1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Tài liệu Thiết Lập Hệ Thống Báo Cáo Tài Chính Áp Dụng Cho Đơn Vị Hành Chính Sự Nghiệp Ở Việt Nam

142 7 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Thiết Lập Hệ Thống Báo Cáo Tài Chính Áp Dụng Cho Đơn Vị Hành Chính Sự Nghiệp Ở Việt Nam
Tác giả Phan Thị Thúy Quỳnh
Người hướng dẫn PGS.TS Võ Văn Nhị
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế Tp.Hcm
Chuyên ngành Kế Toán
Thể loại luận văn thạc sĩ kinh tế
Năm xuất bản 2012
Thành phố Tp. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 142
Dung lượng 2,07 MB

Cấu trúc

  • BÌA

  • Lời cam đoan

  • Mục lục

  • Danh mục các chữ viết tắt

  • Danh mục các bảng biểu

  • Lời mở đầu

  • CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG TRONG KẾ TOÁN NHÀ NƯỚCVÀ BÁO CÁO TÀI CHÍNH CỦA ĐƠN VỊ NHÀ NƯỚC

    • 1.1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG TRONG KẾ TOÁN NHÀ NƯỚC

    • 1.2 BÁO CÁO TÀI CHÍNH CỦA ĐƠN VỊ NHÀ NƯỚC

  • CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH LẬP VÀ TRÌNH BÀY BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH SỰ NGHIỆP Ở VIỆT NAM

    • 2.1 QUY ĐỊNH LẬP VÀ TRÌNH BÀY BÁO CÁO TÀI CHÍNH CỦA ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH SỰ NGHIỆP

    • 2.2 THỰC TRẠNG LẬP VÀ TRÌNH BÀY BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI CÁC ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH SỰ NGHIỆP Ở VIỆT NAM

    • 2.3 NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ

  • CHƯƠNG 3: THIẾT LẬP HỆ THỐNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH CHO MỤC ĐÍCH CHUNG ÁP DỤNG CHO ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH SỰ NGHIỆP Ở VIỆT NAM

    • 3.1 QUAN ĐIỂM THIẾT LẬP

    • 3.2 CÁC GIẢI PHÁP CỤ THỂ

    • 3.3 CÁC GIẢI PHÁP CÓ LIÊN QUAN

    • 3.4 CÁC KIẾN NGHỊ

  • Kết luận

  • Tài liệu tham khảo

  • Phụ lục

  • Phụ lục số 1PHIẾU KHẢO SÁT

  • Phụ lục số 2DANH SÁCH CÁC ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH SỰ NGHIỆP ĐƢỢC KHẢO SÁT TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

  • Phụ lục số 3

  • Phụ lục số 4

  • Phụ lục số 5a

  • Phụ lục số 5b

  • Phụ lục số 6

Nội dung

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG TRONG KẾ TOÁN NHÀ NƯỚC

Đơn vị nhà nước

Đơn vị nhà nước là tổ chức do nhà nước thành lập để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ cụ thể, phản ánh bản chất và vai trò của nhà nước trong nền kinh tế - xã hội Các đơn vị này thường có sáu đặc điểm cơ bản, bao gồm tính pháp lý, tính công cộng, tính phục vụ, tính không vì lợi nhuận, tính độc lập và tính minh bạch.

1 Đơn vị nhà nước huy động các nguồn lực trực tiếp từ xã hội hoặc gián tiếp thông qua đơn vị nhà nước khác, từ đó tiến hành chi tiêu nhằm duy trì hoạt động của đơn vị và đáp ứng những nhu cầu cơ bản của xã hội

2 Ngoại trừ doanh nghiệp nhà nước, nhìn chung các đơn vị nhà nước không hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận

3 Các hoạt động thu, chi trong đơn vị nhà nước phải được thực hiện theo đúng chế độ, chính sách và quy định pháp lý đƣợc ban hành bởi các cơ quan có thẩm quyền Theo đó, hệ thống kế toán của đơn vị nhà nước phải được thiết lập để xác định và chứng minh cho sự tuân thủ vừa nêu

4 Thủ trưởng của đơn vị nhà nước là người đại diện tiếp nhận và sử dụng các nguồn lực tài chính do nhà nước ủy thác Vì vậy, họ phải có trách nhiệm giải trình về việc đã sử dụng các nguồn lực tuân thủ theo quy định trong quá trình điều hành hoạt động của đơn vị thông qua việc duy trì một hệ thống kế toán thích hợp cho mục đích giải trình

5 Các đơn vị nhà nước sử dụng dự toán như một công cụ kiểm soát quan trọng và đây cũng là cơ sở để so sánh số liệu hoạt động thực tế với số liệu dự toán

6 Hoạt động của một đơn vị nhà nước thường được chia tách thành nhiều nhóm hoạt động với mục đích khác nhau Theo đó, nguồn lực trong đơn vị cũng đƣợc tách riêng và hình thành nên các quỹ tương ứng với từng hoạt động Mỗi quỹ được xem nhƣ một đơn vị tài chính – kế toán độc lập với những cách thức quản lý và ghi nhận nguồn lực khác nhau dựa trên mục đích hoạt động của quỹ (theo Barton 2005; Baker, Lembke, King, Jeffrey, 2008; Rowan, Maurice 2010) Ở Việt Nam, đơn vị nhà nước được tổ chức thành các loại hình đơn vị khác nhau Trong đó, loại hình đơn vị chiếm số lƣợng nhiều nhất là đơn vị HCSN Những đơn vị này đƣợc thành lập nhằm thực hiện hai chức năng, nhiệm vụ chính của nhà nước là quản lý hành chính nhà nước và cung cấp dịch vụ công cho xã hội Theo đó, các đơn vị HCSN được chia thành hai khối chuyên môn hóa: khối hành chính bao gồm các cơ quan nhà nước đảm nhiệm chức năng quản lý hành chính và khối sự nghiệp bao gồm các đơn vị sự nghiệp thực hiện nhiệm vụ cung cấp dịch vụ công cho xã hội Những chức năng, nhiệm vụ mang tính chất và mục tiêu hoạt động khác nhau sẽ hình thành nên những đặc điểm tài chính khác nhau trong mỗi loại hình đơn vị

Hiện nay, mô hình tổ chức các cơ quan nhà nước tại Việt Nam dựa trên nguyên tắc “tam quyền phân lập” với ba nhánh chính: lập pháp, hành pháp và tư pháp Nhánh lập pháp bao gồm Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, trong khi nhánh hành pháp gồm Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp cùng các cơ quan chuyên môn như các bộ, cơ quan ngang bộ và các sở, phòng, ban ngành Cuối cùng, nhánh tư pháp được cấu thành từ tòa án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân các cấp.

Mỗi cơ quan nhà nước thực hiện một hoặc nhiều chức năng nhất định như quản lý hành chính, triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia, và đào tạo cán bộ Hoạt động quản lý hành chính là nhiệm vụ chính diễn ra thường xuyên, trong khi các hoạt động khác có thể phát sinh theo yêu cầu của nhà nước Nguồn tài chính cho các hoạt động này chủ yếu đến từ kinh phí được cấp.

NSNN cấp là nguồn tài chính chính cho các đơn vị, bên cạnh đó, các khoản thu phí, lệ phí và các nguồn thu hợp pháp khác như viện trợ, tài trợ, quà biếu tặng từ cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước cũng góp phần duy trì hoạt động, mặc dù không đáng kể Để xác định mức kinh phí NSNN cấp cho từng đơn vị, hàng năm, các đơn vị lập dự toán ngân sách dựa trên hướng dẫn của Bộ Tài chính và cơ quan quản lý cấp trên, kết hợp với kết quả thực hiện nhiệm vụ năm trước và dự kiến nhiệm vụ năm kế hoạch Dự toán này sẽ được gửi đến cơ quan chủ quản hoặc cơ quan tài chính cùng cấp để phê duyệt, và sau khi được phê duyệt, sẽ là căn cứ quan trọng cho KBNN trong việc cấp phát kinh phí quản lý hành chính cho các đơn vị.

Theo nghị định số 130/2005/NĐ-CP, các cơ quan nhà nước có chế độ tự chủ về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính, bao gồm ngân sách nhà nước cấp và các khoản thu hợp pháp khác Mức kinh phí ngân sách cấp được xác định dựa trên chỉ tiêu biên chế và định mức phân bổ dự toán, thường ổn định trong khoảng 3 năm Các đơn vị có quyền chủ động sử dụng kinh phí theo yêu cầu công việc, nhưng không được vượt quá các tiêu chuẩn hiện hành Nếu đến cuối năm, kinh phí tự chủ chưa sử dụng hết, đơn vị có thể giữ lại để sử dụng cho năm sau Ngoài ra, hàng năm, ngân sách nhà nước còn bố trí kinh phí cho các nhiệm vụ khác theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền, và việc quản lý các khoản kinh phí không tự chủ phải tuân thủ quy định của nhà nước Nếu không sử dụng hết kinh phí được giao, số dư thường phải hoàn trả về ngân sách nhà nước.

Nhà nước Việt Nam hiện đang áp dụng hai cơ chế quản lý tài chính song song: cơ chế tự chủ và không tự chủ, cho các hoạt động của cơ quan nhà nước Các đơn vị sự nghiệp công lập, được thành lập bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhằm cung cấp dịch vụ công cho xã hội, hoạt động trong nhiều lĩnh vực như giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao, khoa học và môi trường Những đơn vị này được coi là đơn vị dự toán độc lập, có con dấu và tài khoản riêng, đồng thời tổ chức bộ máy kế toán theo quy định của pháp luật.

Nguồn tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập bao gồm kinh phí từ ngân sách nhà nước, thu sự nghiệp, viện trợ, tài trợ và các nguồn khác Kinh phí ngân sách và thu sự nghiệp là hai nguồn chính để đáp ứng nhu cầu chi tiêu Kinh phí từ ngân sách có thể bao gồm hoạt động thường xuyên, nghiên cứu khoa học, đào tạo cán bộ, thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, đầu tư xây dựng cơ bản và sửa chữa lớn Các khoản thu sự nghiệp chủ yếu từ phí, lệ phí và dịch vụ phù hợp với chuyên môn của đơn vị, nhằm đáp ứng chi tiêu thường xuyên Mức thu này khác nhau giữa các đơn vị, phụ thuộc vào lĩnh vực, địa bàn và chính sách của nhà nước Nghị định số 43/2006/NĐ-CP quy định quyền tự chủ tài chính cho các đơn vị công lập, phân chia thành ba loại dựa trên mức tự đảm bảo chi phí hoạt động thường xuyên.

Đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm chi phí hoạt động là nhóm đơn vị có khả năng tự đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên với tỷ lệ từ 100% trở lên.

Đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động là những tổ chức có khả năng tự chi trả một phần chi phí thường xuyên, với mức tự đảm bảo từ trên 10% đến dưới 100% Phần chi phí còn lại sẽ được ngân sách nhà nước cấp bù, đảm bảo hoạt động hiệu quả của đơn vị.

Các đơn vị sự nghiệp có nguồn thu thấp hoặc không có nguồn thu, được NSNN đảm bảo toàn bộ kinh phí hoạt động, được gọi là đơn vị sự nghiệp do NSNN bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động Nhóm này có mức tự đảm bảo chi phí hoạt động thường xuyên thấp nhất, dưới 10%.

Đặc điểm kế toán trong đơn vị nhà nước

Trong các cơ quan nhà nước, nguồn lực đóng vai trò then chốt trong quản lý tài chính và kế toán.

Nguồn lực là yếu tố quyết định năng lực hoạt động của đơn vị kinh tế, thể hiện qua các dạng tài sản như tiền tệ và tài sản ngắn hạn Tổng nguồn lực kinh tế bao gồm tất cả tài sản ngắn hạn và dài hạn mà nhà nước nắm giữ Nguồn lực được huy động từ xã hội hoặc qua các đơn vị nhà nước khác, cũng như từ các khoản nợ vay Chúng được phân bổ và sử dụng theo mục đích của đơn vị nhà nước Sự tồn tại và vận động của nguồn lực được thể hiện qua tài sản, nợ phải trả, nguồn kinh phí, quỹ, thu nhập, chi phí, và các loại tài sản khác, đóng vai trò quan trọng trong kế toán nhà nước.

Tùy thuộc vào mục đích hoạt động của đơn vị nhà nước, các nguồn lực và cơ sở kế toán được lựa chọn sẽ khác nhau để đảm bảo hiệu quả ghi nhận các đối tượng kế toán.

1.1.2.2.1 Các loại cơ sở kế toán

Nguồn lực kinh tế và cơ sở dồn tích trong kế toán doanh nghiệp

Trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, mọi nguồn lực kinh tế đều được ghi nhận và đánh giá đầy đủ, vì mỗi nguồn lực có khả năng tạo ra dòng tiền trực tiếp hoặc gián tiếp phục vụ cho lợi nhuận Cơ sở kế toán dồn tích được áp dụng để ghi nhận doanh thu và chi phí trong kỳ một cách hợp lý, từ đó đánh giá lợi nhuận chính xác Phương trình kế toán phản ánh toàn bộ tài sản, nợ phải trả và vốn chủ sở hữu, trong khi sự thay đổi của lợi nhuận giữ lại trong vốn chủ sở hữu thể hiện khả năng bảo toàn vốn đầu tư của doanh nghiệp.

Trong các hoạt động phi lợi nhuận của đơn vị nhà nước, nhu cầu tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ là rất quan trọng, dẫn đến việc chú trọng đến các nguồn lực tài chính để đáp ứng chi tiêu hiện tại Vốn bằng tiền là nguồn lực chắc chắn nhất, cho phép chi tiêu mà không gặp rào cản chuyển đổi Bên cạnh đó, nguồn lực tài chính ngắn hạn, bao gồm các khoản phải thu và tài sản ngắn hạn, cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thanh toán nợ ngắn hạn và các khoản tiêu dùng trong năm Ngược lại, nguồn lực tài chính dài hạn thường không được chú trọng vì không phục vụ cho chi tiêu hiện hành.

Nguồn lực tiền và cơ sở tiền mặt trong kế toán nhà nước

Trong trường hợp đơn vị nhà nước chỉ chú trọng đến vốn bằng tiền, cơ sở kế toán sử dụng để ghi nhận thay đổi dòng tiền là cơ sở tiền mặt Theo đó, thu nhập được ghi nhận khi thực tế nhận tiền, và chi phí ghi nhận khi thực tế chi tiền, mà không xem xét mối liên hệ giữa chúng và kỳ kế toán Không có các khoản như nợ phải thu, hàng tồn kho, tài sản cố định hay nợ phải trả được ghi nhận Phương trình kế toán dựa trên cơ sở tiền mặt chỉ phản ánh tiền và số dư vốn bằng tiền, trong khi nguồn lực duy nhất được ghi nhận là vốn bằng tiền và dòng lưu chuyển nguồn lực chủ yếu là dòng tiền Tuy nhiên, việc chỉ dựa vào vốn bằng tiền để đánh giá khả năng chi tiêu hiện tại có thể dẫn đến sự thận trọng quá mức, vì nhu cầu chi tiêu sẽ phát sinh dần dần trong năm, và các khoản nợ thu hồi vào đầu năm sẽ góp phần đáp ứng nhu cầu này Do đó, việc xem vốn bằng tiền là nguồn lực tài chính duy nhất có thể dẫn đến đánh giá sai về khả năng chi tiêu thực sự của đơn vị nhà nước trong năm tài chính.

Nguồn lực tài chính ngắn hạn và cơ sở dồn tích có điều chỉnh trong kế toán nhà nước

Những nhận định trên đã tác động làm thay đổi quan điểm của nhà nước về nguồn lực

Doanh nghiệp ngày càng chú trọng đến các nguồn lực tài chính ngắn hạn ngoài vốn tiền mặt Họ áp dụng cơ sở kế toán dồn tích có điều chỉnh, kết hợp giữa cơ sở tiền mặt và dồn tích, cho phép ghi nhận thu nhập khi có thể đo lường và sẵn sàng chi tiêu trong kỳ hiện tại Chi phí được ghi nhận khi phát sinh nghĩa vụ pháp lý có thể đo lường và thanh toán bằng nguồn lực tài chính hiện hành Phương trình kế toán phản ánh tài sản ngắn hạn, nợ ngắn hạn và vốn lưu động, trong đó nguồn lực thuần được thể hiện qua vốn lưu động và dòng lưu chuyển nguồn lực thay thế cho dòng lưu chuyển tiền tệ đơn thuần.

Sự khác biệt trong quan điểm về nguồn lực giữa đơn vị nhà nước và doanh nghiệp thể hiện rõ nét Đơn vị nhà nước chỉ tập trung vào những nguồn lực phục vụ cho nhu cầu chi tiêu hiện tại, trong khi doanh nghiệp coi tất cả nguồn lực kinh tế là quan trọng và nỗ lực phân bổ chúng một cách hiệu quả nhất Điều này dẫn đến những tranh cãi về cách quản lý nguồn lực của nhà nước, đặc biệt là việc liệu việc bỏ qua các nguồn lực dài hạn có làm giảm hiệu quả sử dụng hay không Ngoài ra, câu hỏi đặt ra là liệu các đơn vị nhà nước có nên áp dụng phương pháp quản lý nguồn lực và lựa chọn kế toán dồn tích như doanh nghiệp để cải thiện hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn lực hay không.

Hiện nay, các đơn vị HCSN tại Việt Nam áp dụng hai loại cơ sở kế toán để ghi nhận và báo cáo các nghiệp vụ phát sinh Cụ thể, hoạt động nhà nước được ghi nhận theo cơ sở dồn tích có điều chỉnh, nhưng sẽ được điều chỉnh về cơ sở tiền mặt có điều chỉnh vào cuối kỳ Trong khi đó, hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD) được ghi nhận dựa trên cơ sở dồn tích đầy đủ.

Cơ sở kế toán trong hoạt động nhà nước chủ yếu dựa vào nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước (NSNN) để đáp ứng nhu cầu chi tiêu Mặc dù một số đơn vị hành chính sự nghiệp (HCSN) có khả năng tự đảm bảo chi tiêu thông qua nguồn thu sự nghiệp như học phí và viện phí, nhưng phần lớn các nguồn thu này vẫn chịu sự quản lý của ngân sách Do đó, sự phụ thuộc tài chính của các đơn vị HCSN vào NSNN là rất lớn Điều này đặt ra trách nhiệm cho các đơn vị trong việc giải trình với nhà nước về tình hình tiếp nhận và sử dụng nguồn lực tài chính từ ngân sách hoặc các khoản thu hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.

Hệ thống tài chính của Việt Nam hiện nay bao gồm tài chính quỹ NSNN, tài chính quỹ đặc thù và tài chính quỹ HCSN, trong đó tài chính NSNN giữ vai trò chủ đạo trong phân bổ nguồn lực tài chính Trước đây, thông tin tài chính chủ yếu dựa trên cơ sở tiền mặt theo quy định của Luật ngân sách, nhưng hiện tại, với xu hướng cải cách quản lý tài chính công toàn cầu, Bộ Tài chính đã triển khai Hệ thống thông tin quản lý ngân sách và kho bạc (TABMIS), từng bước chuyển đổi kế toán NSNN sang cơ sở kế toán tiền mặt có điều chỉnh và hướng tới áp dụng cơ sở dồn tích Chế độ kế toán HCSN, được ban hành cùng thời điểm với chế độ kế toán doanh nghiệp, đã kế thừa các nguyên tắc và phương pháp hạch toán mới dựa trên cơ sở dồn tích Tuy nhiên, để đảm bảo quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia, thông tin liên quan đến hoạt động nhà nước tại đơn vị HCSN phải được cung cấp dựa trên cơ sở kế toán tương tự như NSNN, dẫn đến quy định hạch toán phức tạp do sự đan xen giữa cơ sở tiền mặt và cơ sở dồn tích trong các nghiệp vụ phát sinh.

Hầu hết các khoản thu nhập từ hoạt động nhà nước như kinh phí ngân sách, thu phí, lệ phí và các khoản thu khác được ghi nhận dựa trên thực thu bằng tiền, tức là theo cơ sở tiền mặt Tuy nhiên, một số nguồn thu như phí, lệ phí hoặc viện trợ không hoàn lại, nếu chưa có kế hoạch sử dụng trong năm hiện tại và chưa được duyệt bởi cơ quan tài chính, sẽ không được hạch toán vào thu trong năm hiện hành mà phải chuyển sang năm sau Phương pháp hạch toán này không hoàn toàn dựa trên cơ sở tiền mặt mà có xu hướng nghiêng về kế toán dồn tích có điều chỉnh.

Các khoản chi phí liên quan đến hoạt động nhà nước, bao gồm tiền lương, phụ cấp, chi phí vật tư và dịch vụ mua ngoài, được ghi nhận ngay khi phát sinh dựa trên cơ sở dồn tích Tuy nhiên, vào cuối kỳ, các khoản chi phí chưa thanh toán sẽ được điều chỉnh theo cơ sở tiền mặt Điều này không tạo ra sự khác biệt giữa hai phương pháp ghi nhận chi phí Một số khoản như chi phí trả trước và trích lập quỹ vẫn giữ nguyên theo ghi nhận ban đầu Đối với chi phí mua sắm vật tư hoặc tài sản cố định chưa thanh toán, một bút toán điều chỉnh sẽ được thực hiện để chuyển khoản chi này vào chi hoạt động theo cơ sở tiền mặt, sử dụng các nhóm tài khoản đặc biệt trong kế toán nhà nước.

Kế toán đơn vị HCSN áp dụng nguyên tắc cơ sở dồn tích để ghi nhận các nghiệp vụ hoạt động nhà nước, nhưng thông tin cuối cùng vẫn được trình bày trên báo cáo tài chính (BCTC) theo cơ sở tiền mặt có điều chỉnh, tương tự như kế toán ngân sách nhà nước (NSNN).

Trong hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD), kế toán của đơn vị hành chính sự nghiệp (HCSN) áp dụng cơ sở dồn tích đầy đủ để ghi nhận và hạch toán các nghiệp vụ phát sinh liên quan đến hoạt động này.

BÁO CÁO TÀI CHÍNH CỦA ĐƠN VỊ NHÀ NƯỚC

Những vấn đề chung về báo cáo tài chính của đơn vị nhà nước

1.2.1.1 Khái niệm báo cáo tài chính

BCTC là thành phần quan trọng trong hệ thống báo cáo kế toán của các đơn vị nhà nước, được thiết lập để cung cấp thông tin kinh tế - tài chính hữu ích Thông tin này phục vụ cho các đối tượng có nhu cầu sử dụng, giúp họ đưa ra các quyết định kinh tế - tài chính phù hợp.

Một bộ BCTC có chất lƣợng phải thể hiện đƣợc các đặc điểm nhƣ có thể hiểu đƣợc, thích hợp, đáng tin cậy và có thể so sánh đƣợc

Để cung cấp thông tin hữu ích, Báo cáo tài chính (BCTC) cần được lập và trình bày một cách rõ ràng, giúp người đọc dễ dàng hiểu nội dung Người đọc được giả định có kiến thức cơ bản về kinh tế, tài chính và kế toán, cùng với sự thiện chí và nỗ lực trong việc tìm hiểu BCTC.

Thông tin trên báo cáo tài chính (BCTC) trở nên hữu ích khi phù hợp với nhu cầu ra quyết định của người đọc Thông tin được coi là thích hợp khi giúp đánh giá kết quả hoạt động trong quá khứ, xác nhận năng lực hoạt động hiện tại và dự báo diễn biến trong tương lai Tính thích hợp của thông tin phụ thuộc vào nội dung và mức độ trọng yếu Để thông tin đáng tin cậy, BCTC cần trình bày trung thực, với nội dung quan trọng hơn hình thức, không thiên lệch, thận trọng và đầy đủ, nhằm phản ánh chính xác thông tin kinh tế – tài chính.

Có thể so sánh được

BCTC chỉ có giá trị khi có thể so sánh với năm trước hoặc giữa các đơn vị khác Do đó, các nghiệp vụ và sự kiện tương tự cần được ghi nhận và trình bày nhất quán trong toàn đơn vị, qua các thời kỳ và giữa các đơn vị Việc thuyết minh thông tin là cần thiết để đảm bảo tính khả so sánh.

Việc áp dụng các đặc điểm chất lượng và chuẩn mực kế toán phù hợp là cần thiết để đảm bảo BCTC của đơn vị nhà nước được trình bày một cách trung thực và hợp lý Tuy nhiên, mức độ áp dụng các đặc điểm này phụ thuộc vào một số hạn chế, bao gồm sự kịp thời trong việc cung cấp thông tin, sự cân đối giữa lợi ích thu được từ thông tin và chi phí tạo ra chúng, cùng với việc cân nhắc giữa các đặc điểm chất lượng để đáp ứng các mục đích của BCTC (theo IFAC, 2007).

1.2.1.2 Mục đích của báo cáo tài chính

Báo cáo tài chính (BCTC) của đơn vị nhà nước được lập nhằm cung cấp thông tin kinh tế – tài chính hữu ích cho việc ra quyết định BCTC cần phản ánh tình hình tài chính, kết quả hoạt động và sự thay đổi dòng tiền của đơn vị Những thông tin này giúp người đọc đánh giá kết quả hoạt động trong quá khứ, xác nhận tình hình tài chính hiện tại và dự báo sự thay đổi dòng tiền trong tương lai.

Báo cáo tài chính (BCTC) phản ánh kết quả quản lý và trách nhiệm giải trình của nhà quản lý đối với các nguồn lực được nhà nước ủy thác, từ đó tạo cơ sở cho quyết định bổ nhiệm tiếp theo của cơ quan có thẩm quyền.

1.2.1.3 Đối tƣợng sử dụng báo cáo tài chính

Các đối tượng sử dụng thông tin trên Báo cáo tài chính (BCTC) của đơn vị nhà nước rất đa dạng và có thể chia thành ba nhóm chính: đối tượng nội bộ, cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các đối tượng khác Đối tượng nội bộ bao gồm nhà quản lý và nhân viên trong đơn vị, những người trực tiếp điều hành và tổ chức các hoạt động, đồng thời chịu trách nhiệm báo cáo với cơ quan nhà nước về tình hình và kết quả hoạt động của đơn vị.

Nhà quản lý có trách nhiệm điều hành các hoạt động trong đơn vị nhà nước theo chính sách và quy định pháp lý, đồng thời quản lý nguồn lực được nhà nước ủy thác theo dự toán đã được phê duyệt Họ sử dụng thông tin công bố trên BCTC như một công cụ để thực hiện trách nhiệm giải trình trước nhà nước và xã hội.

Nhà quản lý cần khai thác thông tin từ BCTC để thực hiện phân tích, đánh giá và dự báo, từ đó đưa ra quyết định quản lý hiệu quả Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh hệ thống kế toán quản trị tại các đơn vị công lập còn gặp nhiều hạn chế.

Người lao động trong đơn vị

Trong các doanh nghiệp tư nhân, nhu cầu sử dụng thông tin tài chính của người lao động thường thấp, nhưng ở các đơn vị nhà nước, vai trò của họ trong giám sát và kiểm tra hoạt động tài chính trở nên quan trọng hơn Các đơn vị công lập yêu cầu mọi kế hoạch và chủ trương sử dụng nguồn lực phải được xây dựng dựa trên sự đồng thuận của tập thể lao động Để thực hiện tốt vai trò này, người lao động cần được cung cấp thông tin qua các báo cáo tài chính (BCTC).

Cơ quan nhà nước có thẩm quyền là những tổ chức đại diện cho nhà nước, thực hiện chức năng quản lý ở nhiều cấp độ và lĩnh vực khác nhau Những cơ quan này có quyền kiểm soát và ảnh hưởng đến hoạt động của các đơn vị công lập, từ đó tạo ra nhu cầu sử dụng thông tin kinh tế – tài chính để phục vụ cho các quyết định quản lý Các cơ quan tiêu biểu bao gồm cơ quan quản lý cấp trên, cơ quan tài chính, Kho bạc Nhà nước, kiểm toán nhà nước và cơ quan thuế.

Cơ quan quản lý cấp trên

Trong quy trình ngân sách nhà nước (NSNN), cơ quan quản lý cấp trên giữ vai trò quan trọng trong việc tổ chức kế toán, kiểm tra và quyết toán NSNN với các đơn vị cấp dưới Cơ quan này tiếp nhận và phân bổ dự toán hàng năm cho các đơn vị trực thuộc, đồng thời có trách nhiệm kiểm tra và xét duyệt báo cáo tài chính (BCTC) của các đơn vị cấp dưới Dựa vào các báo cáo này, cơ quan cấp trên lập BCTC tổng hợp Do đó, BCTC của các đơn vị nhà nước phải được gửi đến cơ quan quản lý cấp trên để đảm bảo thực hiện đúng trách nhiệm theo quy định của nhà nước.

Cơ quan tài chính các cấp có trách nhiệm chỉ đạo công tác kế toán ngân sách, thẩm định báo cáo tài chính của các đơn vị nhà nước, lập quyết toán thu chi ngân sách và tổng hợp báo cáo quyết toán trên địa bàn Báo cáo tài chính của các đơn vị nhà nước không chỉ là đối tượng kiểm tra mà còn là nguồn dữ liệu quan trọng để cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tài chính và ngân sách.

KBNN các cấp có trách nhiệm tổ chức kế toán thu, chi ngân sách nhà nước, báo cáo định kỳ tình hình thực hiện ngân sách theo dự toán được giao Đồng thời, cần đối chiếu và xác nhận số liệu trên báo cáo tài chính của đơn vị liên quan đến ngân sách nhà nước theo quy định của chế độ kế toán nhà nước.

TÌNH HÌNH LẬP, TRÌNH BÀY BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH SỰ NGHIỆP Ở VIỆT NAM

THIẾT LẬP HỆ THỐNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH CHO MỤC ĐÍCH

Ngày đăng: 21/08/2021, 10:08

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Bộ Tài chính (2007), Hệ thống chuẩn mực kế toán công quốc tế, Lưu hành nội bộ, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hệ thống chuẩn mực kế toán công quốc tế
Tác giả: Bộ Tài chính
Năm: 2007
2. Bộ Tài chính (2008), Nội dung và hướng dẫn 26 chuẩn mực kế toán Việt nam, NXB Thống Kê, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nội dung và hướng dẫn 26 chuẩn mực kế toán Việt nam
Tác giả: Bộ Tài chính
Nhà XB: NXB Thống Kê
Năm: 2008
3. Bùi Văn Mai (2007), “Báo cáo định hướng, giải pháp và lộ trình ban hành chuẩn mực kế toán công Việt Nam phù hợp với chuẩn mực kế toán công quốc tế”, Hội thảo định hướng và lộ trình áp dụng chuẩn mực kế toán công quốc tế vào Việt Nam, trang 9 – 21 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo định hướng, giải pháp và lộ trình ban hành chuẩn mực kế toán công Việt Nam phù hợp với chuẩn mực kế toán công quốc tế”, "Hội thảo định hướng và lộ trình áp dụng chuẩn mực kế toán công quốc tế vào Việt Nam
Tác giả: Bùi Văn Mai
Năm: 2007
4. Đoàn Xuân Tiên, Quách Thị Hồng Liên (2007), “Một số ý kiến góp phần xây dựng hệ thống chuẩn mực kế toán công Việt Nam”, Hội thảo định hướng và lộ trình áp dụng chuẩn mực kế toán công quốc tế vào Việt Nam, trang 62 – 68 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số ý kiến góp phần xây dựng hệ thống chuẩn mực kế toán công Việt Nam”, "Hội thảo định hướng và lộ trình áp dụng chuẩn mực kế toán công quốc tế vào Việt Nam
Tác giả: Đoàn Xuân Tiên, Quách Thị Hồng Liên
Năm: 2007
5. Đào Thị Bích Hạnh (2007), “Xây dựng hệ thống chuẩn mực kế toán nhà nước tại Pháp và những kinh nghiệm áp dụng đối với Việt Nam”, Hội thảo định hướng và lộ trình áp dụng chuẩn mực kế toán công quốc tế vào Việt Nam, trang 74 – 82 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Xây dựng hệ thống chuẩn mực kế toán nhà nước tại Pháp và những kinh nghiệm áp dụng đối với Việt Nam”," Hội thảo định hướng và lộ trình áp dụng chuẩn mực kế toán công quốc tế vào Việt Nam
Tác giả: Đào Thị Bích Hạnh
Năm: 2007
6. Vũ Hữu Đức (2010), Những vấn đề cơ bản của lý thuyết kế toán, NXB Lao động, Hà Nội.7. Văn bản pháp luật Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những vấn đề cơ bản của lý thuyết kế toán
Tác giả: Vũ Hữu Đức
Nhà XB: NXB Lao động
Năm: 2010

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN