TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Trên thế giới
1.1.1 Nghiên cứu về cấu trúc rừng
Cấu trúc rừng phản ánh mối quan hệ giữa các loài thực vật và môi trường xung quanh Việc nghiên cứu cấu trúc rừng giúp hiểu rõ hơn về các mối quan hệ trong quần xã thực vật, từ đó đưa ra các biện pháp can thiệp hiệu quả Trong nghiên cứu này, cấu trúc rừng được phân thành ba dạng chính: cấu trúc hình thái, cấu trúc không gian và cấu trúc thời gian.
Cấu trúc tổ thành đề cập đến sự tham gia và phong phú của các loài cây trong lâm phần, phản ánh sự đa dạng của quần thụ thực vật Theo Richards, sự đa dạng này đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì cân bằng sinh thái và phát triển bền vững của hệ sinh thái rừng.
P W (1952), trong rừng mưa nhiệt đới có ít nhất 40 loài cây gỗ trên mỗi 1 ha, và cũng có trường hợp còn lên trên 100 loài [34] Tác giả đã phân biệt tổ thành thực vật của rừng mưa thành hai loại: (i) rừng mưa hỗn hợp có tổ thành loài cây phức tạp; và (ii) rừng mưa đơn ưu có tổ thành loài cây đơn giản, trong những lập địa đặc biệt, rừng mưa đơn ưu chỉ bao gồm một vài loài cây [34]
Theo nghiên cứu của Tolmachop (1974), vùng nhiệt đới có sự đa dạng thực vật rất phong phú, với chỉ 10% các họ thực vật chiếm tỷ lệ tổng số loài Tổng tỷ lệ phần trăm của 10 họ có số loài lớn nhất chỉ đạt từ 40 đến 50% tổng số loài Trong các rừng hỗn giao, nhiều loài cây gỗ lớn phân bố tương đối cân bằng, nhưng thường có 1-2 loài chiếm ưu thế trong quần thể.
Baur, G.N (1979) khi nghiên cứu rừng mưa ở khu vực gần Belem trên sông Amazôn, trên một ô tiêu chuẩn diện tích khoảng 2 ha đã thống kê được
Tại phía Bắc New South Wales, có 36 họ thực vật được ghi nhận, trong đó có 31 họ xuất hiện trên các ô tiêu chuẩn diện tích lớn hơn 4 ha, không bao gồm cây leo, cây thân cỏ và thực vật phụ sinh.
Theo nghiên cứu của Theo Evans, J (1984) về cấu trúc tổ thành rừng tự nhiên nhiệt đới thành thục, có từ 70 đến 100 loài cây gỗ trên mỗi hecta, nhưng rất ít loài chiếm hơn 10% tổng số loài trong khu vực này.
Laura Klappenbach (2001) chỉ ra rằng thành phần loài cây trong các loại rừng rất đa dạng, với một số khu rừng chứa hàng trăm loài, trong khi những khu khác chỉ có ít loài Rừng không ngừng biến đổi và phát triển qua các chu trình diễn thế, dẫn đến sự thay đổi trong thành phần loài cây Tại châu Á, nghiên cứu của Zeng và cộng sự (1998) trong rừng thứ sinh nhiệt đới vùng Shanxin, Trung Quốc, đã ghi nhận khoảng 280 loài cây dược liệu, 80 loài cây có dầu, và 20 loài cây có sợi Tương tự, nghiên cứu của Kanel K.R và Shrestha K (2001) tại Nepal cho thấy sự phong phú của thực vật, với hơn 6.500 loài cây có hoa, 4.064 loài cây không hoa, trên 1.500 loài nấm và hơn 350 loài địa y.
Các nghiên cứu trước đây cho thấy rằng lâm phần rừng tự nhiên rất đa dạng về thành phần loài thực vật, với hàng trăm loài cây gỗ trong mỗi hecta Tuy nhiên, số lượng loài chiếm trên 10% trong tổ thành loài lại rất ít.
1.1.3 Cấu trúc phân bố số cây theo cỡ đường kính
Mối quan hệ giữa các nhân tố điều tra trong lâm phần là yếu tố quan trọng trong nghiên cứu kết cấu rừng, thu hút sự quan tâm của nhiều tác giả Hiện nay, nghiên cứu cấu trúc rừng đang chuyển từ định tính sang định lượng, nhờ vào sự hỗ trợ của thống kê toán học và công nghệ thông tin Việc mô hình hóa cấu trúc rừng và xác lập mối quan hệ giữa các nhân tố cấu trúc là trọng tâm của nhiều nghiên cứu, đặc biệt là về cấu trúc không gian và thời gian của rừng Để tìm hiểu quy luật này, các tác giả thường sử dụng phương pháp giải tích và xây dựng các phương trình toán học với nhiều phân bố xác suất khác nhau Một trong những công trình tiêu biểu là nghiên cứu của Meyer, H A (1952), trong đó ông đã mô tả phân bố N/D bằng một phương trình toán học có dạng đường cong giảm liên tục, được gọi là phương trình Meyer.
Rollet (1971) đã sử dụng hàm hồi quy để mô tả mối quan hệ giữa chiều cao và đường kính ngang ngực của cây, đồng thời trình bày phân bố đường kính cây dưới dạng phân bố xác suất.
Richards P.W (1952) trong tác phẩm “Rừng mưa nhiệt đới” đã nhấn mạnh sự phân bố số cây theo cấp đường kính, coi đây là một đặc trưng tiêu biểu của rừng tự nhiên.
Nhiều tác giả đã áp dụng phương trình giải tích để xác định phương trình của đường cong phân bố, trong đó Balley (1973) đã mô hình hóa cấu trúc phân bố số cây theo cỡ kính (N-D) bằng hàm Weibull.
(1964), Bill và Kem, K A (1964) đã tiếp cận phân bố cấu trúc N/D bằng phương trình hàm Logarit (dẫn theo tài liệu [10])
Burkhart H (1974) và Strub U (1972) đã áp dụng hàm Beta để mô phỏng phân bố cấu trúc N/D, theo tài liệu [16] Để tăng tính linh hoạt, nhiều tác giả khác như Loetschau (1973), được dẫn theo Phạm Ngọc Giao (1997), cũng sử dụng hàm Beta để điều chỉnh phân bố thực nghiệm Batista J.L.F và Docouto H.T.Z (1992) đã nghiên cứu 19 ô tiêu chuẩn với 60 loài cây trong rừng nhiệt đới ở Maranhoo, Brazil, sử dụng hàm Weibull để mô phỏng phân bố N/D1.3 Ngoài ra, nhiều tác giả khác còn áp dụng các hàm như Hyperbol, Poisson, Logarith và Pearson trong nghiên cứu của họ.
Roemisch (1975) đã nghiên cứu khả năng sử dụng hàm Gamma để mô phỏng sự biến đổi theo tuổi của phân bố số cây theo đường kính trong rừng Nghiên cứu này xác lập mối quan hệ giữa tham số β với tuổi, đường kính trung bình và chiều cao tầng trội, trong đó mối quan hệ giữa tham số β và chiều cao tầng trội được khẳng định là chặt chẽ nhất.
Việc lựa chọn hàm để biểu thị quy luật cấu trúc phụ thuộc vào kinh nghiệm của tác giả và đặc điểm sinh trưởng của từng loài cây, cùng với số liệu thực tế Đường kính cây tăng theo tuổi, dẫn đến sự thay đổi trong phân bố đường kính của lâm phần Do đó, từ các mô hình toán học, các nhà khoa học đã nghiên cứu sự biến đổi của quy luật phân bố số cây theo tuổi, được gọi là động thái cấu trúc rừng.
1.1.4 Quy luật phân bố số cây theo cỡ chiều cao (N/H)
Ở Việt Nam
1.2.1 Nghiên cứu về phân loại trạng thái rừng
Phân loại rừng có mục đích chính là xác định các loại rừng với đặc trưng cấu trúc riêng biệt, từ đó lựa chọn và đề xuất các biện pháp lâm sinh phù hợp nhằm điều khiển và dẫn dắt rừng đạt trạng thái tối ưu.
Loestchau (1966) đã phân loại rừng dựa trên trạng thái hiện tại, đặc biệt trong nghiên cứu về rừng hỗn giao lá rộng thường xanh nhiệt đới Viện Điều tra, Quy hoạch rừng đã cải tiến hệ thống phân loại của Loestchau để phù hợp với đặc điểm rừng tự nhiên của Việt Nam, và hiện nay vẫn đang áp dụng hệ thống phân loại này (QPN 6 - 84).
Thái Văn Trừng (1978) đã phân loại rừng Việt Nam thành 14 kiểu thảm thực vật dựa trên quan điểm sinh thái, nhằm đáp ứng yêu cầu về quy luật sinh thái Ông nhận thấy tính đa dạng và phong phú của rừng nhiệt đới, từ đó kết luận rằng không thể sử dụng quần hợp thực vật như đơn vị phân loại cơ bản như các tác giả ở vùng ôn đới Thay vào đó, ông đề xuất sử dụng kiểu thảm thực vật làm đơn vị phân loại cơ bản, với hình thái và cấu trúc quần thể làm tiêu chuẩn phân loại.
Bảo Huy (1993) đã nghiên cứu trạng thái hiện tại của các lâm phần Bằng Lăng tại Tây Nguyên dựa trên hệ thống phân loại của Loeschau Tác giả cũng xác định các loại hình xã hợp thực vật và các ưu hợp khác nhau thông qua trị số IV%.
Lê Sáu (1996) [36], Trần Cẩm Tú (1998) [32], Nguyễn Thành Mến
Năm 2005, việc phân loại trạng thái rừng tự nhiên tại Kon Hà Nừng - Tây Nguyên, Hương Sơn - Hà Tĩnh và Phú Yên được thực hiện dựa trên hệ thống phân loại rừng của Loeschau (1960), đã được Viện Điều tra, Quy hoạch rừng Việt Nam cập nhật và bổ sung.
Một số tác giả, như Ngô Út (2003) và Nguyễn Văn Thêm (2003), đã áp dụng mô hình toán học để phân loại trạng thái rừng, đặc biệt là rừng kín thường xanh và nửa rụng lá ở Đông Nam Bộ Ngô Út đã định lượng hóa việc phân loại này, trong khi Nguyễn Văn Thêm khẳng định rằng các trạng thái rừng có thể được nhận diện chính xác thông qua các hàm phân loại tuyến tính như Fisher, dựa trên nhiều biến số định lượng Cùng với Nguyễn Phú Hùng, Ngô Út cũng đưa ra ý kiến cải thiện hệ thống phân chia trạng thái rừng lá rộng thường xanh tại Việt Nam, nhằm bổ sung và nâng cao tính ứng dụng của toán học trong phân loại trạng thái rừng.
Theo Thông tư số 33/2018/TT-BNNPTNT, việc phân chia rừng được quy định nhằm hỗ trợ công tác điều tra, kiểm kê và theo dõi diễn biến rừng Phân loại rừng dựa trên các tiêu chí như nguồn gốc hình thành, điều kiện lập địa, loài cây và trữ lượng rừng tự nhiên giúp theo dõi tài nguyên rừng hiệu quả Điều này cho phép đánh giá cơ bản từng loại rừng, từ đó áp dụng các biện pháp tác động phù hợp với từng mục đích cụ thể.
1.2.2 Cấu trúc tổ thành Đây là nhân tố ảnh hưởng quyết định đến cấu trúc sinh thái và hình thái khác của rừng Tổ thành rừng là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá mức độ đa dạng sinh học, tính ổn định, tính bền vững của hệ sinh thái rừng Rất nhiều công trình khoa học của nhiều tác giả đã tập trung vào các đặc điểm cấu trúc của các kiểu rừng tự nhiên nhằm phục vụ việc bảo tồn, phát triển và kinh doanh lâu dài
Cấu trúc tổ thành của rừng là sự tham gia của các loài cây trong quần thể Nghiên cứu về cấu trúc rừng tự nhiên ở Việt Nam, theo quan điểm hệ sinh thái, Thái Văn Trừng (1978, 1999) đã phân định các ưu hợp và phức hợp dựa trên số lượng và sinh khối của nhóm loài ưu thế trong rừng nhiệt đới ẩm Các ưu hợp thường có không quá 10 loài, với tỷ lệ cá thể mỗi loài ưu thế chiếm khoảng 5%, và tổng số cá thể của 10 loài này cần chiếm 40 - 50% tổng số cá thể trong khu vực điều tra Khi độ ưu thế của các loài cây không rõ ràng, chúng được gọi là các phức hợp.
Khí hậu và thổ nhưỡng thuận lợi tại các khu rừng tự nhiên hỗn loài nhiệt đới cho phép nhiều loài cây phát triển đồng thời Do đó, hiếm khi chỉ có một loài ưu thế duy nhất tạo thành các quần hợp như ở vùng ôn đới, theo nhận định của Nguyễn Hồng Quân.
(1983) [32], trong rừng loại IVB ở Kon Hà Nừng, trên diện tích 01 ha có khoảng
60 loài, nhưng các loài có tổ hợp lớn nhất cũng không vượt quá 10%
Nguyễn Văn Trương (1983) cho rằng trong rừng tự nhiên hỗn loài, số lượng cây gỗ từ trạng thái rừng sào trở lên có thể đạt từ 30 đến 40 loài trên mỗi hecta, trong đó các loài cây gỗ lớn có khả năng phát triển đến lớp không gian cao.
Nguyễn Ngọc Lung (1991) đã thực hiện điều tra các dạng rừng khí hậu tại Hương Sơn, Kon Hà Nừng và một số địa phương khác, cho thấy rằng trên mỗi ô tiêu chuẩn diện tích 1 ha thường có từ 23 đến 25 loài cây, với số lượng cây thấp nhất cũng đạt mức đáng kể.
317 cây và cao nhất 859 cây/1 ha (dẫn theo tài liệu) [10]
Bảo Huy (1993) và Đào Công Khanh (1996) đã nghiên cứu tổ thành loài cây trong rừng tự nhiên ở Đắc Lăk và Hương Sơn - Hà Tĩnh, xác định tỷ lệ tổ thành của các nhóm loài cây mục đích, hỗ trợ và phi mục đích Từ kết quả này, họ đề xuất biện pháp khai thác hợp lý nhằm điều chỉnh tổ thành cây trồng một cách hiệu quả.
Lê Sáu (1996) và Trần Cẩm Tú (1998) đã nghiên cứu cấu trúc rừng tự nhiên tại Kon Hà Nừng - Tây Nguyên và Hương Sơn - Hà Tĩnh, xác định danh mục các loài cây theo cấp tổ thành Cả hai tác giả đều kết luận rằng sự phân bố của các loài cây này tuân theo luật phân bố giảm.
Theo Phạm Hoàng Hộ (1999), rừng Đông Nam Á có sự đa dạng sinh học vượt trội so với rừng Amazon, với trung bình 160 loài cây/1 ha so với 90 loài/1 ha ở Amazon Để đánh giá tổ thành rừng, nhiều tác giả đã áp dụng công thức tổ thành dựa trên tỷ lệ phần trăm 10 theo số cây, tiết diện ngang hoặc chỉ số IV% Phương pháp tỷ lệ tổ thành (IV%) theo Daniel Marmil Lod thường được các nhà khoa học sử dụng trong nghiên cứu cấu trúc rừng.
Thảo luận chung
Các nghiên cứu về cấu trúc và đa dạng loài cây trong rừng tự nhiên trên thế giới và Việt Nam đã được thực hiện nhiều, tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số hạn chế.
Nghiên cứu về cấu trúc và sự đa dạng loài cây trong rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới trên núi đất vẫn còn hạn chế Điều này cho thấy cần thiết phải tiến hành các nghiên cứu bổ sung để hiểu rõ hơn về đặc điểm sinh thái và sự phong phú của hệ thực vật trong khu vực này.
Nghiên cứu quy luật phân bố số cây theo cỡ đường kính và chiều cao thường sử dụng các phân bố phổ biến như Weibull hai tham số, khoảng cách và Meyer Tuy nhiên, những hàm này chưa luôn mô phỏng chính xác các phân bố thực nghiệm Do đó, cần thiết phải tiến hành các nghiên cứu thử nghiệm với các hàm phân bố mềm dẻo hơn như Weibull ba tham số, Gamma và Beta.
Nghiên cứu về đa dạng loài cây chủ yếu tập trung vào các khía cạnh định tính, trong khi các nghiên cứu định lượng còn hạn chế Các chỉ số đa dạng loài như số lượng loài và các chỉ số đa dạng như Simpson và Shannon-Wiener thường được sử dụng để đánh giá sự phong phú của hệ sinh thái thực vật.
Các vấn đề tồn tại cần được nghiên cứu tiếp theo nhằm bổ sung cơ sở khoa học về cấu trúc và đa dạng loài cây trong quần xã thực vật rừng tự nhiên sẽ được xem xét trong luận văn này.
MỤC TIÊU, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là 03 trạng thái rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới tại Vườn quốc gia Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh.
Phạm vi nghiên cứu
2.2.1 Phạm vi về nội dung nghiên cứu
- Luận văn tiến hành phân chia trạng thái rừng khu vực nghiên cứu
Nghiên cứu các quy luật kết cấu lâm phần là rất quan trọng, đặc biệt là trong việc phân tích cấu trúc tổ thành tầng cây cao Bài viết tập trung vào các quy luật phân bố như tỷ lệ N/D, N/H, và quy luật tương quan giữa chiều cao (H) và đường kính (D) của lâm phần Những quy luật này giúp hiểu rõ hơn về sự phân bố và phát triển của cây cối trong hệ sinh thái rừng.
- Nghiên cứu tính đa dạng loài cây gỗ của 03 trạng thái rừng
Tái sinh rừng liên quan đến các yếu tố như tổ thành, mật độ và chất lượng của cây tái sinh Ngoài ra, việc phân bố cây tái sinh theo chiều cao và hình thái trên mặt đất cũng rất quan trọng Đặc biệt, mức độ tương đồng giữa tầng cây tái sinh và tầng cây cao là một chỉ số quan trọng trong quá trình tái sinh rừng.
2.2.2 Phạm vi về không gian Đề tài thu thập số liệu trên 6 ô tiêu chuẩn, mỗi ô có diện tích 5.000 m 2 tại Vườn quốc gia Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh
2.2.3 Phạm vi về thời gian Đề tài thực hiện từ tháng 2 năm 2020 đến tháng 11 năm 2020
Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu tại Vườn quốc gia Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh đã xác định được các đặc điểm cấu trúc và sự đa dạng loài của tầng cây cao trong rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới, đồng thời cũng đánh giá khả năng tái sinh của hệ sinh thái này.
- Đề xuất được một số giải pháp góp phần quản lý bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng bền vững tại khu vực nghiên cứu
2.4.1 Nghiên cứu một số chỉ tiêu về nhân tố điều tra lâm phần
2.4.2 Nghiên cứu cấu trúc tổ thành tầng cây cao
- Cấu trúc tổ thành tầng cây cao theo phần trăm số cây
- Cấu trúc tổ thành tầng cây cao theo chỉ số độ quan trọng
- Đánh giá mức độ đồng nhất giữa tổ thành theo phần trăm số cây và theo chỉ số độ quan trọng
- Phân loại loài cây theo trạng thái
2.4.3 Nghiên cứu một số quy luật kết cấu lâm phần
- Các đặc trưng thống kê cơ bản của D1.3
- Quy luật phân bố số cây theo cỡ đường kính (N/D1.3)
- Các đặc trưng thống kê cơ bản của Hvn
- Quy luật phân bố số cây theo chiều cao vút ngọn (N/Hvn)
2.4.4 Nghiên cứu đa dạng loài tầng cây cao
- Mức độ đa dạng loài ở tầng cây cao thông qua các chỉ số đa dạng là số loài, chỉ số Shannon-Wiener, Simpson
- Hiện trạng các loài thực vật rừng nguy cấp, quý, hiếm tại vực nghiên cứu theo Nghị định 06/2019/NĐ-CP, Sách đỏ Việt Nam 2007, Sách đỏ IUCN
2.4.5 Nghiên cứu đặc điểm tái sinh tự nhiên tại khu vực nghiên cứu
Thành phần loài cây tái sinh
- Mật độ và tổ thành cây tái sinh
- Phân bố số cây tái sinh theo chiều cao
- Hình thái phân bố cây tái sinh trên mặt đất
- Chất lượng cây tái sinh và số cây tái sinh có triển vọng
2.4.6 Đề xuất một số giải pháp góp phần quản lý bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng bền vững tại khu vực nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
2.5.1 Phương pháp kế thừa số liệu
Luận văn này tập trung vào việc kế thừa và phân tích số liệu về điều kiện tự nhiên, bao gồm địa hình, khí hậu, thuỷ văn, đất đai và tài nguyên rừng tại Vườn quốc gia Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng xem xét các điều kiện kinh tế và xã hội, như dân số, lao động và thành phần dân tộc, nhằm cung cấp cái nhìn toàn diện về khu vực này.
Bài viết này kế thừa có chọn lọc các tài liệu và công trình nghiên cứu liên quan từ các nhà khoa học trong và ngoài nước về Vườn quốc gia Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh, nhằm hệ thống hóa thông tin phục vụ cho nội dung của luận văn.
Vườn quốc gia Vũ Quang tại tỉnh Hà Tĩnh đang đối mặt với các thách thức trong việc quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng Các báo cáo hiện tại chỉ ra tình trạng tài nguyên rừng và công tác phát triển rừng cần được cải thiện để đảm bảo sự bền vững Việc nâng cao nhận thức cộng đồng và tăng cường các biện pháp bảo vệ là rất cần thiết để duy trì hệ sinh thái rừng tại khu vực này.
2.5.2.1 Lập ô tiêu chuẩn điều tra tầng cây cao Đề tài đã sử dụng phương pháp điều tra ô tiêu chuẩn đại diện ở khu vực nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu ba trạng thái rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới tại Vườn Quốc gia Vũ Quang, với việc thiết lập hai ô tiêu chuẩn (OTC) cho mỗi trạng thái rừng Mỗi ô tiêu chuẩn có diện tích 5.000 m², tổng cộng có sáu ô tiêu chuẩn trong nghiên cứu, nằm trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt của Vườn Quốc gia Vũ Quang.
Dụng cụ và thiết bị cần thiết cho công việc bao gồm máy định vị GPS, máy ảnh, thước dây, thước kẹp kính, kẹp tiêu bản, báo cũ, cồn êtylic, foocmol, kéo cắt cành, và máy đo chiều cao cây.
- Các số liệu điều tra tầng cây cao thu thập trong OTC:
+ Đối tượng điều tra là các cây gỗ thuộc tầng cây cao (cây có đường kính ngang ngực từ 6 cm trở lên)
+ Đánh dấu và đếm toàn bộ số cây có đường kính từ 6 cm trở lên trong mỗi tuyến điều tra trong OTC
+ Xác định thành phần loài, tên loài (những cây chưa xác định được tên cây, đánh là SP)
+ Đo đường kính D1.3 của tất cả các cây có đường kính lớn hơn hoặc bằng 6cm: dùng thước kẹp kính độ chính xác 0,5 cm
Trong quá trình đo chiều cao vút ngọn, 40 cây được chọn ngẫu nhiên trong mỗi ô tiêu chuẩn Việc sử dụng thước Blumeleiss với độ chính xác 0,5 m đảm bảo độ tin cậy của số liệu Tất cả các thông số đo đếm chiều cao cây được ghi chép theo mẫu biểu điều tra tầng cây cao (Biểu 2.1).
Biểu 2.1 Biểu điều tra tầng cây cao Địa điểm Độ cao Ngày điều tra
Trạng thái rừng Độ dốc Người điều tra
STT Tên cây Đường kính
2.5.2.2 Điều tra cây tái sinh
Trên mỗi ô tiêu chuẩn 5.000 m 2 chia làm 50 phân ô, được đánh số thứ tự từ trái qua phải, từ trên xuống dưới, mỗi phân ô có diện tích 100 m 2
Trong mỗi OTC, lập 06 ô dạng bản (ODB) có diện tích 4m 2 (2m x 2m) để điều tra tầng cây tái sinh 06 ODB sẽ được lập trong các phân ô 1, 5, 10,
41, 45 và 50 Tổng ODB điều tra là 36 ODB Cây tái sinh được điều tra trong nghiên cứu này là những cây có đường kính ngang ngực < 6 cm
Trên ODB thống kê tất cả cây tái sinh vào phiếu điều tra theo các chỉ tiêu:
- Tên loài cây tái sinh, loài nào chưa rõ thì ghi SP
- Đo chiều cao cây tái sinh bằng thước sào
- Chất lượng cây tái sinh:
+ Cây tốt là cây có thân thẳng, không cụt ngọn, sinh trưởng phát triển tốt, không sâu bệnh
+ Cây xấu là những cây cong queo, cụt ngọn, sinh trưởng phát triển kém, sâu bệnh, còn lại là những cây có chất lượng trung bình
- Xác định nguồn gốc cây tái sinh
Toàn bộ các số liệu thu thập, đo đếm tầng cây tái sinh được ghi chép theo mẫu biểu điều tra tầng cây cao (Biểu 2.2)
Biểu 2.2 Biểu điều tra tầng cây tái sinh Địa điểm Độ cao Ngày điều tra
Trạng thái rừng Độ dốc Người điều tra
< 1,0 m 1,0 – 1,5 m > 1,5m chú Chồi Hạt Chồi Hạt Chồi Hạt
Giám định mẫu vật và xác định tên các thực vật chưa được nhận diện là nhiệm vụ quan trọng, được thực hiện với sự hỗ trợ từ các chuyên gia phân loại thực vật của Trường Đại học Lâm Nghiệp.
2.5.4 Phương pháp xử lý, phân tích số liệu
2.5.4.1 Phân loại trạng thái rừng hiện tại
Hệ thống phân loại rừng theo trạng thái của Loetschau (1960) đã được Viện Điều tra, Quy hoạch rừng phát triển thành bảng phân loại các trạng thái rừng, được quy định tạm thời trong Quy phạm thiết kế kinh doanh rừng (QPN6-84) Ngoài ra, rừng cũng được phân chia theo Thông tư số 33/2018/TT-BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.
Kiểu II A : Rừng phục hồi sau nương rẫy, đặc trưng bởi lớp cây tiên phong ưa sáng, mọc nhanh, đều tuổi, một tầng Đất trảng cây bụi có nhiều cây gỗ tái sinh tự nhiên, mật độ cây gỗ tái sinh > 1000 cây/ha với độ tàn che > 10%
Kiểu II B : Rừng phục hồi sau khai thác kiệt, phần lớn kiểu này bao gồm những quần thụ non với những loài cây tương đối ưa sáng, thành phần loài phức tạp đều tuổi, độ ưu thế không rõ ràng Vượt lên khỏi tán rừng kiểu này có thể còn sót lại một số cây của quần thụ cũ nhưng trữ lượng không đáng kể Chỉ được xếp vào kiểu này những quần thụ mà đường kính phổ biến không vượt quá 20 cm Rừng non phục hồi trên trảng cây bụi, mật độ cây gỗ > 1000 cây/ha, với đường kính > 10 cm
Kiểu III A : Được đặc trưng bởi những quần thụ đã bị khai thác nhiều, khả năng khai thác hiện tại bị hạn chế Cấu trúc ổn định của rừng bị phá vỡ hoàn toàn hoặc thay thế cơ bản Kiểu này được chia ra các kiểu phụ:
Kiểu phụ IIIA1 mô tả tình trạng rừng bị khai thác kiệt quệ, với tán rừng bị phá vỡ thành những mảng lớn Mặc dù tầng trên có thể còn lại một số cây cao, nhưng chúng thường có phẩm chất kém, trong khi dây leo, bụi rậm và tre nứa đang xâm lấn ngày càng nhiều.
Kiểu phụ IIIA2 là rừng đã trải qua khai thác quá mức nhưng có khả năng phục hồi tốt Đặc điểm nổi bật của kiểu rừng này là sự hình thành của tầng giữa, với các cây có đường kính từ 20-30m chiếm ưu thế sinh thái Rừng có từ hai tầng trở lên, trong đó tầng trên có tán không liên tục, chủ yếu được hình thành từ các cây của tầng giữa trước đây, bên cạnh đó còn tồn tại một số cây lớn khỏe mạnh vượt tán của rừng cũ.
Kiểu phụ IIIA3 là loại rừng đã trải qua khai thác vừa phải hoặc phát triển từ kiểu IIIA2 Quần thụ trong kiểu này tương đối khép kín với hai hoặc nhiều tầng, và đặc điểm nổi bật là số lượng cây nhiều hơn Đặc biệt, trong kiểu phụ này, đã xuất hiện một số cây có đường kính lớn (trên 35 cm) có thể được khai thác để sử dụng gỗ lớn.
Kiểu III B : Rừng tự nhiên bị tác động ở mức trung bình, còn có kết cấu 3 tầng cây, với trữ lượng gỗ: 250 – 350 m 3 /ha
Kiểu III C : Rừng tự nhiên bị tác động ít, rừng có cấu trúc 3 tầng cây, các dấu vết rừng bị tàn phá không còn thể hiện rõ, có trữ lượng gỗ: 350 - 450 m 3 /ha
* Thông tư số 33/2018/TT-BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn Điều 7 Phân chia rừng tự nhiên theo trữ lượng