Mục đích, nhiệm vụ giải quyết đề tài
Bài viết này phân tích và làm rõ các vấn đề lý luận, pháp luật liên quan đến thi hành án dân sự, đồng thời đánh giá thực trạng hoạt động thi hành án tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kon Tum Qua đó, tác giả đưa ra một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự trong khu vực này.
- Làm rõ những cơ sở lý luận về thi hành án dân sự
- Phân tích những quy định pháp luật về thi hành án dân sự
Trong bài viết này, chúng tôi sẽ phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động thi hành án dân sự tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kon Tum Qua đó, chúng tôi sẽ đưa ra một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác thi hành án Mục tiêu là cải thiện quy trình, tăng cường sự minh bạch và đảm bảo quyền lợi cho người dân, từ đó góp phần vào việc nâng cao niềm tin của cộng đồng vào hệ thống tư pháp.
Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận và pháp luật (Luật Thi hành án dân sự 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) và các văn bản hướng dẫn thi hành)
- Nghiên cứu hồ sơ thi hành án
- Quan sát (Thực tiễn thực tập tại đơn vị)
- So sánh, áp dụng pháp luật vào thực tiễn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dụng đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Tổng quan về Cục Thi hành án dấn sự tỉnh Kon Tum
Chương II: Một số vấn đề lý luận và quy định pháp luật hiện hành về hoạt động thi hành án dân sự
Chương III: Thực tiên hoạt động thi hành án dân sự tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kon Tum
TỔNG QUAN VỀ CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH KON TUM
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
1.1.1 Tên, địa chỉ, điện thoại, fax
- Tên: Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kon Tum
- Địa chỉ: số 42 Trương Hán Siêu, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum
1.1.2 Quá trình hình thành và phát triển a Giai đoạn trước năm 1993
Trong giai đoạn từ năm 1993 đến 2009, công tác thi hành án dân sự đã được chuyển giao từ Tòa án nhân dân các cấp sang các cơ quan thuộc Chính Phủ theo Nghị Quyết của Quốc hội khóa IX vào ngày 06/10/1992 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 đã được ban hành, tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng hệ thống tổ chức các cơ quan thi hành án dân sự trên toàn quốc.
Vào tháng 7 năm 1993, cùng với các địa phương khác trên cả nước, các cơ quan Thi hành án dân sự tại tỉnh Kon Tum đã được thành lập Cấp tỉnh có Phòng Thi hành án thuộc Sở Tư pháp, trong khi cấp huyện có Đội Thi hành án thuộc Phòng Tư pháp.
Khi mới thành lập theo Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993, toàn tỉnh có Phòng Thi hành án và 5 Đội thi hành án huyện, thị xã với 09 cán bộ, công chức, trong đó có 4 Chấp hành viên Trình độ chuyên môn của cán bộ lúc bấy giờ rất hạn chế, với 06 trung cấp, 01 sơ cấp và 02 chưa qua đào tạo Tình trạng thiếu Chấp hành viên và cán bộ không đủ tiêu chuẩn theo quy định là một trong những khó khăn lớn nhất đối với công tác tổ chức cán bộ vào thời điểm đó.
Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 đã tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng cho công tác thi hành án, nhưng sau 10 năm áp dụng, đã bộc lộ nhiều hạn chế không còn phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội Do đó, vào ngày 14/01/2004, Ủy ban Thường vụ Quốc Hội đã thông qua Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004, kế thừa và sửa đổi từ Pháp lệnh năm 1993 Theo đó, các Phòng và Đội Thi hành án không còn chịu sự quản lý trực tiếp của Sở Tư pháp và Phòng Tư pháp, mà được đổi tên thành Thi hành án dân sự cấp tỉnh và cấp huyện Tuy nhiên, Giám đốc Sở Tư pháp vẫn giữ quyền quản lý một số công tác tổ chức, cán bộ của Thi hành án dân sự địa phương theo ủy quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
Tính đến năm 2004, ngành Thi hành án dân sự tỉnh Kon Tum bao gồm 1 đơn vị Thi hành án dân sự tỉnh và 9 đơn vị cấp huyện, thị, với tổng số chấp hành viên là 27 người Giai đoạn này kéo dài từ năm 1993 cho đến nay.
Ngày 14/11/2008, Quốc Hội khóa XII đã thông qua Luật Thi hành án dân sự và Nghị quyết số 24/2008/QH12 nhằm thực hiện chủ trương cải cách tư pháp của Đảng Để triển khai luật này, Chính phủ ban hành Nghị định số 74/2009/NĐ-CP, có hiệu lực từ 01/11/2009, quy định chi tiết về cơ quan quản lý và thực hiện thi hành án dân sự Hệ thống các cơ quan Thi hành án dân sự được tổ chức thống nhất từ Trung ương đến địa phương, với Tổng cục Thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp ở Trung ương và các Cục, Chi cục Thi hành án dân sự ở cấp tỉnh và huyện.
Ngày 06/11/2009, Bộ Trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 2906/QĐ-BTP thành lập Cục Thi hành dân sự tỉnh Kon Tum, dựa trên cơ sở cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Cùng ngày, Bộ trưởng cũng ban hành các Quyết định từ số 2907/QĐ-BTP đến 2915/QĐ-BTP để thành lập Chi cục Thi hành án dân sự tại các huyện và thành phố trong tỉnh Kon Tum, dựa trên các cơ quan Thi hành án dân sự hiện có.
CƠ CẤU TỔ CHỨC, CÁN BỘ
1.2.1 Cơ cấu tổ chức, cán bộ tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kon Tum
Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kon Tum là cơ quan trực thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự, với tổng số 24 biên chế, bao gồm 08 Chấp hành viên (04 trung cấp và 04 sơ cấp), 04 Thẩm tra viên, 05 Thư ký (04 Thư ký thi hành án và 01 Thư ký trung cấp thi hành án), 02 chuyên viên và 03 Kế toán viên.
02 cán sự Ngoài ra còn có thêm 05 Hợp đồng 68 (02 Nhân viên Lái xe, 01 Nhân viên Phục vụ, 01 Nhân viên Bảo vệ và 01 Nhân viên Bảo vệ Kho vật chứng)
Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kon Tum được tổ chức với Lãnh đạo Cục bao gồm một Cục trưởng và hai Phó Cục trưởng, cùng với bốn phòng chuyên môn.
- Phòng Nghiệp vụ và tổ chức thi hành án
- Phòng Tổ chức cán bộ
- Phòng Kiểm tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo
* Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kon Tum:
Ghi chú: Quan hệ chỉ đạo, điều hành Quan hệ phối hợp
1.2.2 Các đơn vị thuộc Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kon Tum
Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kon Tum bao gồm 10 đơn vị cấp huyện, trong đó có các Chi cục Thi hành án dân sự tại thành phố Kon Tum, huyện Đăk Hà và huyện Đăk Tô.
Chi cục Thi hành án dân sự tại các huyện Ngọc Hồi, Đăk Glei, Sa Thầy, Kon Rẫy, Kon Plông và Tu đóng vai trò quan trọng trong việc thực thi các quyết định của tòa án, đảm bảo công lý và quyền lợi cho người dân.
Mơ Rông, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ia H’Drai, hoạt động độc lập với con dấu và tài khoản riêng Các chi cục thi hành án dân sự tại các huyện, thành phố chịu sự quản lý và chỉ đạo trực tiếp về nghiệp vụ và tổ chức cán bộ từ Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kon Tum.
PHÓ CỤCTRƯỞNG PHÓ CỤC TRƯỞNG
P Kiểm tra và giải quyết KNTC
P Nghiệp vụ và tổ chức THA
* Sơ đồ tổ chức bộ máy hệ thống các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Kon Tum
Phòng Kiểm tra và GQKN
Phòng nghiệp vụ và tổ chức THA
Chi cục THADS huyện Đăk Hà
Chi cục THADS huyện Đăk Tô
Chi cục THADS huyện Đăkglei
KẾT QUẢ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ TẠI ĐƠN VỊ THỰC TẬP
Đã hoàn thành xong công việc được giao
Trong quá trình thực tập tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kon Tum, tôi đã nghiên cứu kỹ lưỡng về Luật thi hành án dân sự cùng với các nghị định và thông tư liên quan đến công tác thi hành án.
- Đọc nhiều bản án, quyết định của Tòa án để nắm bắt được những quyết định thi hành án
- Sắp xếp hồ sơ, đánh dấu bút lục văn bản, giấy tờ dưới sự hướng dẫn của giáo viên hướng dẫn tập sự
- Giúp Chấp hành viên trong công việc hoàn thiện hồ sơ
Giúp Chấp hành viên, Thư ký trong công tác tống đạt văn bản, giấy tờ cho đương sự
Chương I giới thiệu về lịch sử hình thành , phát triển và cơ cấu tổ chức, cán bộ của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kon Tum, những công việc được giao và kết quả thực hiện nhiệm vụ tại đơn vị
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
KHÁI NIỆM THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Khi xảy ra tranh chấp và yêu cầu Tòa án giải quyết, phán quyết của Tòa án chỉ mang tính chất pháp lý Để thực sự bảo vệ quyền lợi, bên thắng kiện cần yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thực hiện bản án, quyết định của Tòa án Quá trình này được gọi là thi hành án dân sự.
Thi hành án dân sự là giai đoạn quan trọng trong quá trình tố tụng dân sự, nhằm bảo vệ quyền lợi của đương sự và người có quyền lợi liên quan theo bản án, quyết định của Tòa án Hoạt động này được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, dựa trên chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của pháp luật, với mục tiêu đảm bảo tính hiệu lực của các bản án, quyết định dân sự Trong quá trình thi hành án, hoạt động THADS còn giúp phát hiện sai sót trong tố tụng của Tòa án, từ đó kiến nghị sửa đổi, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan Ngoài việc thi hành các bản án đã có hiệu lực, tổ chức THADS còn phải thực hiện đối với các bản án, quyết định chưa có hiệu lực nhưng cần thi hành ngay theo quy định của pháp luật.
Theo Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014), các bản án và quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm như cấp dưỡng, trả lương, bồi thường thiệt hại về sức khỏe và các quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể được thi hành ngay, dù có thể bị kháng cáo Điều này cho thấy hoạt động thi hành án dân sự (THADS) là một lĩnh vực đặc thù và phức tạp, với nhiều quan điểm khác nhau về tính chất của nó Để làm rõ, cần phân tích các quan điểm liên quan đến việc xác định THADS là hoạt động tư pháp hay hành chính.
Hoạt động thi hành án dân sự (THADS) được coi là một phần quan trọng trong hệ thống tư pháp, đóng vai trò là giai đoạn tiếp theo của quá trình xét xử Nó không chỉ bảo vệ quyền lợi của đương sự mà còn đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan, luôn gắn liền với các giai đoạn tố tụng trước đó.
THADS được ghi nhận trong Bộ luật Tố tụng dân sự và là hoạt động tư pháp, đóng vai trò là giai đoạn cuối của tố tụng dân sự Tuy nhiên, thực tiễn pháp lý cho thấy rằng cơ quan THADS không phải là cơ quan tiến hành tố tụng, và chấp hành viên THADS cũng không được xem là người tiến hành tố tụng.
Quan điểm thứ hai cho rằng hoạt động thi hành án dân sự (THADS) không thuộc về hoạt động tư pháp, vì nó không chỉ thực hiện các vụ án dân sự mà còn bao gồm cả quy trình thi hành phần dân sự trong các bản án hình sự, kinh doanh thương mại, hành chính và lao động Hoạt động này được tổ chức theo một trình tự thủ tục hành chính, do đó, bản chất và mục đích của thi hành án dân sự hoàn toàn khác với tố tụng, không thể liên kết nó với hoạt động tố tụng dân sự.
Quan điểm về tố tụng dân sự nhấn mạnh rằng mục đích của quá trình này là đưa ra các phán quyết hợp pháp thông qua quy trình chặt chẽ, công khai và minh bạch Trong khi đó, hoạt động thi hành án dân sự (THADS) lại có tính chất hành chính, thường dựa trên quyết định hành chính từ văn bản pháp luật để điều chỉnh các bên liên quan Tuy nhiên, nếu coi THADS hoàn toàn là hoạt động hành chính, sẽ khó giải thích khi người được thi hành án không yêu cầu THADS, vì cơ quan THADS không có cơ sở thực hiện Điều này cho thấy rằng yếu tố hành chính không hoàn toàn thỏa mãn trong mọi trường hợp Hơn nữa, sự xuất hiện của chế định thừa phát lại cho thấy rằng THADS không chỉ do cơ quan nhà nước thực hiện mà còn có thể do các tổ chức khác hoặc chính các chủ thể phải thi hành án thực hiện một cách tự nguyện, sử dụng các phương pháp dân sự như thỏa thuận và tự định đoạt.
Quan điểm thứ ba cho rằng thi hành án dân sự (THADS) là hoạt động “lưỡng tính”, bao gồm cả tính chất hành chính và tư pháp THADS là quyền lực nhà nước, thực hiện bởi cơ quan THADS và Chấp hành viên để đưa quyết định của các bản án, quyết định dân sự vào thực tiễn Hoạt động này luôn gắn liền với quy trình tố tụng, đặc biệt là tố tụng dân sự, và thể hiện quyền lực hành pháp Qua đó, cá nhân và tổ chức có nghĩa vụ phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm THADS; nếu không, họ sẽ phải đối mặt với cưỡng chế.
Nhà nước thực hiện thi hành án thông qua các cơ quan chức năng, nhưng cũng có thể xảy ra việc thi hành án tự nguyện từ người có nghĩa vụ Khi các bản án, phán quyết không được thực hiện tự nguyện, cơ quan có thẩm quyền sẽ tiến hành cưỡng chế thi hành án.
Cả ba quan điểm về thi hành án dân sự (THADS) đều có lý do riêng, nhưng theo tác giả, quan điểm thứ ba là hợp lý nhất Điều này xuất phát từ các quy định pháp luật hiện hành và thực tiễn thi hành án dân sự tại Việt Nam, cho thấy THADS là hoạt động đặc thù, mang tính chất vừa hành chính vừa tư pháp.
Thi hành án dân sự là hoạt động hành chính-tư pháp do cơ quan, tổ chức, hoặc người có thẩm quyền thực hiện theo quy trình luật định Mục tiêu của hoạt động này là đảm bảo việc thực thi bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền Đây là giai đoạn cuối cùng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự cùng những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong các quan hệ dân sự.
THADS là hoạt động phức tạp với những đặc điểm sau:
THADS là hoạt động liên quan đến quyền lực nhà nước, bao gồm nhiều hoạt động của các chủ thể khác nhau, đòi hỏi sự tham gia của cơ quan hành chính, tư pháp và cả người có nghĩa vụ thi hành án Việc thực hiện quyền lực nhà nước trong THADS thể hiện sự "lưỡng tính" giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp Tuy nhiên, khác với thi hành án hình sự, thi hành án dân sự không hoàn toàn mang tính quyền lực nhà nước, vì có sự tham gia của các chủ thể không có quyền lực nhà nước và việc thực hiện các phán quyết từ các chủ thể được nhà nước công nhận, cho phép thỏa thuận giữa các bên Do đó, THADS không chỉ sử dụng các biện pháp cứng nhắc của quyền lực nhà nước.
Hoạt động thi hành án dân sự (THADS) nhằm thực hiện lợi ích của người được thi hành án, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, và nhà nước THADS không chỉ giữ vững kỷ cương và giá trị của pháp luật mà còn đảm bảo lợi ích hợp pháp của những người có liên quan đến tài sản trong các quyết định thi hành án.
Thứ ba, hoạt động thi hành án dân sự (THADS) chủ yếu liên quan đến việc thực hiện các bản án, quyết định của Tòa án về tài sản, do đó, tính chất dân sự của tài sản đóng vai trò quan trọng trong việc xác định quan hệ pháp luật Trong quá trình THADS, quyền tự nguyện và tự định đoạt của người được thi hành án được tôn trọng, và cơ quan THADS phải bảo đảm quyền này, không được can thiệp vào sự lựa chọn của đương sự cùng những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.
Thứ tư, THADS là hoạt động có ý nghĩa trong việc góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của hiệu lực xét xử
Quá trình xét xử phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định pháp luật về thủ tục tố tụng, với các chủ thể tham gia có uy tín và chuyên môn cao Tuy nhiên, do tính chất đa dạng và phức tạp của vụ án dân sự, nhiều quy định về nội dung và thủ tục vẫn còn thiếu chặt chẽ, dẫn đến các bản án không rõ ràng và khó khả thi Cơ quan THADS và Chấp hành viên không chỉ đảm bảo sự tôn trọng đối với bản án mà còn có quyền kiến nghị sửa chữa những sai sót của Tòa án thông qua trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm THADS đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm nghiệm tính thực tiễn của các bản án, phản ánh chất lượng và hiệu quả giải quyết vụ án Từ kinh nghiệm thực tiễn thi hành án, các Thẩm phán, Kiểm sát viên và Hội thẩm nhân dân có thể rút ra bài học để nâng cao chất lượng xét xử và đảm bảo tính khả thi của các quyết định của Tòa án.
TRÌNH TỰ THỦ TỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Thủ tục thi hành án dân sự là tổng thể các hoạt động do cơ quan thi hành án và các tổ chức, cá nhân liên quan thực hiện theo quy định pháp luật nhằm thi hành bản án, quyết định Hoạt động của cơ quan thi hành án, chấp hành viên và cán bộ thi hành án diễn ra từ khi thụ lý cho đến khi kết thúc hoặc đình chỉ vụ việc, và tất cả các hoạt động này cần được ghi chép đầy đủ trong hồ sơ thi hành án Dựa trên Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) và các văn bản hướng dẫn, có thể khái quát các trình tự, thủ tục thi hành án dân sự cụ thể.
2.2.1 Chuyển giao bản án, quyết định
Theo Điều 28 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014, Tòa án nhân dân và trọng tài thương mại có trách nhiệm trong việc chuyển giao bản án và quyết định Quy trình chuyển giao này được quy định rõ ràng để đảm bảo tính hợp pháp và hiệu quả trong việc thi hành án.
Tòa án phải chuyển giao bản án và quyết định theo các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều 2 của Luật này cho cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền trong vòng 30 ngày kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.
- Tòa án đã ra bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều
2 của Luật này phải chuyển giao cho cơ quan thi hành án dân sự trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ra bản án, quyết định
Tòa án và Trọng tài thương mại đã quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, yêu cầu việc chuyển giao phải được thực hiện ngay cho cơ quan thi hành án dân sự sau khi có quyết định.
Khi cơ quan có thẩm quyền thực hiện việc kê biên, tạm giữ tài sản, thu giữ vật chứng hoặc tài liệu liên quan đến thi hành án, Toà án cần gửi kèm bản sao biên bản này khi chuyển giao bản án, quyết định cho cơ quan thi hành án dân sự.
Thủ tục tiếp nhận và xử lý bản án, quyết định từ Tòa án và trọng tài thương mại chuyển giao cho Cơ quan thi hành án là quy trình quan trọng Đương sự cần nộp đơn yêu cầu thi hành án để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của mình Cơ quan thi hành án sẽ thực hiện các bước cần thiết để thi hành bản án, quyết định một cách hiệu quả và đúng quy định pháp luật.
Sau khi nhận được bản án, quyết định do Toà án, Trọng tài thương mại chuyển giao,
Cơ quan thi hành án cần ghi nhận bản án và quyết định của Tòa án, bao gồm nội dung biên bản kê biên và tạm giữ tài sản (nếu có), nhằm phân loại và thực hiện thi hành án Đối với các quyết định thuộc quyền chủ động, cơ quan sẽ ra quyết định thi hành, trong khi các yêu cầu thi hành án sẽ được ghi vào sổ theo dõi khi có đơn yêu cầu từ đương sự Việc tiếp nhận đơn yêu cầu thi hành án là thủ tục bắt buộc; sau khi xem xét, nếu đơn đúng quy định, cơ quan sẽ ghi vào sổ và chuyển đến người có thẩm quyền Nếu đơn yêu cầu chưa đầy đủ hoặc không đúng quy định, cơ quan sẽ hướng dẫn người yêu cầu bổ sung thông tin cần thiết.
* Thủ tục tiếp nhận và xử lý hồ sơ thi hành án do cơ quan thi hành án dân sự nơi khác uỷ thác đến
Sau khi nhận hồ sơ ủy thác, Cơ quan Thi hành án phải kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ Nếu hồ sơ đúng quy định, cơ quan sẽ tiếp nhận và thông báo bằng văn bản cho Cơ quan Thi hành án dân sự đã ủy thác Trong trường hợp có sai sót về thẩm quyền hoặc nội dung, Cơ quan Thi hành án dân sự nhận ủy thác có quyền trả lại hồ sơ Khi tiếp nhận ủy thác, Cơ quan Thi hành án dân sự sẽ thụ lý và tổ chức thi hành theo thẩm quyền Nếu trong quá trình thi hành phát hiện người phải thi hành án có điều kiện thi hành ở địa phương khác, cơ quan sẽ tiếp tục ủy thác cho Cơ quan Thi hành án dân sự nơi đó.
2.2.2 Quyền yêu cầu thi hành án và thời hiệu thi hành án
* Quyền yêu cầu thi hành án
Khi bản án hoặc quyết định của Tòa án, Trọng tài thương mại có hiệu lực pháp luật, các bên đương sự phải tôn trọng và tự nguyện thi hành Nếu không tự nguyện thi hành, bên được thi hành án có quyền gửi đơn yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền tổ chức thi hành bản án, quyết định đó.
Theo Điều 31 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014, đương sự có quyền tự mình yêu cầu thi hành án hoặc ủy quyền cho người khác thực hiện việc này Yêu cầu có thể được nộp trực tiếp qua đơn viết tay, trình bày bằng lời nói, hoặc gửi qua bưu điện.
* Thời hiệu thi hành án
Thời hiệu thi hành án là khoảng thời gian mà người được thi hành án và người phải thi hành án có quyền yêu cầu thi hành bản án hoặc quyết định Theo Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008, thời hiệu thi hành án dân sự được quy định rõ ràng, đảm bảo quyền lợi cho các bên liên quan trong quá trình thi hành án.
Trong vòng 05 năm kể từ ngày bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật, cả người được thi hành án và người phải thi hành án đều có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết định thi hành án.
+ Trường hợp thời hạn thực hiện nghĩa vụ được ấn định trong bản án, quyết định thì thời hạn 05 năm được tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn
+ Đối với bản án, quyết định thi hành theo định kỳ thì thời hạn 05 năm được áp dụng cho từng định kỳ, kể từ ngày nghĩa vụ đến hạn
Theo quy định của Luật, thời gian hoãn hoặc tạm đình chỉ thi hành án sẽ không được tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án, trừ khi người được thi hành án đồng ý cho người phải thi hành án hoãn thi hành án.
Trong trường hợp người yêu cầu thi hành án gặp phải trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng, dẫn đến việc không thể thực hiện yêu cầu thi hành án đúng thời hạn, thì thời gian xảy ra những trở ngại này sẽ không được tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án.
2.2.3 Chủ động ra quyết định thi hành án và ra quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu a Chủ động ra quyết định thi hành án
Theo Khoản 2 Điều 36 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có quyền chủ động ra quyết định thi hành án và phân công Chấp hành viên thực hiện thi hành đối với các phần của bản án, quyết định.
+ Hình phạt tiền, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí, lệ phí Tòa án
+ Trả lại tiền, tài sản cho đương sự
+ Tịch thu sung quỹ nhà nước, tịch thu tiêu huỷ vật chứng, tài sản; các khoản thu khác cho Nhà nước
+ Thu hồi quyền sử dụng đất và tài sản khác thuộc diện sung quỹ nhà nước
+ Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
+ Quyết định của Tòa án giải quyết phá sản