Khách quốc tế đến Việt Nam và Quảng Bình (1995 – 2009)
Khách quốc tế đến Việt Nam và Quảng Bình
KQT đến Việt Nam KQT đến Quảng Binh
Biểu 3.3: Số lượng khách quốc tế đến Quảng Bình (1995-2009)
Khách quốc tế đến Quảng Bình
Theo thống kê từ Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Quảng Bình, khách quốc tế đến Quảng Bình chủ yếu đến từ Châu Âu, chiếm 35%, trong đó Pháp chiếm 19%, tiếp theo là Hà Lan, Đức và Anh Khách từ Châu Mỹ chiếm 13,2%, chủ yếu là từ Mỹ (11,2%) và Canada Khách từ Châu Đại Dương, bao gồm Úc và New Zealand, chiếm 6% Cuối cùng, thị phần khách từ Châu Á gần Việt Nam như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc và Lào, trong đó Thái Lan chiếm 21,6%.
Biểu đồ 3.4: Lý do khách quốc tế đến Quảng Bình
Lý do khách quốc tế đến Quảng Bình
Th ă m độ ng Phong Nha; 57,20%
Do ti ệ n đườ ng đế n đ i ể m du l ị ch khác;
Do Qu ả ng B×nh đẹ p;
(Nguồn: khảo sát khách du lịch quốc tế của tác giả) khoa luan, tieu luan39 of 102.
Khách quốc tế đến Quảng Bình chủ yếu để khám phá Động Phong Nha Trong hành trình du lịch từ Hà Nội đến Huế hoặc ngược lại từ Đà Nẵng, nhiều du khách thường ghé thăm Quảng Bình để tận hưởng vẻ đẹp của động này.
Bảng 3.4: Lượng khách nội địa đến Quảng Bình
(Nguồn: Sở văn hóa thể thao du lịch Quảng Bình và tính toán của tác gỉa)
Biểu 3.5 Lượng khách nội địa đến Quảng Bình
L−ợng khách nội địa đến Quảng Bình
Từ năm 1995 đến 2004, lượng khách nội địa đến Quảng Bình đã tăng trưởng ổn định, với một sự bùng nổ đáng kể vào năm 2004, đạt mức tăng 54,22% so với năm trước.
2004 sau khi Phong Nha Kẻ Bàng được công nhận là Di Sản Thiên Nhiên của Thế Giới năm 2003
Trong giai đoạn tăng trưởng, Quảng Bình đã trải qua hai năm giảm lượng khách nội địa, cụ thể là năm 2005 và 2008 Sự giảm sút vào năm 2005 được coi là một sự điều chỉnh hợp lý sau năm 2004 có mức tăng đột biến, trong khi năm 2008 chứng kiến sự sụt giảm theo xu hướng chung của thị trường du lịch trong nước và quốc tế do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế.
Sự phục hồi mạnh mẽ vào năm 2009 với tỷ lệ tăng trưởng 25,06% đã mở ra một giai đoạn phát triển mới, mang lại hy vọng cho tốc độ tăng trưởng khả quan trong những năm tiếp theo.
Biểu 3.6 Lý do khách nội địa đến Quảng Bình
Lý do khách nội địa đến Quảng Bình
Thăm quan động Phong Nha, 60.20%
Do Quảng B×nh đẹp, 13.10% Đi thăm người th©n, bạn bè, 4.70%
Tiện đường du lịch những nơi khác, 5.80%
Do đi công tác, hội họp, 13.60%
(Nguồn: khảo sát khách du lịch nội địa của tác giả)
Khách du lịch nội địa đến Quảng Bình chủ yếu do sự tò mò về Động Phong Nha và Phong Nha Kẻ Bàng, hai điểm đến nổi bật của du lịch Quảng Bình Đây không chỉ là trung tâm du lịch mà còn là nền tảng quan trọng để phát triển và thu hút du khách đến với vùng đất này.
Khách nội địa đến Quảng Bình để công tác và hội họp chiếm tỷ lệ 13.6%, vượt xa khách quốc tế chỉ đạt 3.3% Điều này cho thấy rằng lượng khách quốc tế đến Quảng Bình để hội họp, kinh doanh và tìm hiểu cơ hội đầu tư thấp hơn so với khách nội địa.
3.1.2.2 Thời gian lưu trú, công suất sử dụng phòng
Bảng 3.5 Thời gian lưu trú và công suất sử dụng phòng
Thời gian khách lưu trú
Công suất sử dụng phòng nghỉ (%) 41,9 54,2 52,6 49,4 49.75 56.2
(Nguồn: Niên giám thống kê 2009, Cục thống kê tỉnh Quảng Bình)
Theo thống kê, thời gian lưu trú trung bình của khách du lịch tại Quảng Bình khoảng 1,2 ngày Tuy nhiên, khảo sát thực tế cho thấy khách nội địa lưu trú trung bình 1,93 ngày, trong khi khách quốc tế lưu trú trung bình 1,53 ngày.
Thời gian lưu trú của khách còn thấp vì 2 nguyên nhân sau:
Phần lớn du khách qua tỉnh chỉ xem đây là điểm dừng chân, chủ yếu để tham quan Động Phong Nha trước khi tiếp tục hành trình đến các địa điểm khác Luồng khách này chủ yếu di chuyển theo tuyến Hà Nội – Huế, Đà Nẵng và ngược lại.
Quảng Bình là điểm đến hấp dẫn, nhưng nhiều du khách sau khi tham quan Phong Nha và tắm biển ở Đồng Hới thường cảm thấy thiếu hoạt động giải trí, dẫn đến cảm giác buồn chán Điều này khiến họ thường kết thúc chuyến đi sớm, chỉ sau một hoặc hai ngày, mặc dù ban đầu dự định ở lại lâu hơn.
Theo thống kê gần đây, công suất sử dụng phòng khách sạn dao động từ 50% đến 55% Tuy nhiên, qua khảo sát và trao đổi trực tiếp với một số khách sạn lớn và nhỏ, tác giả nhận thấy rằng công suất thực tế thường thấp hơn Cụ thể, các khách sạn có tiêu chuẩn xếp hạng đạt mức sử dụng từ 40% đến 55%, trong khi các khách sạn nhỏ và nhà nghỉ tư nhân chỉ đạt công suất từ 30% đến 50%.
Công suất sử dụng phòng tại Quảng Bình thấp chủ yếu do tính thời vụ cao của du lịch, với chỉ 3 tháng cao điểm từ tháng 6 đến tháng 8 Trong khi đó, từ tháng 9 đến tháng 2 là mùa đông và mưa bão, dẫn đến lượng khách du lịch giảm mạnh Từ tháng 3 đến tháng 5, lượng khách phục hồi nhờ các ngày lễ quốc gia Đặc biệt, khách quốc tế lại có xu hướng du lịch Quảng Bình từ tháng 10 đến tháng 4, phù hợp với mùa cao điểm của thị trường Tây Âu Mặc dù lượng khách quốc tế hiện tại còn thấp, nhưng ổn định quanh năm, việc thu hút thêm khách quốc tế sẽ giúp giảm thiểu tính thời vụ trong du lịch tại Quảng Bình.
3.1.2.3 Doanh thu ngành du lịch
Doanh thu là chỉ số quan trọng thể hiện hiệu quả kinh doanh của ngành du lịch tỉnh Quảng Bình Các công ty trong ngành không chỉ cung cấp dịch vụ du lịch mà còn tham gia vào nhiều lĩnh vực khác Khách du lịch không chỉ chi tiêu cho dịch vụ mà còn mua sắm và tham gia vào các hoạt động khác, góp phần tăng trưởng doanh thu toàn ngành.
Doanh thu ngành du lịch được xác định là tổng hợp doanh thu từ các dịch vụ du lịch và thương mại Các nguồn doanh thu dịch vụ du lịch bao gồm: doanh thu từ lưu trú, ăn uống, vận chuyển và bán vé tham quan.
Bảng 3.6 Doanh thu du lịch
Tổng doanh thu du lịch (tỷ) 28.5 34 60.1 73.9 89.5 119.9
Doanh thu thương mại (tỷ) 14.2 18 41.6 51.8 63 84.6
Tốc độ tăng doanh thu du lịch (%) 28.96 19.30 76.76 22.96 21.11 33.97
Tốc độ tăng doanh thu DVDL (%)
DVDL/tổng doanh thu du lịch (%)
Doanh thu từ mỗi khách du lịch đến
Tổng doanh thu du lịch (tỷ) 196.9 163.3 213.37 283.43 286.98 363.67
Tốc độ tăng trưởng doanh thu du lịch
Tốc độ tăng trưởng doanh thu DVDL
DVDL/tổng doanh thu du lịch (%)
Doanh thu từ mỗi khách du lịch đến
(Nguồn: Sở văn hóa thể thao du lịch và tính toán của tác giả)
Doanh thu dịch vụ du lịch tại Việt Nam đã tăng trưởng mạnh mẽ từ 14,3 tỷ đồng năm 1998 lên 151,86 tỷ đồng vào năm 2009, với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 24% trong giai đoạn 1998-2009 Đặc biệt, từ năm 2003 đến 2009, tốc độ tăng trưởng bình quân còn cao hơn, đạt 27,5%.