1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Bảo lãnh đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự, lí luận và thực tiễn tại tòa án nhân dân tỉnh thanh hóa

53 13 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 53
Dung lượng 690,33 KB

Cấu trúc

  • A. MỞ ĐẦU (4)
    • 1. Lí do chọn đề tài (4)
    • 2. Tình hình nghiên cứu (5)
    • 3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu (6)
    • 4. Phương pháp và đối tượng nghiên cứu (6)
    • 5. Kết cấu đề tài (6)
  • B. NỘI DUNG (8)
  • CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ BẢO LÃNH BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ DÂN SỰ (8)
    • 1.1. Khái niệm về biện pháp bảo lãnh (8)
    • 1.2. Đặc điểm của bảo lãnh (9)
    • 1.3. Đối tƣợng và phạm vi bảo lãnh (12)
    • 1.4. Lịch sử phát triển của chế định bảo lãnh ở Việt Nam qua các thời kì (14)
  • CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP UẬT HIỆN H NH VỀ BIỆN PHÁP BẢO NH V THỰC TI N ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP BẢO LÃNH TẠI TỈNH THANH HÓA (0)
    • 2.1. Quy định của pháp luật hiện hành về biện pháp bảo lãnh (16)
      • 2.1.1. Điều kiện có hiệu lực của bảo lãnh (16)
      • 2.1.2. Nội dung của bảo lãnh (20)
      • 2.1.3. Trách nhiệm bảo lãnh liên đới (22)
      • 2.1.4. Thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh (25)
      • 2.1.5. Thời hạn bảo lãnh (26)
      • 2.1.6. Quan hệ giữa người bảo lãnh với người được bảo lãnh (28)
      • 2.1.7. Người được bảo lãnh lâm vào tình trạng phá sản (31)
      • 2.1.8. Huỷ bỏ chấm ứt ảo lãnh (0)
    • 2.2. Thực tiễn giải quyết các vụ án về bảo lãnh trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá (37)
  • CHƯƠNG 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP BẢO LÃNH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THANH HÓA (0)
    • 3.1. Những yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện các quy định pháp luật về biện pháp bảo lãnh (44)
    • 3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định trong Bộ luật dân sự năm (46)
    • 3.3. Một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hoạt động áp dụng pháp luật về bảo lãnh tại Thanh Hoá (50)
    • C. KẾT LUẬN (52)
    • D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO (0)

Nội dung

NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ BẢO LÃNH BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ DÂN SỰ

Khái niệm về biện pháp bảo lãnh

Giao dịch bảo đảm là một quy định pháp luật quan trọng đã xuất hiện sớm ở nhiều quốc gia, tạo ra hành lang pháp lý an toàn cho việc bảo đảm nghĩa vụ dân sự và phát triển kinh tế Kinh nghiệm quốc tế cho thấy quy định này góp phần ổn định các quan hệ dân sự và kinh tế, đồng thời giảm thiểu tranh chấp phát sinh từ việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.

Việc xác lập các giao dịch bảo đảm nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia, đặc biệt là bên có quyền Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ, bên có quyền có thể yêu cầu cơ quan nhà nước can thiệp để buộc bên vi phạm thực hiện nghĩa vụ Tuy nhiên, việc này không luôn đảm bảo quyền lợi cho bên có quyền nếu bên vi phạm không có khả năng thực hiện nghĩa vụ.

Để khắc phục tình trạng thiếu chủ động trong việc thực hiện nghĩa vụ dân sự, pháp luật cho phép các bên thỏa thuận các biện pháp bảo đảm giao kết hợp đồng và thực hiện nghĩa vụ Những biện pháp này giúp người có quyền chủ động tác động đến tài sản của bên kia nhằm bảo vệ quyền lợi của mình khi bên kia không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ Trong đó, biện pháp bảo lãnh là một trong những giải pháp hiệu quả, đảm bảo quyền lợi cho người có quyền trong quá trình giao kết hợp đồng.

Bảo lãnh là một phương thức bảo đảm nghĩa vụ dân sự, được phân thành hai hình thức: bảo lãnh đối nhân và bảo lãnh đối vật Bảo lãnh đối nhân chủ yếu áp dụng trong các quan hệ phi tài sản như hình sự, tố tụng hình sự, chế tài hành chính và quan hệ phi tài sản trong dân sự Trong khi đó, bảo lãnh đối vật được sử dụng trong các hợp đồng kinh tế và dân sự có yếu tố tài sản Pháp luật cho phép người thứ ba cam kết thay nghĩa vụ cho người có nghĩa vụ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện nghĩa vụ mà không cần tài sản đảm bảo.

Trong pháp luật dân sự Việt Nam, bảo lãnh được định nghĩa tại Điều 366 Bộ luật Dân sự năm 1995, theo đó, bảo lãnh là cam kết của người thứ ba (người bảo lãnh) với bên có quyền (người nhận bảo lãnh) để thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (người được bảo lãnh) trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ khi đến hạn.

Theo quy định tại điều 361 của Bộ luật Dân sự năm 2005, bảo lãnh được định nghĩa là sự cam kết của bên bảo lãnh (người thứ ba) với bên nhận bảo lãnh (bên có quyền) để thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh (bên có nghĩa vụ) trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ khi đến hạn.

Bảo lãnh là cam kết của người nhận bảo lãnh trong việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và quyền lợi khi người được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng theo yêu cầu của bên yêu cầu bảo lãnh.

Đặc điểm của bảo lãnh

Các biện pháp bảo đảm, bao gồm biện pháp bảo lãnh, là hình thức giao dịch bảo đảm có đầy đủ các đặc điểm chung của các biện pháp bảo đảm khác.

Các biện pháp bảo đảm chỉ được áp dụng khi có sự thỏa thuận giữa các bên liên quan Điều này có nghĩa là các biện pháp bảo đảm không tự động phát sinh mà cần có sự đồng ý của các chủ thể.

10 sinh bên cạnh các hợp đồng chính, trừ trường hợp các quan hệ vay tiền tín dụng trong lĩnh vực ngân hàng

Các biện pháp bảo đảm được xem như hợp đồng phụ nhằm đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng chính Những biện pháp này chỉ có thể được thiết lập sau hoặc đồng thời với việc ký kết hợp đồng chính.

Biện pháp bảo lãnh là một phần quan trọng trong hệ thống các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, và nó mang đầy đủ các đặc điểm chung của hệ thống này Bên cạnh đó, bảo lãnh còn có những ý nghĩa và đặc điểm riêng biệt, thể hiện tính chất cụ thể của nó trong việc đảm bảo nghĩa vụ.

Thứ nhất: Bảo lãnh là quan hệ giữa ba bên: bên bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh và ên đƣợc bảo lãnh

Trong các biện pháp bảo đảm, ảo lãnh và tín chấp là hai phương thức có sự tham gia trực tiếp của bên thứ ba Bảo lãnh tạo ra mối quan hệ giữa ba bên: bên bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh Khi bảo lãnh được hình thành, bên bảo lãnh cam kết thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh khi bên này không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đến hạn.

Thứ hai: đối tƣợng ùng để bảo đảm trong bảo lãnh có thể là công việc hoặc tài sản

Người bảo lãnh cần có tài sản hoặc thực hiện một công việc nhất định để đảm bảo nghĩa vụ cho người được bảo lãnh.

Trong trường hợp bảo lãnh cho một công việc, người bảo lãnh cần phải có khả năng thực hiện công việc đó Nếu không đủ khả năng, họ sẽ không được coi là đối tượng hợp lệ cho bảo lãnh.

Khi tài sản được sử dụng làm đối tượng bảo lãnh, tài sản đó phải thuộc quyền sở hữu của người bảo lãnh và không được nằm trong tranh chấp về quyền sở hữu.

11 sở hữu cũng như sử dụng; tài sản bảo lãnh đó phải được phép lưu thông; tài sản bảo lãnh đó phải đƣợc xác định cụ thể

Trong trường hợp bảo lãnh, bên bảo lãnh không cần xác định cụ thể tài sản bảo lãnh mà phải chịu trách nhiệm bảo lãnh bằng toàn bộ tài sản của mình Điều này có nghĩa là khi thực hiện giao dịch bảo lãnh, người bảo lãnh sẽ dùng tài sản cá nhân để đảm bảo cho khoản vay của người được bảo lãnh, tạo ra nghĩa vụ bảo lãnh toàn diện.

Bảo lãnh là biện pháp bảo đảm đối nhân, trong đó nghĩa vụ của người thiếu nợ được bảo đảm không bằng tài sản của họ mà bằng tài sản của người thứ ba, với sự đồng ý của người này Điều này có thể dẫn đến rủi ro, vì nếu tình trạng tài chính của người thứ ba thay đổi, khả năng trả nợ cho bên chủ nợ sẽ không chắc chắn Tiêu chí để phân loại các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dựa vào việc có hay không có tài sản bảo đảm và quyền thực hiện của bên có quyền đối với tài sản đó Đối với biện pháp bảo lãnh, bên có quyền chỉ được yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ mà không có quyền đối với tài sản cụ thể nào của họ Do đó, bảo lãnh thực chất là biện pháp bảo đảm đối nhân.

Bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ ngay cả khi bên được bảo lãnh chưa vi phạm nghĩa vụ Điều này áp dụng trong các trường hợp như người được bảo lãnh qua đời, pháp nhân được bảo lãnh chấm dứt, hoặc khi người được bảo lãnh lâm vào tình trạng phá sản Trong những tình huống này, bên nhận bảo lãnh vẫn có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ, mặc dù bên được bảo lãnh không có sự vi phạm.

12 hiện nghĩa vụ thay cho ên đƣợc bảo lãnh ngay cả khi bên bảo lãnh không vi phạm nghĩa vụ.

Đối tƣợng và phạm vi bảo lãnh

Trong quan hệ nghĩa vụ, các bên thường hướng tới lợi ích vật chất, và chỉ thông qua lợi ích vật chất mới có thể bảo đảm các lợi ích khác Tất cả các biện pháp bảo đảm, trừ trường hợp tín chấp, đều phải liên quan đến tài sản hoặc việc thực hiện một công việc cụ thể Do đó, người bảo lãnh cần phải sử dụng tài sản hoặc thực hiện công việc để đảm bảo nghĩa vụ cho người được bảo lãnh Nếu đối tượng của nghĩa vụ là việc thực hiện một công việc, thì bảo lãnh cũng phải liên quan đến việc thực hiện công việc đó, và người bảo lãnh cần phải có khả năng thực hiện công việc đó.

Trong trường hợp bảo lãnh liên quan đến một khoản tiền hoặc tài sản có giá trị, đối tượng bảo lãnh cần phải là khoản tiền hoặc tài sản thuộc quyền sở hữu của người bảo lãnh.

Trường hợp đối tượng của bảo lãnh là tài sản mà theo quy định tại điều 320

B DS năm 2005 quy định về các tài sản bảo đảm cụ thể kèm theo các điều kiện sau :

Vật được sử dụng làm đối tượng bảo lãnh có thể là tài sản hiện có hoặc sẽ được hình thành trong tương lai, bao gồm cả động sản và bất động sản.

Tiền và giấy tờ có giá, bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu, ký phiếu, chứng chỉ tiền gửi, séc, và các giấy tờ có giá khác theo quy định của pháp luật, là đối tượng của bảo lãnh Những tài sản này có giá trị quy đổi bằng tiền và được phép giao dịch trên thị trường.

Quyền tài sản, bao gồm quyền sử dụng đất, quyền phát sinh từ hợp đồng, quyền nhận tiền bảo hiểm đối với tài sản bảo đảm, và quyền đối với phần góp vốn doanh nghiệp, là những đối tượng quan trọng trong bảo lãnh.

Các tài sản bảo đảm phải đáp ứng các điều kiện sau:

- Tài sản do các bên thoả thuận và thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm

- Tài sản bảo lãnh không phải là đối tƣợng tranh chấp về quyền sở hữu cũng nhƣ sử dụng

- Tài sản bảo lãnh phải được phép lưu thông

- Tài sản bảo lãnh phải đƣợc xác định cụ thể

Một tài sản có thể được sử dụng làm bảo lãnh cho nhiều nghĩa vụ, miễn là tại thời điểm giao dịch, giá trị tài sản đó lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm, trừ khi có thỏa thuận hoặc quy định pháp luật khác Để bảo vệ quyền lợi của các bên trong quan hệ bảo lãnh, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần ban hành văn bản hướng dẫn nhằm phân biệt rõ hai loại bảo lãnh khác nhau.

Khi các bên không xác định rõ đối tượng bảo lãnh là tài sản cụ thể, thì đối tượng bảo lãnh sẽ được hiểu là tài sản chung của người bảo lãnh Trong trường hợp này, quyền định đoạt tài sản của người bảo lãnh sẽ không bị hạn chế bởi nghĩa vụ bảo lãnh.

Khi người bảo lãnh cam kết sử dụng tài sản cụ thể của mình để thực hiện nghĩa vụ thay cho người được bảo lãnh, văn bản bảo lãnh cần ghi rõ loại tài sản đó Hình thức bảo lãnh này tương tự như việc một bên thứ ba dùng tài sản của mình để thế chấp hoặc cầm cố cho người có nghĩa vụ, được gọi là bảo lãnh đối vật Trong trường hợp này, người bảo lãnh không được coi là đối tượng của bảo lãnh cho đến khi nghĩa vụ dân sự được đảm bảo bằng biện pháp này hoàn thành.

Phạm vi bảo lãnh đề cập đến nghĩa vụ mà bên bảo lãnh phải thực hiện, có thể bao gồm một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ Nếu không có thỏa thuận nào khác, bên bảo lãnh sẽ phải đảm bảo cả khoản nợ gốc, lãi suất, tiền phạt và bồi thường thiệt hại trong phạm vi bảo lãnh.

Việc xác định phạm vi bảo lãnh là rất quan trọng, đặc biệt trong bảo lãnh đối vật Quyền lợi của người nhận bảo lãnh chỉ được đảm bảo khi giá trị tài sản bảo lãnh bằng hoặc lớn hơn nghĩa vụ bảo lãnh Nếu nghĩa vụ bảo lãnh là khoản tiền hoặc tài sản khác mà không có thỏa thuận, phạm vi bảo lãnh sẽ bao gồm toàn bộ nợ gốc, lãi, tiền phạt và bồi thường thiệt hại Tuy nhiên, phạm vi này có thể chỉ bao gồm nợ gốc, một phần nợ gốc hoặc chỉ một khoản lãi, tùy thuộc vào thỏa thuận giữa các bên.

Nếu nghĩa vụ bảo lãnh liên quan đến công việc cần thực hiện liên tục, thì phạm vi bảo lãnh sẽ bao gồm toàn bộ công việc đó Tuy nhiên, nếu công việc có thể thực hiện theo từng phần, các bên có thể thỏa thuận để xác định phạm vi bảo lãnh chỉ áp dụng cho một phần công việc cụ thể.

Lịch sử phát triển của chế định bảo lãnh ở Việt Nam qua các thời kì

Bảo lãnh là một khái niệm lâu đời, xuất phát từ xã hội phong kiến, nơi lí trưởng và những người có quyền lực bảo lãnh cho tù nhân trong thời gian thi hành án, cũng như cha mẹ bảo lãnh cho con cái Qua thời gian, khái niệm này đã phát triển và mở rộng sang nhiều lĩnh vực dân sự và các khía cạnh khác trong đời sống xã hội.

Trong thời kỳ phong kiến, luật dân sự Việt Nam không được xây dựng thành một bộ luật độc lập, mà được thể hiện qua các điều khoản trong các bộ luật khác nhau.

Trong lịch sử pháp luật Việt Nam, 15 luật phong kiến như “Lê Triều Hình Luật” (Luật Hồng Đức) và “Nguyễn Triều Hình Luật” (Hoàng Việt Luật Lệ) đã được áp dụng Khi người Pháp chiếm đóng Việt Nam, các bộ dân luật được áp dụng riêng rẽ tại ba miền Cụ thể, Bộ Dân Luật Nam Kỳ ra đời năm 1883, Bộ Dân Luật Bắc Kỳ năm 1931, và Bộ Dân Luật Trung Kỳ (Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật) năm 1936 Tuy nhiên, những bộ luật này còn đơn giản và chưa quy định cụ thể về các quan hệ dân sự, biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự cũng như các phương thức bảo lãnh.

Sau khi nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật không thể thực hiện ngay lập tức Do đó, việc giải quyết các quan hệ bảo lãnh chủ yếu dựa trên kinh nghiệm tổng kết từ hoạt động của tòa án.

Ngày 28 tháng 10 năm 1995 tại kì họp thứ 8 quốc hội khoá IX đã thông qua

B DS năm 1995 B DS năm 1995 có hiệu lực từ ngày mùng 1 tháng 7 năm

Năm 1996, biện pháp bảo lãnh được quy định cụ thể trong Bộ luật Dân sự (BLDS) từ Điều 366 đến Điều 376, tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc cho việc giải quyết các vụ việc liên quan đến nghĩa vụ bảo lãnh Sau gần 10 năm, vào ngày 14 tháng 6 năm 2005, Quốc hội khóa XI đã thông qua Bộ luật Dân sự năm 2005, thay thế cho Bộ luật Dân sự năm 1995.

Bộ luật Dân sự năm 2005 bao gồm 36 chương và 777 điều, trong đó các quy định về giải quyết nghĩa vụ bảo lãnh được nêu tại mục 5 “bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự” trong phần thứ 3 “nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự”, từ điều 361 đến điều 371 Các biện pháp bảo lãnh theo quy định của Bộ luật này hầu như không có sự khác biệt so với các quy định trước đó.

Bộ luật Dân sự (B DS) năm 1995 quy định về "tín chấp của tổ chức chính trị-xã hội" tại điều 376, nhưng B DS năm 2005 đã không còn quy định này và thay vào đó là quy định về "xử lý tài sản của bên bảo lãnh" tại điều 369 Mặc dù vậy, các quy định trong B DS năm 2005 vẫn được xem là căn cứ pháp lý cao nhất về bảo lãnh.

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP UẬT HIỆN H NH VỀ BIỆN PHÁP BẢO NH V THỰC TI N ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP BẢO LÃNH TẠI TỈNH THANH HÓA

Quy định của pháp luật hiện hành về biện pháp bảo lãnh

2.1.1 Điều kiện có hiệu lực của bảo lãnh

 Điều kiện có hiệu lực của giao dịch bảo lãnh

Nghĩa vụ bảo lãnh được hình thành từ hợp đồng giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh Để nghĩa vụ bảo lãnh có giá trị pháp lý, hợp đồng này cần đáp ứng các điều kiện có hiệu lực chung cũng như các điều kiện đặc thù của bảo lãnh Cụ thể, nghĩa vụ bảo lãnh hợp pháp phải thỏa mãn các điều kiện về chủ thể.

Theo Điều 361 Bộ luật Dân sự năm 2005, bảo lãnh là cam kết của bên bảo lãnh (người thứ ba) với bên nhận bảo lãnh (bên có quyền) để thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh (bên có nghĩa vụ) trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ Từ khái niệm này, có thể xác định các chủ thể của bảo lãnh bao gồm: bên bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh.

Quan hệ bảo lãnh là một mối quan hệ tay ba giữa người có quyền, người có nghĩa vụ và người thứ ba Trong đó, các bên tham gia bao gồm người bảo lãnh (người thứ ba), người nhận bảo lãnh (người có quyền) và người được bảo lãnh (người có nghĩa vụ) Mối quan hệ này hình thành dựa trên sự cam kết giữa các bên và sự đồng ý của người có quyền.

Người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ dân sự phải là cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và khả năng về tài sản Nếu cá nhân không có năng lực hành vi đầy đủ hoặc không nhận thức được hành động của mình, việc bảo lãnh sẽ bị coi là vô hiệu Ngược lại, nếu người bảo lãnh có năng lực hành vi nhưng thiếu khả năng tài chính, họ cũng không thể đảm bảo nghĩa vụ khi đến hạn Do đó, để hợp đồng bảo lãnh có hiệu lực, các chủ thể phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện này.

Trong thực tế, chủ thể cam kết bảo lãnh không phải chỉ là cá nhân mà còn có các chủ thể khác nhƣ: pháp nhân…

Phòng giao dịch X đã cấp cho ông Avay khoản vay 215.000.000 đồng với thời hạn 12 tháng và lãi suất 1,3%/tháng, lãi suất quá hạn là 1,65%/tháng, với ngày trả nợ vào 4 tháng 5 năm 2014 Khoản vay này được đảm bảo bằng hai chiếc xe ôtô do công ty Y bảo lãnh, trong đó công ty X là chủ thể bảo lãnh và được công nhận là một pháp nhân theo luật doanh nghiệp.

Theo Điều 367 Bộ luật Dân sự năm 1995, việc bảo lãnh phải được lập thành văn bản có chứng nhận của công chứng hoặc chứng thực của ủy ban nhân dân có thẩm quyền, nhưng quy định này không rõ ràng Nếu không có quy định hay thỏa thuận bắt buộc công chứng, thì liệu hợp đồng bảo lãnh có cần lập thành văn bản hay không? Do đó, Bộ luật Dân sự năm 2005 đã sửa đổi tại Điều 362, quy định rằng việc bảo lãnh phải được lập thành văn bản, có thể là văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính Trong trường hợp pháp luật có quy định, văn bản bảo lãnh phải được công chứng hoặc chứng thực.

Bảo lãnh cần được thể hiện bằng văn bản, vì hình thức này đóng vai trò quan trọng trong việc xác lập căn cứ thực hiện hợp đồng Nó cũng là cơ sở để xác định trách nhiệm của các bên trong trường hợp xảy ra tranh chấp.

Hợp đồng bảo lãnh không chỉ cần được lập thành văn bản mà còn phải được công chứng, chứng thực nếu các bên có thỏa thuận hoặc theo quy định Việc này là điều kiện quan trọng để bảo đảm hiệu lực của bảo lãnh Đối với tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, các bên cần công chứng, chứng thực khi giao kết hợp đồng bảo lãnh để xác định giá trị pháp lý của giao dịch, bao gồm tư cách chủ thể, ý chí tự nguyện và mục đích giao dịch Trong một số trường hợp, biện pháp bảo lãnh cũng phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền để phát sinh hiệu lực Chẳng hạn, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất phải có chứng nhận của công chứng nhà nước theo quy định tại Điều 130 Luật đất đai, với lựa chọn giữa công chứng nhà nước hoặc chứng thực của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất đối với hộ gia đình, cá nhân.

Khi pháp luật yêu cầu công chứng hoặc chứng thực mà các bên không tuân thủ, chúng ta sẽ áp dụng các quy định chung về vi phạm hình thức hợp đồng bắt buộc.

Trong trường hợp không có quy định cụ thể về hình thức công chứng, chứng thực, việc bảo lãnh chỉ cần lập thành văn bản Mục đích và nội dung của giao dịch bảo lãnh phải tuân thủ pháp luật và không vi phạm đạo đức xã hội.

Bảo lãnh bao gồm các điều khoản mà các bên tham gia giao dịch thỏa thuận với nhau Những điều khoản này xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan trong giao dịch.

19 thể cũng xác định trách nhiệm dân sự của các chủ thể trong trường hợp các chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng cam kết

Mục đích của giao dịch bảo lãnh là đáp ứng nhu cầu và lợi ích vật chất hoặc tinh thần của các bên tham gia Mỗi giao dịch bảo lãnh đều có một mục tiêu cụ thể, và mục tiêu này được thể hiện qua các điều khoản của giao dịch Để đạt được mục đích này, các bên cần thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết khi xác lập giao dịch.

“Điều cấm của pháp luật” là những quy định không cho phép thực hiện hành vi nhất định, trong khi “đạo đức xã hội” là những chuẩn mực ứng xử được cộng đồng thừa nhận Cả quy phạm pháp luật và quy phạm đạo đức đều nhằm điều tiết hành vi con người và có chung đặc điểm là tiêu chuẩn đánh giá hành vi Ngoài ra, người tham gia giao dịch bảo lãnh hoàn toàn tự nguyện, dựa trên nguyên tắc “tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận”, theo quy định tại Điều 4 Bộ luật Dân sự năm 2005.

Bản chất của giao dịch bảo lãnh là hành vi tự nguyện nhằm tạo ra quyền và nghĩa vụ mà các bên mong muốn Điều này thể hiện qua sự thống nhất ý chí giữa các bên mà không bị ảnh hưởng bởi tác động bên ngoài Ví dụ, trong giao dịch bảo lãnh, nếu một người không nhận thức được hành vi của mình, thì giao dịch đó có thể bị coi là không hợp lệ.

 Thời điểm có hiệu lực của giao dịch bảo lãnh

Theo quy định tại khoản 1 điều 10 Nghị định 163/NĐ-CP, giao dịch bảo đảm hợp pháp có hiệu lực ngay từ thời điểm giao kết, được xác định theo điều 404 Bộ luật Dân sự năm 2005, trừ trường hợp có quy định khác.

- Giao dịch bảo đảm có hiệu lực kể từ thời điểm công chứng hoặc chứng thực trong trường hợp pháp luật có quy định

Thực tiễn giải quyết các vụ án về bảo lãnh trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá

Các vụ án bảo lãnh thường được xử tại Toà án nhân dân cấp huyện, trong khi Toà án nhân dân tỉnh xử lý các vụ án phức tạp hoặc các bản án có kháng cáo từ đương sự và kháng nghị từ viện trưởng viện kiểm sát nhân dân cấp trên.

Theo thống kê từ ngành Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa, số lượng vụ việc liên quan đến giải quyết trách nhiệm dân sự ngày càng gia tăng trong những năm gần đây.

- Bốn tháng đầu năm 2015: 297 vụ

( Nguồn: Báo cáo tổng kết của nghành Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá )

Qua số liệu trên cho thấy: Các vụ án dân sự hằng năm chiếm số lượng tương đối cao, số vụ án dân sự có xu hướng tăng

Năm 2012 có tổng số là 369 vụ nhƣng đến năm 2013 đã tăng lên 405 vụ và đến năm 2014 đã lên đến 476 vụ Trong bốn tháng đầu của năm 2015 đã có 297

38 vụ thì trong những tháng tiếp theo sẽ còn nhiều vụ án đƣợc giải quyết trên địa bàn tỉnh với số lƣợng vụ án ngày càng tăng

Trong quá trình giải quyết các vụ án bảo lãnh, cán bộ Tòa án đã áp dụng các quy định của Bộ luật Dân sự, góp phần quan trọng vào việc thực thi pháp luật và ổn định cuộc sống của các chủ thể Tuy nhiên, như đã phân tích, Bộ luật Dân sự chỉ đưa ra những quy định chung, dẫn đến việc mỗi thẩm phán hiểu và áp dụng khác nhau, gây ra sự không nhất quán trong cách giải quyết các yêu cầu bảo lãnh Điều này ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các bên liên quan, nhiều trường hợp không đạt được sự công bằng theo phán quyết của Tòa án Nghiên cứu các bản án bảo lãnh tại tỉnh Thanh Hóa cho thấy rõ những vấn đề này.

Vụ án giữa chị Nguyễn Thị Hiền và ông Hà Văn ƣơng:

Vào ngày 4 tháng 5 năm 2012, chị Nguyễn Thị Hiền đã cho ông Hà Văn ƣơng vay 115.000.000đ để kinh doanh nhà hàng, với thời hạn vay 12 tháng và lãi suất 1,1%/tháng Tài sản đảm bảo là một chiếc ô tô do chị Hà Thị Hoa bảo lãnh Tuy nhiên, đến hạn, ông ƣơng không trả nợ đúng theo thỏa thuận, hiện còn nợ gốc 115.000.000đ và lãi 16.330.250đ tính đến ngày 17 tháng 9 năm 2014 Chị Hiền yêu cầu ông ƣơng thanh toán toàn bộ số tiền nợ, bao gồm gốc và lãi, trong đó lãi tính đến ngày 16 tháng 1 năm 2014 là 21.412.000đ.

Vào ngày 4/11/2013, ông ƣơng đã thừa nhận nợ chị Hiền số tiền gốc 115.000.000đ, cùng với lãi suất phát sinh từ việc vay mượn để kinh doanh nhưng không thành công Để đảm bảo khoản vay, con gái ông, chị Hoa, đã đứng ra bảo lãnh bằng tài sản là một chiếc ô tô của mình.

Ông đề nghị chị ƣơng cho vay chiếc xe ô tô để trả nợ, và phần thiếu hụt còn lại sẽ được thanh toán bằng tài sản nhà đất của vợ chồng.

Vào ngày 12/12/2013, chị Hoa, con gái ông ƣơng, đã đứng ra bảo lãnh cho ông ƣơng vay 115.000.000đ bằng tài sản bảo đảm là chiếc xe ôtô của chị Trong trường hợp tài sản không đủ để trả nợ, ông ƣơng sẽ phải chịu trách nhiệm trả nợ tự thân.

Tòa án nhân dân huyện Cẩm Thủy đã ra phán quyết buộc ông ƣơng phải thanh toán cho chị Hiền số tiền nợ gốc 115.000.000đ và tiền lãi tính đến ngày 16/1/2014 là 21.312.000đ Chị Hoa đã đứng ra bảo lãnh bằng một chiếc xe con để đảm bảo cho khoản vay của ông ƣơng Nếu ông ƣơng không trả được nợ, tài sản bảo đảm sẽ được bán để thu hồi nợ cho chị Hiền Ông ƣơng cũng phải chịu án phí kinh doanh thương mại theo quy định.

Trong vụ án này, ông Ương đã vay tiền từ bà Hiền và con gái ông, chị Hoa, đã dùng tài sản của mình để đảm bảo cho khoản vay Khi ông Ương không thực hiện nghĩa vụ trả nợ, toà án xác định rằng chị Hoa đã bảo lãnh khoản vay với tài sản bảo đảm là một chiếc xe con Nếu ông Ương không trả được nợ, tài sản này sẽ được sử dụng để thu hồi nợ cho bà Hiền Điều này cho thấy nghĩa vụ trả nợ được bảo đảm bởi sự bảo lãnh của người thứ ba, và nghĩa vụ bảo lãnh lại được đảm bảo bằng tài sản của người bảo lãnh Tài sản ở đây được sử dụng để bảo đảm cho chính nghĩa vụ bảo lãnh.

Cách giải quyết của tòa án cho rằng "nếu ông ương không trả được nợ thì tài sản bảo đảm sẽ được án để thu hồi nợ" không thực sự thuyết phục Thay vào đó, tòa án cần xem xét rằng nếu ông ương không có khả năng trả nợ, thì chị Hoa sẽ phải có trách nhiệm trả nợ thay Trong trường hợp chị Hoa không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ này, tài sản bảo đảm sẽ được thu hồi để thanh toán nợ.

Từ việc giải quyết vụ án bảo lãnh tại tỉnh Thanh Hóa, có thể nhận thấy rõ những nguyên nhân dẫn đến tình hình xét xử các vụ án bảo lãnh còn tồn tại nhiều hạn chế.

Khi xét xử các vụ án bảo lãnh tại tỉnh, Tòa án không đề cập đến việc xác định điều kiện có hiệu lực của bảo lãnh, tức là chưa rõ việc bảo lãnh của các bên có đúng theo quy định pháp luật hay không Cần làm rõ điều kiện về chủ thể, bao gồm năng lực hành vi dân sự và khả năng tài sản Trong vụ án giữa chị Hiền và ông ƣơng, Tòa án không nêu rõ liệu bảo lãnh giữa chị Hoa và ông ƣơng có đáp ứng điều kiện về chủ thể hay không Dù chị Hoa đã dùng tài sản của mình, cụ thể là hai chiếc xe ôtô, để bảo đảm cho khoản vay của ông ƣơng, điều này ngầm chỉ ra rằng chị có khả năng tài sản, nhưng Tòa án lại không đề cập đến năng lực hành vi dân sự của chị Hoa trong quá trình xét xử.

Để đảm bảo tính hợp pháp, hình thức bảo lãnh cần được xác định rõ ràng Theo quy định của pháp luật, việc bảo lãnh phải được lập thành văn bản và cần có công chứng, chứng thực từ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

Việc xác định đối tượng bảo lãnh là rất quan trọng, vì lợi ích mà các bên trong quan hệ nghĩa vụ hướng tới chủ yếu là lợi ích vật chất Người bảo lãnh phải đảm bảo nghĩa vụ bằng tài sản hoặc thực hiện công việc cụ thể Nếu nghĩa vụ chính là thực hiện công việc để thỏa mãn quyền lợi, thì đối tượng bảo lãnh cũng phải là công việc đó và người bảo lãnh cần có khả năng thực hiện Ngược lại, nếu nghĩa vụ chính liên quan đến tài sản, thì tài sản đó phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, không tranh chấp về quyền sở hữu, được phép lưu thông và xác định rõ ràng.

Trong vụ án giữa chị Hiền và ông ƣơng, đối tượng bảo lãnh là tài sản, cụ thể là chiếc xe ô tô của chị Hoa, con gái ông ƣơng Chị Hoa đã bảo lãnh cho ông ƣơng với chiếc xe này nhằm đảm bảo cho khoản tiền vay Tuy nhiên, khi Tòa án giải quyết, không đề cập đến việc chiếc xe có thuộc sở hữu của chị Hoa hay không, cũng như vấn đề tranh chấp quyền sở hữu và quyền sử dụng, đây là một thiếu sót trong quá trình xử lý vụ án.

Thứ ba, về phạm vi bảo lãnh có thể là một phần hay toàn bộ nghĩa vụ

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP BẢO LÃNH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THANH HÓA

Ngày đăng: 25/08/2021, 15:43

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w