CƠ SỞ LÝ LUẬN
Tổng quan về chính trị Việt nam trong giai đoạn 2016-2021
1.1.1 Những nội dung cơ bản của Đaị hội XIII của ĐCSVN Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII là đại hội tổng kết lại 10 năm thực hiện Chiến lựợc phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020; 35 năm Đổi mới, 10 năm nước ta thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội; hướng tới kỉ niệm 100 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đại hội XIII của Đảng đã đề ra chủ đề quan trọng: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy ý chí, khát vọng, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, phát triển nhanh và bền vững đất nước; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.” Các nội dung chủ yếu trong Đại hội tập trung vào việc củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của Đảng, thúc đẩy sự phát triển kinh tế bền vững, bảo vệ an ninh quốc gia và xây dựng một xã hội công bằng, văn minh.
Đảng Cộng sản Việt Nam đóng vai trò lãnh đạo trong hệ thống chính trị và toàn xã hội, khẳng định vị thế và nhiệm vụ của mình Để xây dựng và chỉnh đốn Đảng cũng như hệ thống chính trị, cần hướng tới sự trong sạch và vững mạnh Chỉ khi Đảng và hệ thống chính trị đạt được sự trong sạch và vững mạnh, mới có khả năng dẫn dắt đất nước và dân tộc đạt được những mục tiêu đề ra.
Đại hội XIII đã đưa ra những nội dung mới về động lực phát triển đất nước, nhấn mạnh việc phát huy ý chí và khát vọng của toàn dân tộc, không chỉ của Đảng và Nhà nước Khát vọng mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam là hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và thịnh vượng Đồng thời, cần kết hợp sức mạnh thời đại, tổng hợp các yếu tố từ thời đại trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị và văn hóa để thúc đẩy sự phát triển bền vững.
Đại hội lần này nhấn mạnh phương thức phát triển tương lai là “đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, phát triển nhanh và bền vững đất nước”, đồng thời phản ánh sự ảnh hưởng của khoa học công nghệ và toàn cầu hóa trong thời đại hiện nay.
Bốn là, chủ đề khẳng định hệ mục tiêu phát triển đất nước gồm: “bảo vệ vững chắc
Mục tiêu xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã được xác định rõ ràng, với tầm nhìn đến giữa thế kỷ XXI, nước ta phấn đấu trở thành một nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa Điều này không chỉ thể hiện quyết tâm của toàn Đảng và toàn dân trong việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, mà còn khẳng định sự phát triển bền vững của đất nước trong tương lai.
Nguồn ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr 71.
Đại hội XIII tập trung vào việc tăng cường xây dựng và chỉnh đốn Đảng cùng hệ thống chính trị, xác định động lực phát triển dựa trên ý chí, khát vọng và sức mạnh dân tộc trong bối cảnh hiện đại Phương thức phát triển được nhấn mạnh là đổi mới sáng tạo, hướng tới sự phát triển nhanh và bền vững, với mục tiêu cuối cùng là bảo vệ và nâng cao đời sống nhân dân.
Tổ quốc, môi trường hòa bình, ổn định, trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa)
1.1.2 Sự thay đổi trong bộ máy chính trị
Sau kỳ họp Quốc hội, bộ máy lãnh đạo chủ chốt đã có nhiều thay đổi quan trọng Trong tổng số 18 ủy viên của Bộ Chính trị khóa XIII, có 9 người giữ nguyên chức danh cũ và 9 người được bổ nhiệm vào các vị trí mới.
Những ủy viên Bộ Chính trị tiếp tục giữ chức danh cũ gồm:
Nguồn tài liệu: Báo Nghệ An 24H
1.1.3 Sự thay đổi trong Chính sách đổi ngoại, mở rộng quan hệ
Trong Báo cáo chính trị của Đại hội XIII, Việt Nam khẳng định sẽ tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa và đa phương hóa Nguyên tắc “4 không” trong chính sách Quốc phòng - An ninh được nhấn mạnh, với mục tiêu bảo vệ lợi ích quốc gia và dân tộc trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế Việt Nam cam kết duy trì vai trò là bạn, đối tác tin cậy và thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
Việt Nam, một quốc gia đang phát triển với hơn 90 triệu dân, đã nhanh chóng ứng phó với dịch bệnh SARS-CoV-2, nhờ vào nhận thức rõ ràng về nguy cơ bùng phát và tàn phá của nó Đảng và Nhà nước đã đưa ra các quyết định kịp thời, giúp kiểm soát dịch bệnh một cách nghiêm túc và nhân văn Những nỗ lực phòng chống đại dịch của toàn Đảng và toàn dân đã được quốc tế ghi nhận và đánh giá cao, đưa Việt Nam trở thành "quốc gia đáng ca ngợi hàng đầu" trong cuộc chiến này Qua đó, Việt Nam đã thể hiện sự tự tin và tích cực trên thị trường quốc tế, từng bước khẳng định vị thế của mình trên bản đồ thế giới.
Chính sách đối ngoại của Việt nam
1.2.1 Chính sách đối ngoại của Việt nam qua các năm từ 2016-nay
Trong giai đoạn 2016 - 2020, Việt Nam đã đối mặt với nhiều cơ hội và thách thức mới do sự thay đổi nhanh chóng của môi trường chiến lược, đặc biệt là cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc tại khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương Điều này đã đặt Việt Nam và các quốc gia Đông Nam Á vào tình thế khó khăn khi phải lựa chọn bên Bên cạnh đó, tình hình tranh chấp và xung đột trên Biển Đông ngày càng phức tạp, và các thách thức an ninh phi truyền thống như an ninh mạng, biến đổi khí hậu, cũng như đại dịch COVID-19 không thể được một quốc gia trong khối ASEAN giải quyết một mình Do đó, hợp tác quốc tế và nỗ lực ngoại giao trở nên cần thiết để đối phó với những vấn đề này.
Năm 2020 đánh dấu thành công lớn của Việt Nam trong việc kiểm soát đại dịch COVID-19, trở thành hình mẫu toàn cầu Dù không sở hữu nền kinh tế mạnh mẽ và cơ sở hạ tầng chưa hiện đại hoàn toàn, Việt Nam vẫn duy trì ổn định kinh tế vĩ mô trong bối cảnh thị trường nội địa chịu ảnh hưởng nặng nề từ đại dịch Xuất khẩu, với vai trò chủ lực, ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng 2,91%, cao nhất trong các nước Đông Nam Á Việt Nam đã kết thúc năm 2020 và giai đoạn 5 năm 2016-2020 với nhiều thành tựu chính trị đáng ghi nhận.
Xã hội ổn định và an ninh quốc phòng được củng cố vững chắc, trong khi dịch bệnh được kiểm soát hiệu quả Kinh tế đạt mức tăng trưởng cao, nằm trong top đầu thế giới.
Hình 1.1: Biểu Đồ diễn biến xuất khẩu, nhập khẩu và cán cân thương mại của 9
Việt Nam theo tháng trong năm 2020 Nguồn số liệu: Tổng cục Hải quan
Giai đoạn 2016-2020, chính sách đối ngoại của Việt Nam đạt nhiều thành tựu quan trọng, bao gồm việc thiết lập mối quan hệ sâu sắc với các cường quốc như Mỹ, Nhật Bản, Australia và các nước EU Việt Nam đã nâng tổng số quan hệ đối tác chiến lược và toàn diện lên 30 nước, đồng thời có tiếng nói ngày càng mạnh mẽ tại các diễn đàn quốc tế Về hội nhập kinh tế, Việt Nam đã tham gia và ký kết các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như CPTPP và EVFTA, cùng với RCEP, khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế.
Việt Nam đã đóng góp quan trọng vào việc xây dựng và củng cố các thể chế đa phương, khẳng định vai trò cầu nối hòa giải và góp phần vào hòa bình, ổn định khu vực và thế giới thông qua việc tổ chức thành công APEC 2017 và Diễn đàn Kinh tế Thế giới ASEAN.
2018, tổ chức cuộc gặp thượng đỉnh Mỹ-Hàn (2/ 2019), đảm nhận vai trò Chủ tịch ASEAN 2020 và Ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc
Công tác đối ngoại của Việt Nam đã góp phần quan trọng vào việc duy trì chủ quyền biển đảo và toàn vẹn lãnh thổ, với việc ký kết và phê duyệt hai văn kiện hợp pháp hóa phân chia giới mốc với Campuchia đạt tỷ lệ 84% Trong bối cảnh Biển Đông phức tạp, Việt Nam kiên định bảo vệ vị thế của mình, đồng thời duy trì mối quan hệ song phương ổn định với các đối tác Ngoài ra, Việt Nam đã triển khai hiệu quả các cuộc đấu tranh chính trị, pháp lý, ngoại giao và trên thực địa Đối ngoại cần phù hợp với các mục tiêu ưu tiên của đất nước, đáp ứng nhu cầu cải tiến, quan tâm đến kiến nghị và phát triển chuỗi cung ứng chất lượng cao, đồng thời nâng cao dự báo chiến lược và chất lượng cán bộ.
1.2.2 Chính sách đối ngoại của Việt nam trong tác động của dịch COVID19 - đại hội Đảng lần thứ 13
1.2.2.1 Các nội dung chính của Đại hội đảng lần 13
Đảng và Nhà nước tiếp tục kiên trì thực hiện nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi trong chính sách đối ngoại, nhằm duy trì môi trường hòa bình và ổn định, đồng thời tận dụng tối đa nguồn lực bên ngoài cho sự phát triển toàn diện của đất nước Đại hội Đảng lần thứ XIII nhấn mạnh việc xây dựng một nền ngoại giao “toàn diện, hiện đại” với ba trụ cột chính: đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân Báo cáo chính trị cũng đánh giá rõ ràng về môi trường chiến lược của Việt Nam, nhận diện các khó khăn và thách thức trong tương lai Đồng thời, Đại hội đã nâng cao tầm quan trọng của đối ngoại đa phương và khẳng định vai trò của Việt Nam trong các tổ chức quốc tế như ASEAN, Liên hợp quốc, APEC và các khuôn khổ hợp tác khu vực khác Chính sách đối ngoại còn được đề cập với những động lực và vị thế mới, nhằm mở rộng quan hệ với các quốc gia trên toàn thế giới, nâng cao năng lực cạnh tranh và vị thế quốc tế của Việt Nam.
Chính sách đối ngoại tại Đại hội XIII của Đảng thể hiện sự chuyển biến lớn trong tư duy chiến lược, nhằm nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam Đồng thời, việc cải thiện khả năng thích nghi với sự thay đổi do tiến bộ khoa học và công nghệ cũng được nhấn mạnh, cùng với việc duy trì các giá trị cốt lõi như độc lập, tự chủ và quan hệ cân bằng với các cường quốc.
Từ sau Đại hội XII của Đảng, Việt Nam đã có những thay đổi lớn trong định vị quốc gia, với năng lực ngày càng tăng Quốc gia này đang chủ động hơn trong việc duy trì hòa bình và ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho các mục tiêu an ninh và phát triển Theo bảng xếp hạng Chỉ số Quyền lực châu Á của viện Lowy, Việt Nam xếp thứ 12 nhờ vào sự gia tăng ảnh hưởng đối ngoại và đứng thứ 2 trong Chỉ số ứng phó với Covid-19.
1.2.2.2 Chính sách đối ngoại của Việt nam trước tác động của dịch COVID19
Giai đoạn 2016-2019, Đảng đã xác định rõ mục tiêu và nhiệm vụ đối ngoại dựa trên tình hình thế giới và khu vực, đồng thời thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược với các nước lớn quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội Nhờ đó, hoạt động đối ngoại của Việt Nam đạt hiệu quả cao hơn các mục tiêu đề ra, chủ động hội nhập quốc tế, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển đất nước và bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc.
Sau 25 năm bình thường hóa quan hệ kinh tế, kim ngạch thương mại giữa Hoa Kỳ và Việt Nam đã tăng từ con số 0 lên 77 tỷ USD, chứng tỏ mối quan hệ đối tác và tình hữu nghị mạnh mẽ giữa hai quốc gia Sự phát triển này được xây dựng trên nền tảng tôn trọng lẫn nhau và cam kết chung vì hòa bình và thịnh vượng Nhờ vào những định hướng rõ ràng và tầm nhìn chung, hai nước đã trở thành đối tác trong nhiều lĩnh vực như an ninh, thương mại, y tế, môi trường và giao lưu nhân dân, góp phần thúc đẩy mối quan hệ ngày càng phát triển tốt đẹp.
1.2.2.3 Chính sách đối ngoại của Việt nam trong tác động của dịch COVID19 - đại hội Đảng lần thứ 13
Trong bối cảnh khó khăn do Covid-19, Đảng và nhà nước đã linh hoạt áp dụng các phương thức ngoại giao trực tuyến để duy trì cơ hội phát triển và hợp tác quốc tế trong phòng chống dịch bệnh Điều này khẳng định Việt Nam có khả năng điều chỉnh nhanh chóng và chống chịu tốt trước những thách thức bên ngoài, đồng thời thể hiện vai trò tích cực và có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế Ngoài ra, công tác bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài đã được lãnh đạo thực hiện kịp thời và hiệu quả Kết quả là đã tổ chức gần 300 chuyến bay, đưa hơn 75.000 công dân từ hơn 60 quốc gia và vùng lãnh thổ về nước an toàn, cũng như bảo vệ ngư dân và tàu cá của Việt Nam ở nước ngoài.
Biểu đồ thể hiện hiệu quả của các biện pháp phòng chống dịch Covid-19 mà Chính phủ và Nhà nước Việt Nam đã thực hiện Khảo sát này được thực hiện bởi nhóm nghiên cứu của Tiến sĩ.
Lê Hoàng Việt Lâm và Nguyễn Phước Thạnh)
Mối quan hệ song phương giữa Hoa Kỳ và Việt Nam đã trở nên mạnh mẽ hơn trong giai đoạn khó khăn của đại dịch COVID-19, đặc biệt trong lĩnh vực y tế Phái đoàn Ngoại giao Hoa Kỳ, bao gồm ba cơ quan với chuyên môn cao, đã đóng góp quan trọng vào cuộc chiến chống dịch Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) đã huy động nhanh chóng các đối tác phi chính phủ để hỗ trợ ứng phó với đại dịch Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (U.S CDC) đã cung cấp hỗ trợ kỹ thuật kịp thời cho Bộ Y tế Việt Nam Văn phòng Tùy viên Y tế Sứ quán Hoa Kỳ cũng đã cung cấp thông tin và vật tư y tế, giúp giảm bớt gánh nặng thiếu thốn cho Việt Nam Sự hợp tác của cả ba cơ quan đã góp phần làm cho mối quan hệ giữa hai nước trở nên gần gũi hơn.
1.2.2.4 Chính sách đối ngoại được Đảng áp dụng trong tình hình dịch được kiểm soát
Sau Đại hội XIII, Việt Nam cần duy trì thế “cân bằng” giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, điều này ảnh hưởng đến chính sách ngoại giao của đất nước Chiến lược này không chỉ dựa trên yếu tố chiến lược mà còn liên quan đến phương diện kinh tế Việc giữ thế “cân bằng” trong mối quan hệ hai chiều với hai cường quốc này là một chiến lược phổ biến trong chính trị quốc tế và phù hợp với nhu cầu của cả hai bên.
Tổng quan về dịch covid 19
1.3.1 Tổng quan tình hình dịch Covid -19 trên thế giới hiện nay
Sự bùng phát của đại dịch Covid:
Vào cuối tháng 12 năm 2019, một đợt bùng phát bệnh viêm phổi mang tên COVID-19 đã xảy ra tại chợ hải sản Hoa Nam ở Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc Các triệu chứng chính của bệnh bao gồm sốt, ho khan và mệt mỏi, do virus SARS-CoV-2 gây ra, thuộc chủng virus corona có gen tương tự như SARS-CoV, nguyên nhân của đại dịch SARS năm 2003 Các ca nghi nhiễm đầu tiên được báo cáo vào ngày 31 tháng 12 năm 2019, và trường hợp tử vong đầu tiên do SARS-CoV-2 được ghi nhận vào ngày 9 tháng 1 năm 2020.
Vào năm 2020, dịch COVID-19, giống như SARS trước đó, đã gây ra nỗi sợ hãi toàn cầu về một đại dịch thế kỷ Virus nhanh chóng lây lan đến nhiều thành phố lớn của Trung Quốc như Hồ Bắc, Chiết Giang, Quảng Đông, Hà Nam, Thượng Hải và Bắc Kinh, sau đó lan rộng ra các quốc gia Đông và Đông Nam Á, với những điểm nóng tại Hàn Quốc và Nhật Bản Dịch bệnh không chỉ dừng lại ở châu Á mà còn tấn công toàn cầu với tốc độ lây nhiễm nhanh chóng Ngày 23/1/2020, chính phủ Trung Quốc đã quyết định phong tỏa để kiểm soát sự lây lan của virus.
Vũ Hán, tâm điểm của dịch Covid-19 tại Trung Quốc và trên toàn cầu, đã tạm dừng hệ thống giao thông cùng mọi hoạt động xuất nhập khẩu nhằm ngăn chặn sự lây lan của virus Vào ngày 11/3/2020, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã chính thức công nhận COVID-19 là đại dịch toàn cầu.
Tính đến 6 giờ sáng ngày 21/6, trên toàn thế giới có 179.127.503 ca nhiễm COVID-19 và 3.879.122 trường hợp tử vong Mặc dù số liệu về ca nhiễm, khỏi bệnh và tử vong có sự khác biệt giữa các quốc gia, nhưng tất cả đều nỗ lực kiểm soát dịch bệnh Đại dịch này đã kéo dài gần 2 năm và ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhiều quốc gia Nhờ vào sự cố gắng của các quốc gia, đã có 163.675.395 bệnh nhân được điều trị khỏi, trong khi số ca đang điều trị tích cực là 11.989.066, với 84.659 ca trong tình trạng nguy kịch.
1.3.2 Tổng Quan về dịch Covid - 19 ở Việt Nam hiện nay
Việt Nam chính thức ghi nhận ca nhiễm bệnh đầu tiên vào ngày 23 tháng 1 năm
2020 Từ ngày chính thức ghi nhận ca nhiễm bệnh đầu tiên, Việt Nam đến hiện tại có 4 đợt dịch lớn Nguồn : Wikipedia
Ảnh hưởng của đại dịch Covid lên Kinh tế-chính trị
1.4.1 Ảnh hưởng của dịch lên nền kinh tế- chính trị thế giới Đại dịch COVID-19 đã tàn phá nền kinh tế toàn cầu, khiến nhiều người trên thế giới lâm vào cảnh khó khăn COVID-19 đã tạo ra một số bất ổn liên quan đến các chính sách kinh tế và xã hội Xem xét trên góc độ kinh doanh, dịch bệnh có tác động tiêu cực đối với hầu hết tất cả các ngành Hiện nay, tác động tiềm tàng của COVID-19 đối với toàn cầu hóa và sức khỏe toàn cầu về phương diện di chuyển, thương mại, du lịch và các quốc gia bị ảnh hưởng nhiều nhất Trật tự và hoạt động kinh tế thế giới thay đổi mạnh mẽ do hầu hết các quốc gia đang trải qua thời kỳ cách ly tại nhà, giãn cách xã hội và thậm chí đóng cửa quốc gia Các chuỗi cung ứng bị phá hủy, các vấn đề thất nghiệp, ngân sách nhà nước lần lượt kéo đến… Đại dịch COVID-19 đã gây ra thiệt hại và tác động mạnh mẽ, sâu rộng hơn gấp nhiều lần so với các cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính đã từng xảy ra. Đại dịch COVID-19 đã tạo ra nhiều thay đổi trong thói quen, dưới các chỉ thị giãn cách xã hội thì các hình thức mua sắc trực tuyến đã lên ngôi Theo xu hướng đó, các doanh nghiệp trong và ngoài nước đề phải chuyển đổi số để tiếp tục sống sót trong đại dịch Chính phủ của hầu hết các nước đã đưa ra các giải pháp nhằm khôi phục, thúc đẩy nền kinh tế số, đặc biệt là thương mại điện tử ( trụ cột chính trong các chiến lược khôi phục kinh tế trong thời kì đen tối này) Đại dịch đã phản ảnh rõ việc các nước phát triển và đang phát triển phụ thuộc quá nhiều vào nền sản xuất của Trung Quốc, họ cần tiền kím những nhà đầu tư và đối tác mới trong tương lai
Trước những tác động khó lường của đại dịch COVID-19, các quốc gia cần cân bằng giữa việc tận dụng toàn cầu hóa và duy trì tự lực cần thiết Việc cấu trúc lại chính sách đối ngoại là cần thiết để đảm bảo thị trường toàn cầu, nhằm ứng phó với các vấn đề an ninh và trật tự, ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền kinh tế.
21 nội dung đã được điều chỉnh để phù hợp với tình hình hiện tại, với các chính sách mạnh mẽ áp dụng cho cả cá nhân và cộng đồng nhằm kiểm soát sự lây lan của dịch bệnh, từ đó giảm thiểu nguy cơ suy thoái kinh tế quốc gia.
Cải cách hàng loạt chính sách có thể gây sức ép lên quá trình hội nhập quốc tế, ảnh hưởng đến các tổ chức quốc tế, doanh nghiệp đa quốc gia và chính phủ các nước, tạo ra thách thức cho các nền kinh tế Mặc dù vậy, toàn cầu hóa vẫn là mục tiêu quan trọng, vì vậy các quốc gia sẽ tiến hành các biện pháp một cách thận trọng và có kiểm soát.
1.4.2 Ảnh hưởng của dịch lên nền kinh tế- chính trị Việt nam
Khi đại dịch COVID-19 bùng phát, nó đã ảnh hưởng sâu rộng đến điều kiện sống xã hội toàn cầu và làm đảo ngược quá trình phát triển của nhiều quốc gia Tại Việt Nam, mặc dù còn nhiều hạn chế trong lĩnh vực y tế, Chính phủ đã thành công trong việc kiểm soát số ca bệnh và giảm thiểu tỷ lệ tử vong Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam vẫn chịu tác động không nhỏ từ đại dịch.
Kinh tế Việt Nam đang trải qua sự thay đổi nhanh chóng về cơ cấu dân số và xã hội, với dân số đạt 96,2 triệu vào năm 2019 và dự kiến sẽ tăng lên 120 triệu vào năm 2050 Tính đến cuối năm 2020, 32,1 triệu người từ 15 tuổi trở lên đã bị ảnh hưởng tiêu cực bởi dịch COVID-19, trong đó 69,2% bị giảm thu nhập và 39,9% phải giảm giờ làm Ngành sản xuất tại Việt Nam phụ thuộc lớn vào nguyên vật liệu nhập khẩu, với 59% nguyên liệu được nhập khẩu vào năm 2019, nhưng dịch COVID-19 đã làm gián đoạn chuỗi cung ứng và gây thiếu hụt trong sản xuất Để xây dựng một nền kinh tế bền vững hơn, Việt Nam cần cải cách quản lý và chính sách nhằm giảm thiểu sự phụ thuộc vào nước ngoài.
1.4.3 Những thay đổi trong các chính sách đối ngoại Việt nam trong tình hình dịch
Trong bối cảnh dịch Covid-19 phức tạp, Việt Nam phải đối mặt với áp lực lớn từ các vấn đề kinh tế - xã hội và những biến động toàn cầu Năm 2020 được xác định là thời điểm thực hiện các mục tiêu trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020 Để ứng phó, Đảng và Nhà nước đã triển khai nhiệm vụ kép: vừa phòng chống dịch, vừa phục hồi kinh tế - xã hội, đồng thời giữ vững môi trường hòa bình và ổn định Tinh thần đoàn kết và quyết tâm của toàn bộ hệ thống chính trị và cộng đồng là cần thiết để đạt được mục tiêu này Trong năm 2020, Việt Nam cũng đã có những bước tiến trong quan hệ đối ngoại, tận dụng cơ hội để mở rộng hợp tác và giảm bớt sự phụ thuộc vào Trung Quốc trong lĩnh vực sản xuất.
Năm 2020, Việt Nam đã tích cực thúc đẩy hội nhập kinh tế thông qua việc phê chuẩn Hiệp định thương mại tự do với Liên minh châu Âu (EVFTA), tham gia Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) cùng các nước ký kết, và ký kết Hiệp định Thương mại tự do với Vương quốc Anh Những bước đi này đóng góp quan trọng vào hoạt động kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước.
Năm 2020, Việt Nam đã thiết lập quan hệ chính thức với 189/193 quốc gia, ký kết 15 hiệp định FTA và triển khai hiệu quả Hiệp định Thương mại Tự do EU-Việt Nam (EVFTA) Hiện tại, Việt Nam cũng đang trong quá trình đàm phán hai hiệp định FTA mới.
23 một nền kinh tế thị trường với sự công nhận của 79 quốc gia Nguồn: Báo Nhân Dân
Đến cuối năm 2020, Việt Nam đã khẳng định được khả năng tự lực và tự cường khi kiểm soát thành công sự lây lan của dịch COVID-19 Quốc gia này đã phản ứng nhanh chóng và hiệu quả trong việc hỗ trợ doanh nghiệp và thị trường, đồng thời tích cực tham gia hợp tác song phương và các hiệp định thương mại đa phương Việt Nam đã tận dụng cơ hội để thay thế và định vị lại chuỗi cung ứng khu vực và quốc tế, thúc đẩy tái cơ cấu tổ chức và công nghệ, chuyển đổi số, cũng như tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, hướng tới tăng trưởng nhanh và bền vững.
1.4.3.2 Chính sách xuất nhập khẩu
Việt Nam đã liên tục xuất siêu từ năm 2016 đến 2020, với mức xuất siêu đạt 19,1 tỷ USD trong năm 2020 Các chính sách mở cửa và hợp tác quốc tế đã giúp thị trường xuất khẩu của Việt Nam trở nên đa dạng và phát triển mạnh mẽ Doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tham gia vào các chuỗi giá trị thương mại khu vực và toàn cầu, trong đó ngành sản phẩm công nghệ cao đã tăng 50% tỷ trọng hàng hóa trong năm 2020.
Việt Nam đã có những cải cách đáng kể trong quy trình thủ tục hải quan, nhờ vào các chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm đảm bảo ổn định cho hoạt động xuất nhập khẩu Hệ thống văn bản pháp luật về quản lý thủ tục hải quan đã được xây dựng đầy đủ, với thông tin rõ ràng và dễ tuân theo Trong 6 tháng đầu năm, Tổng cục Hải quan đã thực hiện tốt các chỉ đạo và giám sát, xử lý kịp thời các khó khăn liên quan đến hàng hóa xuất nhập khẩu, đặc biệt là nguyên liệu thực vật và khoáng sản Đồng thời, Tổng cục cũng đã đưa ra các biện pháp khắc phục khó khăn trong việc sử dụng mã số và mã vạch cho hàng hóa xuất khẩu Việc ứng dụng công nghệ tiên tiến trong quản lý và giám sát hoạt động xuất nhập khẩu trong bối cảnh dịch bệnh phức tạp đã tạo ra những điểm sáng tích cực Bộ Tài chính cũng đã phối hợp với các tỉnh, thành phố để tạo điều kiện thông quan nhanh chóng cho nông sản trong mùa thu hoạch, đồng thời giải quyết kịp thời các vướng mắc và đảm bảo an ninh trật tự, tránh ùn tắc giao thông, hỗ trợ doanh nghiệp trong hoạt động xuất nhập khẩu.
Cục hải quan các tỉnh, thành phố được yêu cầu khẩn trương hỗ trợ thông quan hàng hóa xuất khẩu, đặc biệt là sản phẩm nông nghiệp trong mùa thu hoạch Đồng thời, cần nhanh chóng giải quyết các vướng mắc trong thủ tục hải quan và phối hợp chặt chẽ với cơ quan kiểm dịch để hoàn tất các giấy tờ hành chính cho doanh nghiệp.
Bố trí cán bộ công chức để xử lý nhanh chóng thủ tục thông quan và kiểm tra hàng hóa xuất khẩu nông sản ngoài giờ hành chính, vào ngày nghỉ và lễ Điều này giúp ưu tiên và sắp xếp các mặt hàng đã hoàn tất thủ tục thông quan được đi qua cửa khẩu sớm hơn.
Chúng tôi luôn hợp tác chặt chẽ với các lực lượng như Biên phòng và Công an để điều tiết giao thông, đảm bảo không xảy ra tình trạng mất ổn định ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp Đồng thời, chúng tôi cũng tăng cường trao đổi thông tin về thủ tục hải quan và chính sách hàng hóa từ phía nhập khẩu, nhằm tuyên truyền và hỗ trợ doanh nghiệp nắm bắt kịp thời.
Do ảnh hưởng bởi dịch COVID-19, nên Chính phủ đã đưa ra các chính sách để hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong nước.
- Hỗ trợ thuế thu nhập doanh nghiệp
TÌNH HÌNH XUẤT- NHẬP KHẨU TRÁI CÂY VIỆT NAM
Tổng quan tình hình xuất - nhập khẩu trái cây của Việt Nam giai đoạn 2015-2021
2.1.1: Tình hình xuất - nhập khẩu trái cây Việt Nam
2.1.1.1 Tình hình trước dịch Với điều kiện và thổ nhưỡng thuận lợi, 70% dân số làm nghề nông và diện tích canh tác rau quả khoảng 1.500.000 ha Việt Nam có tiềm năng phát triển ổn định lâu dài trong sản xuất và xuất khẩu sản phẩm rau quả khi có một chiến lược phát triển ngành tầm quốc gia với trái cây là một trong những mặt hàng tiềm lực về xuất khẩu nông sản.
Kim ngạch xuất khẩu rau quả lần đầu tiên vượt kim ngạch xuất khẩu gạo năm
2016 (đạt 2,2 tỷ USD), tăng hơn 30% so với cùng kỳ năm 2015 và vượt chỉ tiêu
Bộ Công Thương dự kiến chiến lược xuất khẩu rau quả Việt Nam đạt 2,2 tỷ USD, với việc dỡ bỏ hàng rào kỹ thuật cho 5 mặt hàng xuất khẩu sang 4 thị trường lớn như Australia, Đài Loan, Thái Lan và Peru Hiện nay, rau quả Việt Nam đã có mặt tại hơn 60 quốc gia, trong đó trái cây chiếm 40% tổng kim ngạch xuất khẩu, biến chúng thành những "đại sứ" kết nối Việt Nam với thế giới Tuy nhiên, nhu cầu nhập khẩu trái cây và rau củ phục vụ tiêu dùng trong nước cũng tăng nhanh, với 814 triệu USD chi cho nhập khẩu trong 11 tháng đầu năm 2016, tăng 44% so với cùng kỳ năm trước Thái Lan, Trung Quốc và Australia là những nguồn cung chính cho thị trường Việt Nam, dự kiến tổng chi nhập khẩu trong năm 2016 sẽ đạt 1 tỷ USD.
Nâng cao giá trị gia tăng của trái cây Việt Nam
Trong năm qua, các đơn vị thuộc Cục đã kiểm dịch hơn 10.500 tấn quả tươi xuất khẩu, gấp đôi so với năm 2015, với sự tăng trưởng mạnh mẽ ở các mặt hàng như thanh long và nhãn Xuất khẩu thanh long sang Hoa Kỳ đã tăng gấp đôi, trong khi nhãn tăng 5,25 lần; xoài xuất khẩu sang Hàn Quốc cũng tăng gấp đôi Đài Loan đã mở cửa trở lại cho trái thanh long Việt Nam, xuất khẩu hơn 100 tấn Đây là lần đầu tiên lượng rau quả xuất khẩu sang các thị trường khó tính vượt mốc 10.000 tấn, mặc dù vẫn còn nhỏ so với xuất khẩu rau quả toàn cầu Việc phát triển xuất khẩu sang các thị trường yêu cầu chất lượng và an toàn thực phẩm cao như Mỹ và Nhật Bản đang được chú trọng.
Bản, Australia và New Zealand đã ghi nhận sự tăng trưởng liên tục qua các năm, tạo ra sự ổn định trong giá cả thu mua nông sản Điều này không chỉ giúp nâng cao thương hiệu rau quả Việt Nam trên thị trường quốc tế mà còn tăng cường tính cạnh tranh cho nông sản Việt Nam.
Theo Hiệp hội Rau quả Việt Nam, xuất khẩu rau quả năm 2017 đạt 3,514 tỷ USD, tăng 43,02% so với năm trước, ghi nhận tốc độ tăng trưởng cao nhất trong các mặt hàng nông sản.
Trung quốc (75,6%); Nhật Bản (3,64%); Hoa Kỳ (2,94%); Hàn Quốc (2,59%); Hà Lan (1,81%); Malaysia (1,43%); Đài Loan (1,33%); Thái Lan (1,03%); UAE (1,01%); Nga (0,85%); Thị trường khác (7,77%)
Thị trường rau quả trong nước đang ngày càng chuyên nghiệp với hệ thống truy xuất nguồn gốc và nhãn mác rõ ràng Đây là một bước tiến quan trọng, phản ánh sự chuyển mình của ngành rau quả hướng tới chuyên nghiệp hóa.
Các thị trường xuất khẩu rau quả lớn nhất Việt Nam 2017 Trung Quốc
Nhật Bản Hoa Kì Hàn Quốc
Hà Lan Malaysi a Đài Loan
Biểu đồ các thị trường xuất khẩu rau quả lớn nhất Việt Nam năm 2017 cho thấy sự tăng trưởng mạnh mẽ trong nhu cầu cung ứng cho các đô thị lớn và thị trường xuất khẩu (Nguồn: tạp chí Kinh tế và Dự báo)
Về nhập khẩu rau quả ước đạt hơn 1,555 tỷ USD tăng 68,12 % so với cùng kỳ
2016 Như vậy, trong cả năm 2017, rau quả ước xuất siêu hơn 1,958 tỷ USD. Tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam đạt 3,52 tỷ USD trong năm
Năm 2018, xuất khẩu rau quả Việt Nam đạt 3,8 tỷ USD, tăng 10,8% so với năm trước So với 2,4 tỷ USD năm 2016 và 3,5 tỷ USD năm 2017, ngành rau quả đã vượt qua nhiều mặt hàng nông sản chủ lực như chè, hạt tiêu, và gạo, khẳng định vị thế là một trong những mặt hàng xuất khẩu quan trọng nhất của Việt Nam.
Rau quả Việt Nam chủ yếu được xuất khẩu sang các thị trường lớn như Trung Quốc, Hoa Kỳ, Đông Nam Á, Liên minh châu Âu, Hàn Quốc và Nhật Bản, với kim ngạch xuất khẩu vượt 100 triệu đô la.
Thị trường Trung Quốc đóng vai trò quan trọng nhất trong xuất khẩu rau quả của Việt Nam, chiếm 73% tổng kim ngạch với 2,78 tỷ USD vào năm 2018, tăng 5,03% so với năm 2017 Mỹ đứng thứ hai với kim ngạch 139,9 triệu USD, ghi nhận mức tăng 37% so với năm trước Hàn Quốc và Nhật Bản theo sau với kim ngạch lần lượt là 113,9 triệu USD và 105 triệu USD, tăng 33% và giảm 17% so với năm 2017 Ngoài ra, Việt Nam cũng xuất khẩu rau quả sang các thị trường như Hà Lan, Malaysia, Thái Lan và Australia Tuy nhiên, xuất khẩu rau quả sang Indonesia giảm mạnh 52,75%, chỉ đạt 1,49 triệu USD.
Sự gia tăng chấp nhận rau quả Việt Nam trên nhiều thị trường quốc tế cho thấy chất lượng sản phẩm đang được nâng cao Điều này đồng thời phản ánh nhận thức ngày càng tốt của người tiêu dùng về các quy trình sản xuất nông nghiệp đạt tiêu chuẩn như VietGAP và GlobalGAP.
Xuất khẩu trái cây của Việt Nam sang Hoa Kỳ đã gặp nhiều khó khăn do tác động của dịch Covid-19, bắt đầu từ tháng 3 năm 2020.
Kỳ, bao gồm cả nhân viên Cơ quan Kiểm dịch Sức khỏe Thực vật và Động vật
Cục Kiểm dịch và An toàn Thực phẩm Hoa Kỳ (APHIS) đã yêu cầu một đơn vị về nước, dẫn đến việc giám sát và kiểm dịch tại nhà máy chiếu xạ Sơn Sơn Sơn ở Thành phố Hồ Chí Minh bị ảnh hưởng Kể từ đó, hoạt động chiếu xạ và xuất khẩu trái cây sang Mỹ đã bị chậm lại Theo thông tin từ Cục Bảo vệ thực vật thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tổng lượng trái cây xuất khẩu sang Hoa Kỳ trong năm đạt 12.295,6 tấn.
Trong năm 2019 và sáu tháng đầu năm 2020, Việt Nam đã xuất khẩu 6.441,08 tấn trái cây, chiếm 52,39% tổng lượng xuất khẩu so với năm 2019 Để xuất khẩu trái cây sang Hoa Kỳ, các sản phẩm này phải được giám sát tại cơ sở chiếu xạ theo quy định của nước này Việc thiếu chuyên gia kiểm dịch thực vật của Mỹ tại nhà máy chiếu xạ có thể ảnh hưởng tiêu cực đến các doanh nghiệp xuất khẩu trái cây sang Hoa Kỳ.
Do ảnh hưởng của dịch Covid-19, sản lượng xuất khẩu trái cây của Vina T&T đã giảm từ 20 đến 30%, chỉ đạt 100 đến 150 tấn mỗi tuần Tình hình trở nên tồi tệ hơn khi công ty không thể xuất khẩu sang Hoa Kỳ từ ngày 7 đến 21 tháng 8 do thiếu nhân viên kiểm dịch Để giải phóng hàng tồn kho, Vina T&T đã chuyển hướng xuất khẩu sang Úc và Canada, chấp nhận giá bán thấp hơn Tuy nhiên, sản lượng xuất khẩu sang các thị trường này không lớn do công ty đã chuẩn bị đủ nguồn hàng Chỉ khoảng 5% sản phẩm được tiêu thụ qua các chuỗi bán lẻ nội địa, trong khi phần lớn nông sản không xuất khẩu phải được đông lạnh, làm giảm giá trị và tăng chi phí bảo quản, lưu kho cùng các chi phí phát sinh khác.
Tác động của dịch Covid19 đến xuất - nhập khẩu trái cây của Việt Nam34
Hình 2.10: Biểu đồ kim ngạch xuất khẩu 7/2020
Vào tháng 7/2020, kim ngạch xuất khẩu rau quả giảm mạnh, đạt 222,4 triệu USD, giảm 13,5% so với tháng trước và 10,1% so với cùng kỳ năm ngoái Tính chung 7 tháng đầu năm, xuất khẩu đạt 1,98 tỷ USD, giảm 13,1% so với năm 2019, chủ yếu do dịch bệnh và thiên tai tại Trung Quốc Tuy nhiên, đến tháng 8/2020, kim ngạch xuất khẩu rau quả ước đạt 280 triệu USD, tăng 25,9% so với tháng 7 và 4,2% so với tháng 8/2019 Mặc dù có sự cải thiện, kim ngạch toàn ngành vẫn giảm 11,3% trong 8 tháng đầu năm 2020 so với cùng kỳ năm trước, ước đạt 2,26 tỷ USD, và dự báo chuỗi suy giảm sẽ tiếp tục.
2.2.2.1 Các chuỗi vận chuyển đứt quãng
Đầu năm 2020, Trung Quốc đã phải đối mặt với sự bùng phát mạnh mẽ của dịch Covid-19, điều này đã ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế của quốc gia, vì Trung Quốc là một trong những nước quan trọng trong kim ngạch thương mại toàn cầu.
Xuất khẩu của Việt Nam gặp khó khăn khi Trung Quốc đóng cửa và hạn chế lưu thông tại các cửa khẩu phụ và chính, ảnh hưởng đến con đường vận chuyển hàng hóa giữa hai nước.
- Tháng 2/2020, Mỗi ngày cửa khẩu Hữu Nghị (Lạng Sơn) chỉ cho qua khoảng
100 container/ngày, ở Lào Cai khoảng 65 container/ngày Container đông lạnh chở nông sản ún ứ tại của khẩu lên con số hàng trăm chiếc mỗi nơi.
Vào ngày 3/4/2020, Trung Quốc đã áp dụng các biện pháp phòng dịch nghiêm ngặt, gây ảnh hưởng lớn đến hoạt động trao đổi và xuất khẩu hàng hóa qua biên giới Ngoài cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị, các cửa khẩu như Ga Đường sắt quốc tế Đồng Đăng, Chi Ma, Tân Thanh và Cốc Nam chỉ còn duy trì chức năng thông quan hàng hóa, trong khi các cửa khẩu và lối mở khác đã tạm thời đóng cửa.
Vào ngày 7 tháng 4 năm 2020, Trung Quốc đã siết chặt quản lý đối với xe hàng và lái xe qua biên giới, áp dụng các yêu cầu nghiêm ngặt cho phương tiện và tài xế chuyên chở hàng hóa.
Tại cửa khẩu Tân Thanh vào sáng 5/4, xe chở nông sản chật kín kho bãi, trong khi đó, tại hai cửa khẩu lớn Hữu Nghị và Tân Thanh, xe chuyên biệt vận chuyển được yêu cầu, với tài xế từ các tỉnh không có dịch bệnh phải có kết quả âm tính với Covid-19 và được đăng ký trước Trung Quốc cũng đã hạn chế thời gian thông quan hàng hóa tại các cửa khẩu như Tân Thanh, Cốc Nam và Chi Ma, với thời gian xuất nhập khẩu chỉ 5 tiếng/ngày, và Chi Ma yêu cầu có đội xe chuyên trách Ngoài ra, vào thứ 7, chủ nhật và các ngày lễ, cửa khẩu không làm việc.
Tình hình dịch bệnh đã làm cho xuất khẩu hàng hóa gặp nhiều khó khăn, với hơn 2000 xe hàng bị ứ đọng tại các cửa khẩu Số lượng người tập trung tại các khu vực này lên đến hàng nghìn, điều này càng gia tăng thách thức trong công tác phòng chống dịch Covid-19.
2.2.2.2 Các loại trái cây bị tắc nghẽn tại cửa khẩu
Mặc dù các container vẫn được cho phép qua các cửa khẩu, nhưng chỉ một số mặt hàng nông sản nhất định được ưu tiên thông qua, bao gồm 9 loại chính: thanh long, dưa hấu, vải, nhãn, chuối, xoài, mít, chôm chôm và măng cụt.
Mùa thu hoạch của các loại quả như thanh long, chôm chôm, nhãn đang đến, nhưng sản lượng xuất khẩu lớn trong khi lượng hàng nhập khẩu lại rất hạn chế Dù được ưu tiên, vẫn còn một lượng lớn hàng tồn đọng trong các container Hơn nữa, tình hình dịch bệnh tại Trung Quốc đã dẫn đến tình trạng thiếu nhân viên cửa khẩu và nhân viên bóc hàng nghiêm trọng.
- Hơn nữa những nông sản, loại trái cây khác không nằm trong danh mục nhập, có thể bị từ chối thông qua.
2.2.2.3 Sản phẩm bị thiệt hại về sản lượng và chất lượng
Chất lượng nông sản thu hoạch bị đông lạnh lâu dài sẽ giảm sút đáng kể khi gặp thời tiết nắng nóng, thậm chí có thể không sử dụng được Đối với các loại trái cây được phép thông qua, vẫn tồn tại nhiều rủi ro về chất lượng Những trái cây bị từ chối tại cửa khẩu đồng nghĩa với việc thương lái có nguy cơ mất trắng, hoặc họ có thể nhờ sự hỗ trợ từ người dân trong nước để thu hồi một phần vốn.
Hàng ngàn container đang bị kẹt lại tại các cửa khẩu, dẫn đến việc hàng hóa không thể xuất khẩu, gây ra sự giảm sút đáng kể trong sản lượng xuất khẩu Theo thống kê, trong 7 tháng đầu năm 2020, kim ngạch xuất khẩu hàng rau quả chỉ đạt 1,98 tỷ USD, giảm 13,1% so với cùng kỳ năm 2019.
2.2.3 Tác động đến người dân thiệt hại của người trồng
2.2.3.1 Thiệt hại của người trồng
Việc các cửa khẩu thông thương với Trung Quốc bị đóng cửa từ đầu năm đã khiến nhiều mặt hàng như chuối, thanh long, xoài, dưa không được thu mua, dẫn đến giá cả giảm mạnh Cụ thể, giá thanh long từ 40.000 đồng/kg nay chỉ còn 5-6.000 đồng/kg Hình ảnh người nông dân trồng cây ăn quả rơi nước mắt trong sự bất lực khi không chỉ chịu thua lỗ mà còn đối mặt với nguy cơ mất trắng, vì trái cây cần được thu hoạch đúng thời điểm và xuất khẩu.
Tại cửa khẩu, chỉ một số loại trái cây được thông qua, trong khi các loại quả khác có khả năng không được xuất khẩu Do đó, nguy cơ cao là những loại trái cây này sẽ bị bỏ đi.
Thương lái đang phải đối mặt với rủi ro khi thu mua trái cây với giá cao, nhưng do không thể xuất khẩu, họ buộc phải hạ giá thu mua xuống mức thấp nhất từ trước đến nay.
Giá xoài Cát hiện nay được thu mua ở mức 3.500-4.500 đồng/kg, trong khi xoài Cát Hòa Lộc chất lượng tốt có giá từ 15.000-20.000 đồng/kg Trước khi dịch bệnh xảy ra, giá của các loại xoài này dao động từ 50.000-60.000 đồng/kg.
+ Loại quả đặt biệt như thanh long ruột đỏ hái tại vườn mà giá giảm chỉ còn 6.000- 8.000 đồng/kg
+ Giá dưa hấu có thời điểm rẻ như cho chỉ từ 2.000-3.000 đồng/kg
+ Mít Thái chỉ còn 10.000-15.000 đồng/kg Thậm chí, giai đoạn đóng cửa khẩu biên giới giá loại trái cây này giảm chỉ còn 5.000-6.000 đồng/kg tại các nhà vườn
An Giang mà vẫn không có người mua.
+ Nhiều loại trái cây khác như ổi, chôm chôm, dưa hấu, cũng phải chịu chung số phận.
+ Nông dân, các chủ vựa trái cây trên cả nước hầu như đều điêu đứng với tình hình dịch, chỉ mong làm sao lỗ ít nhất có thể.
2.2.3.2 Những tấm lòng hảo tâm giúp đỡ cho trái cây tồn dộng
Thách thức ngành xuất- nhập khẩu trái cây vẫn phải tiếp tục đối mặt
2.4.1 Dịch bệnh vẫn tiếp tục diễn biến khó lường
Từ đầu năm 2021, dịch bệnh COVID-19 có dấu hiệu được kiểm soát, nhưng vào đầu tháng 5, Bắc Ninh lại ghi nhận ca nhiễm mới, sau đó lan rộng ra các tỉnh lân cận Đến ngày 5/6/2021, Bắc Giang và Bắc Ninh trở thành ổ dịch lớn nhất cả nước với 4.000 ca nhiễm, trong khi Hồ Chí Minh đứng thứ hai với số ca tăng gần 100 ca mỗi ngày tính đến 25/6/2021.
Sau ba đợt dịch, các tỉnh thành bình yên như Phú Yên và Khánh Hòa đã bắt đầu ghi nhận ca nhiễm Covid-19 đầu tiên, với 58 ca mắc được phát hiện chỉ sau ba ngày Tình hình trở nên đáng lo ngại khi số ca nhiễm tiếp tục tăng nhanh theo từng giờ.
Chương trình tiêm Vacxin ngừa Covid-
Việc triển khai tiêm vaccine COVID-19 là tín hiệu tích cực cho người dân Việt Nam, tuy nhiên, quá trình tổ chức tiêm vẫn gặp nhiều khó khăn Đặc biệt, hiệu quả của vaccine đang bị hoài nghi khi 22 nhân viên y tế tại Bệnh viện Nhiệt đới Trung ương ở TP.HCM, mặc dù đã tiêm đủ 2 mũi vaccine, vẫn dương tính với COVID-19 Tính đến nay, Việt Nam ghi nhận 15.643 ca nhiễm bệnh, và số ca này vẫn tiếp tục tăng lên hàng ngày.
Hình 2.17: Tình hình dịch COVID-19 trên cả nước
2.4.2 Sản xuất, xuất khẩu vẫn trì trệ và gặp nhiều khó khăn
Vào tháng 5 và 6, ngành nông nghiệp miền Bắc và Nam Trung Bộ đang chuẩn bị cho mùa thu hoạch một số nông sản chính Tuy nhiên, diễn biến phức tạp của dịch Covid-19 vẫn ảnh hưởng đến hoạt động giao thương Để đối phó với tình hình này, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tổ chức "Hội nghị trực tuyến thúc đẩy tiêu thụ nông sản trong điều kiện dịch Covid-19" vào ngày 14-5.
Các khó khăn vẫn còn phải đối mặt sắp tới như là :
Các hộ nông dân đang đối mặt với nhiều khó khăn, bao gồm tình hình tài chính không ổn định, khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm, và sự khan hiếm nguồn nhân công cũng như nguyên liệu Những yếu tố này đã làm cho việc xoay vòng vốn của người trồng trọt trở nên khó khăn hơn.
Áp lực thuế và phí cùng với sự gián đoạn trong thương mại đã khiến nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong xuất khẩu, dẫn đến chi phí lưu kho, đặc biệt là kho lạnh, tăng cao và tạo ra gánh nặng tài chính.
Hình 2.18: Hội nghị trực tuyến thúc đẩy tiêu thụ nông sản trong điều kiện dịch
Covid-19, ngày 14-5 ( báo Nhân Dân).
- Hệ thống logictics và kho lạnh chưa đáp ứng đủ nhu cầu về khối lượng của các địa phương, đặc biệt là khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Tìm cách điều tiết, phân luồng nông sản ở các cửa khẩu, nhất là ở các tỉnh biên giới, đặc biệt là Quảng Ninh, Lạng Sơn, Lào Cai.
Thiếu hụt nguyên liệu đầu vào trong sản xuất đang trở thành một vấn đề nghiêm trọng Để giải quyết tình trạng này, cần thiết phải cải thiện cơ chế vận hành và tăng cường kết nối giữa sản xuất và tiêu thụ Việc này sẽ giúp tối ưu hóa quy trình và đảm bảo nguồn cung ổn định cho thị trường.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ đang gặp khó khăn trong việc kiểm soát hàng rào kỹ thuật và đáp ứng tiêu chuẩn thị trường, đặc biệt là tại Trung Quốc Họ cũng đối mặt với các hạn chế về kỹ thuật ngoại thương và đàm phán Do đó, cần có sự hỗ trợ từ các bộ ngành để giải quyết những vấn đề này.
Cách Khắc phục xuất- nhập khẩu trái cây trong giai đoạn khó khăn
2.5.1 Dựa trên điểm mạnh đẩy mạnh giúp Việt Nam vượt qua khoảng thời gian khó khăn
- Diện tích đất trồng rau quả
Trong những năm gần đây, diện tích trồng rau quả tại Việt Nam đã tăng trưởng ổn định với tỷ lệ bình quân 6% mỗi năm Đến năm 2018, tổng diện tích rau quả đạt khoảng 1,9 triệu ha, trong đó hơn 1 triệu ha được sử dụng để sản xuất 10 triệu tấn cây ăn quả.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, miền Nam có 14 loại cây ăn trái với diện tích lớn (trên 10.000 ha / loại)
Đồng bằng sông Cửu Long là vùng trồng cây ăn quả chủ yếu của miền Nam, chiếm khoảng 58% tổng diện tích cây ăn quả Các khu vực khác như Đông Nam Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên lần lượt chiếm 17%, 15% và 10% diện tích cây ăn quả.
- Các cơ sở sản xuất rau quả Việt Nam
Việt Nam hiện có khoảng 145 nhà máy chế biến rau quả lớn với tổng công suất dự kiến đạt 800.000 tấn mỗi năm, trong đó miền Nam có 71 nhà máy Bên cạnh đó, còn tồn tại hàng chục nghìn nhà máy chế biến quy mô nhỏ, đóng góp vào ngành chế biến thực phẩm của cả nước.
- Các cơ hội từ điều kiện tự nhiên của ngành rau quả Việt Nam hiện nay:
Việc thúc đẩy hình thành doanh nghiệp mới và khuyến khích doanh nhân trẻ thành lập doanh nghiệp, cùng với đổi mới ngành nông nghiệp, sẽ nâng cao giá trị gia tăng và thúc đẩy tăng trưởng dài hạn, từ đó gia tăng số lượng và quy mô hoạt động trong nền kinh tế.
Hình 2.19: Biểu đồ diện tích trồng các loại trái cây tiêu biểu ở miền Nam Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.
Xoài Chuối Thanh Long Sầu Riêng Cam
BưởiNhãnDứaChanh Chôm Chôm
(2) Do chuyển đổi cây công nghiệp lâu năm sang trồng rau và ăn quả, diện tích đất sản xuất rau, quả đã tăng lên.
Nhiều loại cây ăn quả quan trọng đã được phát triển thành vùng sản xuất chuyên canh hàng hóa Các công ty làm vườn chuyên nghiệp như Unifarm, Lavifoods, Vegetexco, và Vegetigi đang không ngừng nâng cao kỹ thuật canh tác và khả năng chăm sóc cây trồng để tăng cường hiệu quả sản xuất.
Số lượng cây ăn quả đóng vai trò quan trọng trong xuất khẩu và tiêu dùng nội địa, đặc biệt là các giống cây độc đáo Hiện tại, Việt Nam sở hữu 298 loại cây ăn quả, trong đó có 25 loại cây ăn quả sản xuất lớn và khoảng 134 loại cây ăn quả bản địa.
15 loại cây ăn quả ít phổ biến gồm 15 loại khác nhau
Dưới sự chỉ đạo và quan tâm của Đảng, Chính phủ cùng các bộ, ngành Trung ương và địa phương, đặc biệt là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN & PTNT) và Bộ Công Thương, ngành cây ăn quả đã có sự phát triển mạnh mẽ.
Cục Bảo vệ Thực vật thuộc Bộ Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn đang nỗ lực thực hiện vai trò tiên phong trong việc mở cửa thị trường cho ngành rau quả.
- Các cơ hội đến từ các thị trường rau quả trên thế giới:
Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) đã được ký kết trong những năm gần đây, tạo cơ hội gia tăng thị trường cho các nhà xuất khẩu rau quả Việt Nam Nhu cầu tiêu thụ trái cây nhập khẩu, bao gồm trái cây lạ và đặc sản, đang gia tăng, đặc biệt là các sản phẩm an toàn, hữu cơ và có giá trị dinh dưỡng cao Xuất khẩu trái cây của Việt Nam đã có sự tăng trưởng đáng kể trên một số thị trường trong thời gian qua.
Thị trường xuất khẩu dự kiến sẽ vẫn ổn định và tăng trong những năm tới.
Với các khu vực trọng điểm: Trung Quốc, Các quốc gia ASEAN, Hồng Kông và Đài Loan ,Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ và Canada
Ngoài ra, còn có các thị trường mới và đầy triển vọng như Ấn Độ, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, Úc và New Zealand.
(2) Ảnh hưởng của rau quả đối với sức khỏe con người ngày càng trở nên phổ biến và quan trọng.
Mức thu nhập của người dân đã tăng lên nhờ vào kỳ vọng tăng trưởng kinh tế toàn cầu đạt 3,2% mỗi năm từ 2011 đến 2020, điều này đã góp phần cải thiện đời sống kinh tế của người dân.
Theo FAO, rau và trái cây là nhóm thực phẩm tươi sống chiếm thị phần lớn nhất toàn cầu, với hơn 59% và có tốc độ tăng trưởng 2,88% mỗi năm.
2.5.2 Dựa trên những thách thức và khắc phục những vấn đề còn tồn động
Rau quả Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức, bao gồm cạnh tranh thương mại từ các nước sản xuất khác, trở ngại công nghệ từ các nước nhập khẩu, cùng với các quy định về kiểm dịch và an toàn thực phẩm Dịch bệnh kéo dài trên toàn cầu, đặc biệt là do COVID-19, đã khiến nhiều mặt hàng nông sản như thanh long, dưa hấu và sầu riêng gặp khó khăn trong tiêu thụ, ảnh hưởng nặng nề đến đời sống của nông dân Nhiều nông dân rơi vào cảnh khốn khó, với giá dưa hấu giảm mạnh đến mức họ phải vứt bỏ sản phẩm tại vườn do không thể bán được Tuy nhiên, sự vững tin của nhân dân vào Đảng Nhà Nước và sức mạnh toàn dân sẽ là yếu tố quan trọng giúp chúng ta vượt qua giai đoạn khó khăn này.
Chúng ta đã nhanh chóng thích nghi và điều chỉnh để vượt qua khó khăn trong xuất khẩu trái cây, một vấn đề đã tồn tại trước Covid nhưng trở nên cấp bách hơn Đảng Nhà Nước đã kịp thời hỗ trợ nông dân và doanh nghiệp xuất khẩu bằng nhiều giải pháp và chính sách hiệu quả Tinh thần đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau trong khó khăn đã thể hiện rõ nét, cho thấy sức mạnh và niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.
Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam kêu gọi các Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố và Công đoàn ngành Trung ương khuyến khích công nhân, viên chức, lao động ưu tiên sử dụng nông sản bị ảnh hưởng bởi COVID-19, như thanh long, dưa hấu và sầu riêng, nhằm hỗ trợ nông dân Tinh thần “thương người như thể thương thân” đã thúc đẩy sự chung tay của cộng đồng, mang lại nụ cười và niềm vui cho mọi người Bên cạnh đó, chính phủ cũng đã đưa ra một số biện pháp khắc phục cụ thể để hỗ trợ tình hình.
(1) Tổ chức các hình thức hợp tác xã trái cây với sự tập hợp của các nông dân sản xuất quy mô nhỏ lẻ (giống như cánh đồng lớn).
(2) Áp dụng các tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP vào kỹ thuật canh tác nhằm nâng cao hiệu quả và đảm bảo tính an toàn cho nông sản
(3)Tăng hiểu qua sản xuất, tiêu thụ và xuất khẩu sản phẩm bằng cách liên kết các vùng miền với nhau
Hợp tác với các nhà khoa học để thúc đẩy nghiên cứu và nhân giống cây ăn quả, từ đó phát triển những giống cây mới với mẫu mã, màu sắc và hương vị hấp dẫn hơn.
(5) Tăng tính cạnh tranh và sản lượng xuất khẩu với các nước trên thế giới thì việc nghiên cứu thị hiếu người tiêu dùng là cần thiết.
(6) Đầu tư, phát triển hệ thống logistic để đáp ứng nhu cầu cung ứng, vận chuyển chuỗi hàng hóa
(7) Kêu gọi các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh rau, quả, các chủ vựa, vườn tham gia vào Hiệp hội Rau quả Việt Nam;