi mối quan hệ để giải quyết mâu thuẩn, hướng dẫn, giải thích và cung cấp các kiến thức pháp luật cho các bên tranh chấp và những người khác trong cộng đồng dân cư nhằm mục đích hình thành ở
họ sự hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng pháp luật và thói quen hành động theo pháp luật
- Tủ sách pháp luật
Là nơi lưu giữ, khai thác và sử dụng sách, báo, tài liệu pháp luật để phục vụ nhu cầu công tác, nghiên cứu và tìm hiểu của người đọc Đây là hình thức sinh hoạt văn hoá, pháp luật trong các cấp Hội, câu lạc bộ
Trang 26Thông qua việc nghiên cứu chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, cán bộ, hội viên phụ nữ vận dụng để giải quyết công việc ở địa phương, ngành, đơn vị Hội viên, nông dân có căn cứ đòi hỏi quyền, lợi ích hợp pháp của mình
- Quan các loại hình văn hóa, văn nghệ
Đây là hình thức tuyên truyền có bề rộng, dễ áp dụng vì được chuẩn bị
kỹ, tiến hành thận trọng, khoa học Hình thức này tạo được không khí hồ hởi, phấn khởi trong quần chúng tham gia, qua đó công tác tuyên truyền sẽ đạt hiệu quả cao
1.1.2.4 Phương pháp giáo dục pháp luật cho hội viên Hội nông dân
Phương pháp giáo dục pháp luật là hệ thống các cách thức sử dụng để tiến hành hoạt động giáo dục pháp luật của chủ thể giáo dục pháp luật tác động lên đối tượng pháp luật là hội viên hội nông dân Do đặc trưng, đặc điểm của giáo dục pháp luật cho hội viên hội nông dân nên hiện nay vẫn chưa có phương pháp giáo dục nào được coi là tối ưu nhất Do đó, để có phương pháp tối ưu nhất thì cần phải có sự kết hợp nhuần nhuyễn, linh hoạt giữa các phương pháp giáo dục pháp luật phù hợp với đối tượng giáo dục pháp luật (trình độ nhận thức, điều kiện, môi trường sống, mức độ quan tâm chú ý đến pháp luật )
Phương pháp giáo dục pháp luật cho hội viên hội nông dân có thể được chia thành 2 nhóm phương pháp như sau:
Một là các phương pháp áp dụng trong hoạt động giáo dục pháp luật như phương pháp giải thích, thuyết phục; phương pháp thực hành trực quan; phương pháp tạo tình huống
Hai là, các phương pháp tổ chức giáo dục pháp luật như: phương pháp tổ chức phối hợp lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai giáo dục pháp luật ở từng cấp, từng ngành, từng địa phương nhằm thực hiện các chương trình, kế hoạch, đề án giáo dục pháp luật ngắn hạn, trung hạn, dài hạn
Trang 27Việc lựa chọn các nhóm phương pháp nào ngoài việc tùy thuộc và đặc điểm đối tượng giáo dục mà còn phụ thuộc vào yếu tố khách quan của chủ thể giáo dục pháp luật ( khả năng, sở trường, điều kiện kinh tế- xã hội )
1.1.3 Vai trò của giáo dục pháp luật cho hội viên Hội nông dân
Giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên của quá trình thi hành pháp luật và có vai trò hết sức quan trọng trong việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân Đó là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng,
là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự điều phối, tổ chức thực hiện của các cơ quan nhà nước và các tổ chức, đoàn thể; là khâu then chốt, quan trọng để chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước thực sự đi vào cuộc sống xã hội, đi vào ý thức, hành động của từng chủ thể trong xã hội
Giáo dục pháp luật là cầu nối để chuyển tải pháp luật vào cuộc sống Nói cách khác, quá trình đưa pháp luật vào cuộc sống được bắt đầu bằng hoạt động giáo dục pháp luật Thực hiện pháp luật dù bằng hình thức nào - tuân thủ, thi hành (chấp hành) pháp luật, sử dụng (vận dụng) pháp luật hay áp dụng pháp luật
Trước hết, trang bị tri thức, hiểu biết pháp luật, từng bước mở rộng và làm sâu sắc hơn hệ thống tri thức pháp luật ở đối tượng được giáo dục Nếu không nhận thức đầy đủ vị trí quan trọng và không thực hiện tốt công tác giáo dục pháp luật thì dù công tác xây dựng pháp luật có làm tốt đến mấy cũng không đạt được hiệu quả thực thi pháp luật
Pháp luật của Nhà nước không phải khi nào cũng được mọi người trong xã hội biết đến, tìm hiểu, đồng tình ủng hộ và thực hiện nghiêm chỉnh Tuy rằng bản chất pháp luật của Nhà nước ta là tốt đẹp, nó phản ánh ý chí, nguyện vọng, mong muốn của đông đảo quần chúng nhân dân trong xã hội Tuy nhiên, dù
Trang 28những quy định pháp luật có tốt đẹp nhưng không được nhân dân biết đến thì vẫn không đi vào cuộc sống
Thứ hai là hình thành lòng tin vào pháp luật của đối tượng
Pháp luật chỉ có thể được mọi người thực hiện nghiêm chỉnh khi họ tin tưởng vào những quy định của pháp luật Pháp luật được xây dựng là để bảo vệ quyền và lợi ích của nhân dân, đảm bảo lợi ích chung của cộng đồng, đảm bảo công bằng và dân chủ xã hội Khi nào người dân nhận thức đầy đủ được như vậy thì pháp luật không cần một biện pháp cưỡng chế nào mà mọi người vẫn tự giác thực hiện
Tạo lập niềm tin vào pháp luật cho mỗi người và cả cộng đồng đòi hỏi sự kết hợp của nhiều yếu tố Một trong các yếu tố đóng vai trò quan trọng là giáo dục pháp luật để mọi người hiểu biết về pháp luật, hiểu biết về quá trình thực hiện và áp dụng pháp luật Pháp luật cũng như mọi hiện tượng khác trong xã hội bao giờ cũng có hai mặt, không phải lúc nào nó cũng thoả mãn hết, phản ánh được đầy đủ nguyện vọng, mong muốn của tất cả mọi người trong xã hội Quá trình điều chỉnh pháp luật sẽ lấy lợi ích của đông đảo nhân dân trong xã hội làm tiêu chí, thước đo, do đó sẽ có một số ít không thoả mãn được Chính các yếu tố hạn chế của các quy định pháp luật càng tạo nên sự cần thiết của công tác PBGDPL để mọi người hiểu đúng pháp luật, đồng tình ủng hộ pháp luật Có như vậy mới hình thành lòng tin vào pháp luật của đông đảo nhân dân trong xã hội Thứ ba là nhằm nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của đối tượng
Ý thức pháp luật của người dân được hình thành từ hai yếu tố đó là tri thức pháp luật và tình cảm pháp luật
Tri thức pháp luật là sự hiểu biết pháp luật của các chủ thể có được qua việc học tập, tìm hiểu pháp luật, qua quá trình tích luỹ kiến thức của hoạt động thực tiễn và công tác Tình cảm pháp luật chính là trạng thái tâm lý của các chủ thể khi thực hiện và áp dụng pháp luật, họ có thể đồng tình ủng hộ với những hành vi thực hiện đúng pháp luật, lên án các hành vi vi phạm pháp luật
Trang 29Ý thức tự giác chấp hành pháp luật của nhân dân chỉ có thể được nâng cao khi công tác giáo dục pháp luật cho nhân dân được tiến hành thường xuyên, kịp thời và có tính thuyết phục Giáo dục pháp luật không đơn thuần là phổ biến các văn bản pháp luật đang có hiệu lực mà còn lên án các hành vi vi phạm pháp luật, đồng tình ủng hộ các hành vi thực hiện đúng pháp luật, hình thành dư luận và tâm lý đồng tình ủng hộ với hành vi hợp pháp, lên án các hành vi vi phạm pháp luật
Giáo dục pháp luật nhằm hình thành, củng cố tình cảm tốt đẹp của con người với pháp luật, đồng thời ngày càng nâng cao sự hiểu biết của con người đối với các văn bản pháp luật và các hiện tượng pháp luật trong đời sống, từ đó nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của nhân dân
Thứ tư là giáo dục pháp luật góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản
lý nhà nước, quản lý xã hội
Vai trò quan trọng này của công tác giáo dục pháp luật bắt nguồn từ chính vai trò và giá trị xã hội của pháp luật là phương tiện hàng đầu để quản lý nhà nước, quản lý xã hội Giáo dục pháp luật giúp cho mọi người có tri thức pháp lý, tình cảm pháp luật đúng đắn và hành vi hợp pháp, tạo tiền đề cho việc sử dụng quyền lực nhà nước, tăng cường pháp chế, phát huy dân chủ và quyền tự do của mỗi người
Giáo dục pháp luật đồng thời tạo ra khả năng đổi mới các quan hệ xã hội trong môi trường quản lý nhà nước bằng pháp luật, hình thành các điều kiện và nhân tố thuận lợi cho quá trình quản lý nhà nước, quản lý xã hội; tạo ra khả năng phát hiện và loại trừ những hiện tượng tiêu cực, chống đối pháp luật diễn ra trong quá trình quản lý
Nông dân nói chung và hội viên hội nông dân nói riêng là chủ thể ở nông thôn, việc xây dựng nông thôn mới tất yếu phải xây dựng những người nông dân mới Một trong những tiêu chí, mẫu hình của người nông thôn mới đó chính là phải có hiểu biết pháp luật và thực hiện tốt chủ trương “sống và làm việc theo
Trang 30hiến pháp và pháp luật” Chính vì vậy, việc giáo dục pháp luật cho hội viên hội nông dân càng có vai trò, ý nghĩa đặc biệt quan trọng
Là một nước có lịch sử hơn 4000 năm, nông nghiệp chiếm 70% dân số bên cạnh những tinh hoa văn hóa của nền văn minh lúa nước như: kết cấu cộng đồng làng, xã; tính gần gũi, tương đồng giữa các dân tộc còn có những mặt hạn chế cần phải khắc phục, thay đổi như tính bảo thủ, trì trệ “phép vua thua lệ làng” chính những yếu tố khách quan đó làm cho trình độ nhận thức, hiểu biết pháp luật của những chủ thể của nông thôn Việt Nam (cán bộ, hội viên, nông dân) gặp nhiều hạn chế Vậy nên, việc giáo dục pháp luật cho hội viên hội nông dân một cách tích cực, hiệu quả sẽ góp phần xây dựng thành công nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
1.2 Nội dung giáo dục pháp luật cho hội viên Hội nông dân
Nội dung chủ yếu của giáo dục pháp luật cho hội viên hội nông dân ở nước
ta giai đoạn hiện nay, trên cơ sở lý luận và thực tiễn, được xác định theo những mức độ, tầng cấp độ khác nhau tùy theo từng nhóm đối tượng Căn cứ vào nhu cầu và vị trí xã hội của hội viên, phân định nội dung giáo dục pháp luật thành ba mức, cấp độ khác nhau sau đây:
Một là, mức độ tối thiểu về giáo dục pháp luật phổ cập cho mọi công dân trong đó có hội viên hội nông dân (gọi tắt là hội viên)
Hai là, mức độ giáo dục pháp luật theo nhu cầu ngành nghề của những hội viên hoạt động trong các lĩnh vực nông nghiệp khác nhau;
Ba là, mức độ giáo dục chuyên luật, đây là mức độ cao nhất của nội dung giáo dục pháp luật, nhằm mục đích đào tạo cho hội viên là các luật gia, cán bộ
làm công tác pháp luâṭ trong bộ máy nhà nước và các tuyên truyền viên
Nội dung giáo dục pháp luật rất rộng, nhưng với hội viên, đặt biệt là hội viên ở các cơ quan đơn vị, ở các vùng miền, công tác giáo dục pháp luật cần lựa chọn những nội dung thực sự phù hợp, cần thiết, liên quan trực tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ hợp pháp, chính đáng của hội viên để tuyên truyền
Trang 31Nội dung cơ bản cần đặc biệt chú trọng tuyên truyền là các quy định pháp luật có tính thời sự, liên quan mật thiết đến đời sống của cán bộ và người dân nông thôn, đồng bào dân tộc thiểu số phù hợp với từng đối tượng, địa bàn Các quy định này được định hướng tuyên truyền đúng đắn, phù hợp, bám sát các chủ trương, chính sách của Đảng, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ chính trị của ngành, địa phương Cụ thể gồm các nội dung sau:
- Các quy định pháp luật về nông nghiệp và phát triển nông thôn trong các lĩnh vực trồng trọt, bảo vệ thực vật; chăn nuôi, thú y; lâm nghiệp, bảo vệ phát triển rừng; thủy sản; thủy lợi, đê điều phòng chống lụt bão; kinh tế hợp tác và phát triển kinh tế, đặc biệt tập trung cho lĩnh vực quản lý chất lượng, nông lâm sản và thủy sản; vấn đề biển đảo và các quy định pháp luật khác có liên quan
- Các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước về lĩnh vực công tác dân tộc và một số văn bản pháp luật thiết thực với đời sống của đồng bào như: Các cơ chế, chính sách về chương trình 135, các chương trình xóa đói giảm nghèo, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước, công tác quản
lý các chương trình, dự án, quy trình giám sát các chương trình, dự án, chương trình trợ giá, trợ cước, quy chế dân chủ cơ sở, công khai xây dựng cơ sở hạ tầng, chính sách cử tuyển đối với học sinh là con em đồng bào các dân tộc thiểu số, chính sách bảo hiểm y tế, dân số kế hoạch hóa gia đình, hôn nhân và gia đính, phòng chống tội phạm ma túy và phòng chống nhiễm HIV/AIDS, vấn đề hộ tịch, bảo vệ, phát triển rừng, biên giới quốc gia, phòng, chống ma túy
- Các quy định về Quy chế dân chủ cơ sở, công tác hòa giải, công tác trợ giúp pháp lý, phòng, chống bạo lực gia đình, phòng chống ma túy, giao thông đường bộ, đất đai, chính sách đền bù hỗ trợ tái định cư, Luật giao thông đường
bộ, Luật đường thủy nội địa, Nông dân cơ sở với công tác hòa giải…
- Các quy định pháp luật về bình đẳng giới, hôn nhân gia đình, phòng, chống bạo lực gia đình, buôn bán phụ nữ trẻ em, nuôi con nuôi, khiếu nại, tố cáo, ma túy, mại dâm, phòng chống tội phạm và các quy định pháp luật khác có liên quan đến quyền, nghĩa vụ của hội viên phù hợp với từng đối tượng, địa bàn
Trang 32Giáo dục các nội dung trong các văn bản pháp luật hiện hành nhất là các lĩnh vực pháp luật liên quan trực tiếp đến hội viên hội nông dân như: Luật dân
sự, đất đai, môi trường, tài nguyên thiên nhiên, lao động, bình đẳng giới, chống Bạo lực gia đình, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; tới hội viên Bên cạnh đó, để hội viên với tư cách là một công dân, ý thức được vị trí của mình trong quan hệ xã hội, biết được mình có những quyền và nghĩa vụ gì, cần phải làm thế nào để thực hiện nghĩa vụ và bảo vệ quyền công dân của mình, không xâm hại đến người khác, không làm ảnh hưởng đến trật tự,
Giai đoạn từ 1945 đến 1975, giai đoạn này tuy nhận thức rõ vị trí, vai trò, tầm quan trọng của giáo dục pháp luật nhưng do phải thực hiện song song 2 nhiệm vụ chiến lược cách mạng: vừa xây dựng XHCN, vừa thực hiện cuộc cách mạng dân chủ nhân dân nên Đảng ta chưa có điều kiện để ban hành những văn bản mang tính chất chuyên sâu về giáo dục pháp luật Vì thế, về phía Nhà nước (chính quyền) việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng thành các văn bản pháp luật cũng chưa nhiều Giáo dục pháp luật chủ yếu được thực hiện thông qua hoạt động của các cơ quan thông tin đại chúng, hoạt động của đoàn thể xã hội, đội ngũ cán bộ đảng viên, chiến sỹ, Lực lượng vũ trang nhân dân Lịch sử cũng ghi nhận rằng, chưa có lúc nào công tác giáo dục pháp luật lại có nhiều thành tựu, thành công rực rỡ như giai đoạn này
Trang 33Giai đoạn từ 1975 – 1998 sau khi thống nhất đất nước, Đảng và Nhà nước
ta từng bước xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Song tình hình thực thi pháp luật đã được Nghị quyết Đại hội lần thứ V của Đảng đã chỉ rõ “ pháp chế XHCN chậm được tăng cường; pháp luật, kỷ luật bị buông lỏng Việc đấu tranh chống những hành vi vi phạm pháp luật về tệ nạn xã hội thiếu kiên quyết và triệt để” Vì vậy, “các cấp ủy Đảng, các cơ quan nhà nước, các đoàn thể phải thường xuyên phổ biến pháp luật trong các tầng lớp nhân dân, tuyên truyền thuyết phục quần chúng tự giác thi hành chính sách pháp luật của nhà nước” [9, Sổ tay nghiệp vụ phổ biến giáo dục pháp luật] Trên tinh thần đó, Đại hội VI của Đảng khẳng định “ Coi trọng công tác giáo dục, tuyên truyền giải thích pháp luật” [10,
Sổ tay nghiệp vụ phổ biến giáo dục pháp luật]
Giai đoạn từ 1998 đến nay, tiếp tục khẳng định và phát triển các Nghị quyết của các kỳ Đại hội trước, Đảng ta tiếp tục chú trọng việc tuyên truyền giáo dục pháp luật Đại hội IX của Đảng chỉ rõ ( Đổi mới và hoàn thiện quy trình xây dựng Luật ban hành và thực thi pháp luật, trong đó chú trọng tuyên truyền giáo dục pháp luật và tổ chức thực thi pháp luật nghiêm chỉnh” [25] Tại đại hội IX của Đảng, Ban bí thư trung ương đã ban hành Chỉ thị số 32-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân Trong đó chỉ thị đã nêu rõ “Phổ biến giáo dục pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị tư tưởng, là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng” [1] Cùng với đó là Nghị quyết 48-NQ/TW khóa
IX chủ trương “xây dựng và triển khai chương trình quốc gia về phổ biến giáo dục pháp luật dài hạn” [4]
Như vậy thấy rằng, cùng với các giai đoạn cách mạng Việt Nam, việc giáo dục pháp luật luôn được Đảng ta quan tâm chú trọng Đây là điều kiện tiên quyết
để đảm bảo cho những thành công của công tác giáo dục pháp luật nói chung và giáo dục pháp luật cho hội viên hội nông dân nói riêng
Trang 341.3.2 Điều kiện về mặt pháp lý
Khi những điều kiện về mặt chính trị được đảm bảo, thì cần phải được cụ thể hóa thành các văn bản pháp luật, quy đinh trách nhiệm thực hiện và cơ chế phối hợp trong công tác giáo dục pháp luật cho hội viên hội nông dân Hay nói cách khác, đó là những điều kiện cần và đủ mà Nhà nước đưa ra để pháp luật được đưa vào đời sống hội viên hội nông dân
Đó chính là hệ thống các văn bản pháp luật, mà cụ thể ở đây là Hiến pháp, các Bộ luật được sửa đổi, bổ sung; các thông tư, nghị định, đề án để phù hợp với thực tiễn, lý luận trong tình hình mới Thiết thực và sát sao nhất với hội viên hội nông dân là các văn bản: Quyết định 03/1998/QĐ- TTg của Thủ tướng chính phủ về tăng cường hoạt động giáo dục pháp luật từ 1998-2002; Chỉ thị số 02/1998/CT-TTg ngày 07/1/1998 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường hoạt động giáo dục trong giai đoạn hiện nay; Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 9/1/2001 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường phối hợp tạo điều kiện để Hội nông dân các cấp tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo của nông dân; Quyết định số 13/2003/QĐ-TTg ngày 17/1/2003 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình phổ biến giáo dục pháp luật từ 2003 đến 2007; Quyết định 214/2004/QĐ-TTG ngày 16/12/2004 của Thủ tướng chính phủ phê duyệt chương trình quốc gia về phổ biến giáo dục pháp luật và nâng cao ý thức chấp hành cho cán bộ và nhân dân ở xã, phường, thị trấn từ 2005 đến 2010 Đề án
“tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho người dân nông thôn và đồng bào dân tộc thiểu số từ năm 2009 đến 2012” được Thủ tướng chính phủ phê duyệt ngày 04/5/2009, Cụ thể là Tiểu đề án 3 “Huy động sự tham gia của nông dân trong công tác tuyên truyền, phổ biến và vận động chấp hành pháp luật ở nông thôn” do Hội nông dân Việt Nam đảm nhiệm; Quyết định số 541/QĐ-BNN_PC ngày 24/3/2014 ban hành Kế hoạch thực hiện Tiểu đề án số 1 “Tuyên truyền phổ biến pháp luật về nông nghiệp và phát triển nông thôn cho người dân nông thôn”
Trang 351.3.3 Điều kiện về kinh tế
Điều kiện về kinh tế chính là sự cụ thể hóa mối quan hệ tác động qua lại giữa pháp luật và kinh tế Theo quan điểm Mác-Lênin, pháp luật là hiện tượng thuộc kiến trúc thượng tầng, kinh tế là hiện tượng thuộc sơ sở hạ tầng của xã hội nên giữa pháp luật và kinh tế có mối quan hệ biện chứng với nhau
Nếu pháp luật là hình thức pháp lý cho các quan hệ kinh tế tồn tại phát triển Đảm bảo cho các quan hệ kinh tế vận hành trong điều kiện ổn định, an toàn thì ngược lại việc phổ biến, giáo dục pháp luật có hiệu quả, đáp ứng được nhu cầu của đối tượng, mục tiêu đề ra hay không chính là sự đảm bảo về các điều kiện kinh tế
Một nền kinh tế phát triển là thước đo, minh chứng cho một nền pháp luật phát triển Các hình thức giáo dục pháp luật được đa dạng với nhiều loại hình phong phú, hệ thống cơ sở vật chất, chủ thể giáo dục pháp luật được quan tâm, đầu tư hay nói cách khác các nguồn lực xã hội đóng góp cho công tác giáo dục pháp luật được huy động triệt để Bên cạnh đó, nếu các điều kiện về kinh tế được đảm bảo (thu nhập bình quân trên đầu người; tiếp cận các dịch vụ xã hội)
sẽ làm cho trình độ đối tượng được nâng lên
Ngược lại, nếu một nền kinh tế lạc hậu trì trệ, kém phát triển sẽ là vật cản cho pháp luật phát triển Pháp luật là hành lang pháp lý cho kinh tế phát triển sẽ
lộ nhiều kẽ hở dễ “lách”, tính nghiêm minh, công bằng, khách quan của pháp luật không còn nữa Đối tượng được giáo dục sẽ không có nhiều điều kiện tiếp cận các hình thức giáo dục pháp luật, mất lòng tin với hệ thống pháp luật nhiều
kẽ hở và không công bằng Kinh phí, phương tiện vật chất không đảm bảo, không tạo được động lực cho chủ thể giáo dục pháp luật hoạt động
Vì vậy, một trong 4 nguyên tắc giáo dục pháp luật là “phải gắn với việc thi hành pháp luật, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng-
an ninh của đất nước, của địa phương và đời sống hàng ngày của nhân dân” [12]
Trang 361.3.4 Các điều kiện khác
Các điều kiện khác để đảm bảo cho việc giáo dục pháp luật cho hội viên hội nông dân đạt hiệu quả và mục đích đề ra ngoài các điều kiện về chính trị, pháp lý, kinh tế thì còn có các điều kiện khác: như tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội (quốc phòng- an ninh), các phong tục tập quán, lối sống của đối tượng giáo dục; sự phối kết hợp giữa các yếu tố gia đình- xã hội, giữa các cơ quan, tổ chức
Đây không phải là những điều kiện tiên quyết nhưng là những điều kiện cần và đủ cho quá trình giáo dục pháp luật đạt được mục đích đề ra Bởi nếu chỉ
có các điều kiện trên thì công tác giáo dục pháp luật sẽ gặp nhiều khó khăn trong công tác triển khai thực hiện
Ngoài ra, các điều kiện yêu cầu đối với chủ thể giáo dục pháp luật như: trình độ, năng lực pháp luật, kỹ năng, nghiệp vụ, tâm huyết, nhiệt tình với công tác giáo dục pháp luật Đảm bảo những yêu cầu đó thì công tác giáo dục pháp luật mới đạt hiệu quả
Điều kiện về nội dung giáo dục pháp luật cho hội viên hội nông dân phải chính xác, đầy đủ, rõ ràng, dễ hiểu, thiết thực và kịp thời, thường xuyên,có trọng tâm, trọng điểm Từ những nội dung giáo dục pháp luật đó, tìm ta những hình thức, phương pháp phù hợp với nội dung và đặc điểm, nhu cầu của đối tượng giáo dục pháp luật (hội viên hội nông dân)
Trang 37Kết luận chương 1
Giáo dục pháp luật cho hội viên hội nông dân là hoạt động có định hướng,
có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục tác động lên đối tượng giáo một cách có hệ thống và thường xuyên nhằm mục đích hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm pháp lý và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của pháp luật hiện hành Đó là một quá trình tác động lâu dài bền bỉ, phụ thuộc vào năng lực các loại chủ thể, đối tượng tiếp nhận, nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục và còn chịu sự chi phối đa chiều của nhiều yếu tố như: chính trị, kinh tế,
pháp lý và các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, dân trí, phong tục tập quán
Từ các vấn đề lý luận đó, sẽ là cơ sở để áp dụng vào thực tiễn hiện nay trong điều kiện xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng và văn minh thì một trong những điều kiện quan trọng là làm sao để người dân được tham gia tích cực vào các hoạt động quản lý xã hội bằng pháp luật
Trước những yêu cầu của đất nước, của dân tộc, của sự nghiệp đổi mới, đặc biệt là quá trình hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thông qua khảo sát thực trạng công tác giáo dục pháp luật cho hội viên hội nông dân tỉnh Nghệ An từ đó rút ra được những kết quả đạt được và nguyên nhân của những kết quả cũng như chỉ ra những nguyên nhân hạn chế trong quá trình tổ chức thực hiện Trên
cơ sở đó, đưa ra các quan điểm và giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật của đội ngũ cán bộ Hội; công tác giáo dục pháp luật cho hội viên trong giai đoạn hiện nay
Nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy tính tích cực, đảm bảo kiến thức pháp
lý cần thiết cho sự tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật và thực thi pháp luật Làm tốt công tác giáo dục pháp luật sẽ góp phần nâng cao nhận thức về pháp luật đối với cán bộ, hội viên hội nông dân Từ đó sẽ góp phần ổn định chính trị, phát triển sản xuất, nâng cao đời sống đồng thời cũng là điều kiện tiền đề để đẩy nhanh tốc độ hội nhập quốc tế trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là việc tiếp cận với hệ thống pháp luật thế giới
Trang 38Chương 2: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỘI VIÊN
HỘI NÔNG DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH NGHỆ AN
2.1 Khái quát đặc điểm tự nhiên kinh tế xã hội tỉnh Nghệ An
Nghệ An nằm ở vĩ độ 180 33' đến 200 01' vĩ độ Bắc, kinh độ 1030 52' đến
1050 48' kinh độ Đông, ở vị trí trung tâm vùng Bắc Trung Bộ Nghệ An là tỉnh nằm ở trung tâm vùng Bắc Trung bộ, giáp tỉnh Thanh Hóa ở phía Bắc, tỉnh Hà Tĩnh ở phía Nam, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ở phía Tây với 419 km đường biên giới trên bộ; bờ biển ở phía Đông dài 82 km Vị trí này tạo cho Nghệ An có vai trò quan trọng trong mối giao lưu kinh tế - xã hội Bắc - Nam, xây dựng và phát triển kinh tế biển, kinh tế đối ngoại và mở rộng hợp tác quốc
tế Nghệ An nằm trên các tuyến đường quốc lộ Bắc - Nam (tuyến quốc lộ 1A dài
91 km đi qua các huyện Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc, Hưng Nguyên, thị
xã Hoàng Mai và thành phốVinh, đường Hồ Chí Minh chạy song song với quốc
lộ 1A dài 132 km đi qua các huyện Quỳnh Lưu, Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, Anh Sơn, Thanh Chương và thị xã Thái Hoà, quốc lộ 15 ở phía Tây dài 149 km chạy xuyên suốt tỉnh); các tuyến quốc lộ chạy từ phía Đông lên phía Tây, nối với nước bạn Lào thông qua các cửa khẩu (quốc lộ 7 dài 225 km, quốc lộ 46 dài 90
km, quốc lộ 48 dài trên 160 km) Tỉnh có tuyến đường sắt Bắc - Nam dài 94 km chạy qua
Trang 39Nghệ An nằm trong hành lang kinh tế Đông - Tây nối liền My-an-ma - Thái Lan - Lào - Việt Nam - Biển Đông theo đường 7 đến cảng Cửa Lò Nằm trên các tuyến du lịch quốc gia và quốc tế (tuyến du lịch xuyênViệt; tuyến du lịch Vinh - Cánh đồng Chum - Luôngprabang - Viêng Chăn - Băng Cốc và ngược lại qua Quốc lộ 7 và đường 8)
Với vị trí như vậy, Nghệ An đóng vai trò quan trọng trong giao lưu kinh tế, thương mại, du lịch, vận chuyển hàng hoá với cả nước và các nước khác trong khu vực, nhất là các nước Lào, Thái Lan và Trung Quốc, là điều kiện thuận lợi
để kêu gọi đầu tư phát triển kinh tế - xã hội
Với diện tích tự nhiên là 16.490,25 km2 Hơn 80% diện tích là vùng đồi núi nằm ở phía tây gồm 10 huyện, và 1 thị xã; Phía đông là phần diện tích đồng
bằng và duyên hải ven biển gồm 7 huyện, 2 thị xã và thành phố Vinh
Nằm ở Đông Bắc dãy Trường Sơn, Nghệ An có địa hình đa dạng, phức tạp,
bị chia cắt mạnh bởi các dãy đồi núi và hệ thống sông, suối Về tổng thể, địa hình nghiêng theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, với ba vùng sinh thái rõ rệt: miền núi, trung du, đồng bằng ven biển Trong đó, miền núi chiếm tới 83% diện tích lãnh thổ Đặc điểm địa hình trên là một trở ngại lớn cho việc phát triển mạng lưới giao thông đường bộ, đặc biệt là các tuyến giao thông vùng trung du
và miền núi, gây khó khăn cho phát triển lâm nghiệp và bảo vệ đất đai khỏi bị xói mòn, gây lũ lụt cho nhiều vùng trong tỉnh Nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa nên điều kiện khí hậu của Nghệ An khá khắc nghiệt có mùa đông lạnh và chia làm hai mùa rõ rệt: mùa hạ nóng, ẩm, mưa nhiều và mùa đông lạnh, ít mưa
2.1.2 Tình hình kinh tế, văn hóa xã hội
Trong những năm gần đây, tình hình kinh tế thế giới, trong nước tiếp tục gặp nhiều khó khăn thách thức bên cạnh đó, Nghệ An còn phải hứng chịu những diễn biến phức tạp, cực đoan của thời tiết, khí hậu như: nắng nóng kéo dài, dịch bệnh diễn biến phức tạp, hạ tầng xuống cấp do mưa lũ, đặc biệt là hiện tượng cá chết hàng loạt tại vùng biển miền Trung đã tác động ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất và đời sống người dân và doanh nghiệp
Trang 40Tuy vậy, kết quả thực hiện kinh tế - xã hội của tỉnh vẫn giữ được mức ổn định và có những lĩnh vực phát triển: sản xuất nông nghiệp tiếp tục được giữ vững ổn định, cơ cấu kinh tế nội ngành có bước chuyển dịch tích cực, sản xuất công nghiệp có sự phục hồi, hoạt động dịch vụ tiếp tục phát triển; xúc tiến đầu
tư và kinh tế đối ngoại đã có bước chuyển dịch tích cực và thu được một số kết quả quan trọng; lĩnh vực văn hóa- xã hội tiếp tục có nhiều tiến bộ, an sinh xã hội được đảm bảo Cải cách hành chính, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở được quan tâm và có chuyển biến, quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo
Theo số liệu “Báo cáo tóm tắt tình hình kinh tế - xã hội năm 2016 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2017 ngày 07/12/2016 của UBND tỉnh Nghệ An, tình hình kinh tế - xã hội Nghệ An như sau:
2.1.2.1 Về phát triển kinh tế:
Tốc độ tăng tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) năm 2016 ước đạt 7,5% cao hơn tốc độ tăng trưởng của những năm gần đây (năm 2014 tăng 7,13%, năm 2015 tăng 7,31%) và cao hơn mức tăng trưởng bình quân của cả nước (ước 6,3 – 6,5%), Trong đó, nông, lâm, ngư nghiệp ước tăng 11,44%, dịch
vụ ước tăng 6,71% so với cùng kỳ
GRDP bình quân đầu người theo phương pháp tính mới năm 2016 ước đạt 28,54 triệu đồng (quy đổi tương đối theo phương pháp tính cũ năm 2016 đạt khoảng 31, 65 triệu đồng) Điều đó cho thấy kinh tế Nghệ An đang dần được phục hồi và có nhiều chuyển biến tích cực tác động trực tiếp đến đời sống người dân và doanh nghiệp
Sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tuy gặp nhiều khó khăn nhưng vẫn giữ được mức tăng trưởng ổn định Tích cực chuyển đổi cơ cấu giống lúa theo hướng giảm dần diện tích lúa lai, tăng diện tích sản xuất lúa chất lượng, có giá trị cao, dễ tiêu thụ Tổng sản lượng lương thực cả năm ước đạt 1,25 triệu tấn,