1. Trang chủ
  2. » Giáo án - Bài giảng

Tieu luan luat canh tranh

31 41 1

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Tiểu Luận Luật Cạnh Tranh
Người hướng dẫn TS. Dương Kim Thế Nguyên
Trường học Trường Đại Học Mở Thành Phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Kinh Tế
Thể loại tiểu luận
Năm xuất bản 2019
Thành phố Thành Phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 31
Dung lượng 337,5 KB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ GÂY HẠN CHẾ CẠNH TRANH.

    • 1. Khái niệm tập trung kinh tế

    • 2. Đặc điểm của tập trung kinh tế

    • 4. Ảnh hưởng của việc tập trung kinh tế đến môi trường cạnh tranh

  • CHƯƠNG II: NỘI DUNG CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY VỀ KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ

    • 1. Nội dung pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế

    • 2. Quy định về thông báo tập trung kinh tế

    • 3. Thủ tục thông báo tập trung kinh tế

    • 4. Các trường hợp trong tập trung kinh tế

    • 5. Vi phạm pháp luật tập trung kinh tế

    • 6. Chế tài

    • 7. Xử lý vi phạm và cơ quan quản lý tập trung kinh tế.

  • CHƯƠNG III: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT KIỂM SOÁT CẠNH TRANH.

    • 1. Cơ quan quản lý cạnh tranh

    • 2. Thực tiễn áp dụng

    • 1. Nhận xét

Nội dung

Khái niệm tập trung kinh tế

Khái niệm tập trung kinh tế được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau trong khoa học kinh tế và khoa học pháp lí.

Tập trung kinh tế trong khoa học kinh tế được coi là chiến lược tích tụ vốn và sản xuất quy mô lớn để khai thác lợi thế từ quy mô Các doanh nghiệp lớn không ngừng gia tăng áp lực cạnh tranh, khiến các doanh nghiệp nhỏ buộc phải phụ thuộc vào họ hoặc sáp nhập để tồn tại Quá trình này gắn liền với sự thay đổi cấu trúc thị trường, dẫn đến sự giảm số lượng doanh nghiệp độc lập thông qua sáp nhập hoặc tăng trưởng nội sinh Tập trung kinh tế vì vậy được xem là kết quả của quá trình tích tụ tư bản.

Dưới góc độ pháp luật, nhiều quốc gia xác định các dấu hiệu và hình thức của tập trung kinh tế mà không cung cấp định nghĩa rõ ràng về khái niệm này Tương tự, pháp luật cạnh tranh Việt Nam cũng không đưa ra một khái niệm tổng quát cho hành vi tập trung kinh tế, mà chỉ liệt kê các hình thức cụ thể Căn cứ vào Khoản 1 Điều 29 Luật Cạnh tranh 2018, các quy định về tập trung kinh tế được quy định một cách cụ thể hơn.

Tập trung kinh tế là hành vi của doanh nghiệp, bao gồm sáp nhập, hợp nhất, mua lại, liên doanh và các hành vi khác theo quy định của pháp luật.

Khoản 2 Điều 29, đưa ra định nghĩa cho từng hành vi như sau:

Sáp nhập doanh nghiệp là quá trình trong đó một hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển giao toàn bộ tài sản, quyền lợi, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp cho một doanh nghiệp khác, dẫn đến việc chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập.

Hợp nhất doanh nghiệp là quá trình trong đó hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển giao toàn bộ tài sản, quyền lợi, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để tạo ra một doanh nghiệp mới, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các doanh nghiệp đã được hợp nhất.

Mua lại doanh nghiệp là quá trình mà một công ty tiến hành mua toàn bộ hoặc một phần tài sản của một doanh nghiệp khác, nhằm mục đích kiểm soát và chi phối hoạt động của doanh nghiệp bị mua lại hoặc một lĩnh vực cụ thể trong ngành nghề của họ.

Liên doanh giữa các doanh nghiệp là sự hợp tác giữa hai hoặc nhiều công ty, trong đó họ cùng nhau đóng góp tài sản, quyền lợi, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp để thành lập một doanh nghiệp mới.

Đặc điểm của tập trung kinh tế

Theo quy định của luật cạnh tranh Việt Nam, tập trung kinh tế có một số đặc điểm pháp lí cơ bản sau:

Thứ nhất, chủ thể của tập trung kinh tế là các doanh nghiệp họat động trên thị trường

Các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế có thể là những doanh nghiệp cùng hoặc không cùng hoạt động trên thị trường liên quan, điều này giúp phân biệt giữa hành vi tập trung kinh tế và đầu tư của các cá nhân không phải doanh nghiệp Các cá nhân có thể góp vốn vào nhiều doanh nghiệp và trở thành đồng chủ sở hữu mà không thuộc khái niệm tập trung kinh tế Tập trung kinh tế là hành vi của các chủ thể hoạt động kinh doanh trên thị trường, theo quy định của Luật Cạnh tranh năm 2004, doanh nghiệp bao gồm mọi thành phần kinh tế và hộ kinh doanh cá thể Qua đó, có thể thấy rằng, chủ thể của hành vi sáp nhập và hợp nhất chỉ có thể là các doanh nghiệp.

Theo Luật Doanh nghiệp năm 2014, có bốn loại hình công ty chính bao gồm: công ty cổ phần, công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Các quy định cụ thể về từng loại hình này được nêu tại Điều 47, Điều 110 và Điều 172 của luật.

– Công ty Nhà nước theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước năm 2003 (Điều 73 Luật Doanh nghiệp Nhà nước năm 2003);

– Các hợp tác xã theo Luật Hợp tác xã năm 2012.

Không phải tất cả các loại doanh nghiệp đều đủ điều kiện tham gia vào các hành vi tập trung kinh tế, và mỗi hình thức tập trung kinh tế sẽ có những giới hạn cụ thể về chủ thể tham gia.

Hành vi sáp nhập, hợp nhất, mua lại hoặc liên doanh chỉ diễn ra khi có sự tham gia của nhiều doanh nghiệp đang hoạt động trên thị trường Điều này cho thấy rằng các hoạt động tập trung kinh tế không phải là hành động đơn phương của một doanh nghiệp Do đó, việc đầu tư vốn để thành lập các công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ một doanh nghiệp sẽ tạo ra nhóm kinh doanh, nhưng không được coi là hiện tượng tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh.

Tập trung kinh tế diễn ra qua các hình thức như sáp nhập, hợp nhất, mua lại và liên doanh giữa các doanh nghiệp.

Các hiện tượng tập trung kinh tế yêu cầu sự hiện diện của nhiều doanh nghiệp khác nhau trên thị trường, liên kết khả năng kinh doanh thông qua việc tích tụ các nguồn lực như vốn, lao động, kỹ thuật và quản lý Các doanh nghiệp có thể hình thành khối thống nhất bằng cách sáp nhập, hợp nhất hoặc phối hợp theo mô hình tập đoàn Điều này giúp phân biệt tập trung kinh tế với tích tụ tư bản, mà trong đó tích tụ tư bản là quá trình tăng thêm vốn dựa vào giá trị thặng dư và tái đầu tư lợi nhuận để nâng cao năng lực kinh doanh Một doanh nghiệp có thể tích tụ tư bản để đạt được vị trí đáng kể trên thị trường, nhưng quá trình này thường đòi hỏi thời gian dài.

Hậu quả của việc tập trung kinh tế là sự hình thành các tập đoàn kinh tế, dẫn đến sự thay đổi trong cấu trúc thị trường và ảnh hưởng đến mối tương quan cạnh tranh trong thị trường.

Các hình thức sáp nhập và hợp nhất sẽ làm giảm số lượng doanh nghiệp hoạt động trên thị trường, tập trung năng lực vào một doanh nghiệp duy nhất Việc mua lại hoặc liên doanh tạo ra các liên kết giữa các doanh nghiệp độc lập, hình thành các nhóm kinh doanh theo kiểu tập đoàn Dù là tích tụ hay liên kết năng lực, sự tập trung kinh tế sẽ thay đổi tương quan cạnh tranh trên thị trường, khi xuất hiện doanh nghiệp có tiềm lực lớn hơn mà không cần tích tụ tư bản Do đó, vị trí của các doanh nghiệp còn lại trong cạnh tranh sẽ bị giảm sút trước doanh nghiệp hình thành từ quá trình này.

Theo các quy định của pháp luật cạnh tranh nhà nước, việc kiểm soát các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế sẽ được thực hiện dựa trên những tiêu chí nhất định.

Tập trung kinh tế dẫn đến sự hình thành các tập đoàn lớn và có thể hạn chế cạnh tranh, vì vậy các quốc gia cần kiểm soát hoạt động này Tuy nhiên, việc kiểm soát chỉ áp dụng khi các doanh nghiệp đạt ngưỡng quy định của pháp luật cạnh tranh Nếu chưa đạt ngưỡng này, các doanh nghiệp có quyền tự do thực hiện các hình thức tập trung kinh tế theo quy định của pháp luật doanh nghiệp và các văn bản liên quan.

3 Phân loại tập trung kinh tế

Tập trung kinh tế theo chiều ngang là quá trình sáp nhập, hợp nhất, mua lại hoặc liên doanh giữa các doanh nghiệp hoạt động ở cùng một cấp độ trong chuỗi sản xuất hoặc trên cùng một thị trường Hình thức này thường dẫn đến việc giảm số lượng đối thủ cạnh tranh độc lập, từ đó có thể gia tăng các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, hạn chế cạnh tranh trên thị trường.

Tập trung kinh tế theo chiều dọc là quá trình sáp nhập, hợp nhất, mua lại và liên doanh giữa các doanh nghiệp ở các cấp độ khác nhau trong chuỗi sản xuất, thường diễn ra giữa người mua và người bán Mục tiêu của hình thức này là chi phối các giao dịch và thực hiện các chiến lược thị trường, bao gồm việc đảm bảo nguồn cung ứng, tiêu thụ hàng hóa và ngăn chặn sự mở rộng của đối thủ cạnh tranh.

Ví dụ: Một vụ sáp nhập giữa công ty may và công ty phân phối bán buôn, bán lẻ hàng may mặc.

Tập trung kinh tế dạng hỗn hợp là quá trình sáp nhập, hợp nhất hoặc mua lại các doanh nghiệp không sản xuất sản phẩm cạnh tranh, nghĩa là chúng không phải là đối thủ của nhau và không có mối quan hệ mua bán trực tiếp.

Ảnh hưởng của việc tập trung kinh tế đến môi trường cạnh tranh

Tác động rõ rệt nhất của việc tập trung kinh tế là sự gia tăng sức mạnh thị trường của doanh nghiệp, dẫn đến những ảnh hưởng tiêu cực đến cạnh tranh.

Tập trung kinh tế có thể làm thay đổi cấu trúc thị trường cạnh tranh, dẫn đến sự xuất hiện của độc quyền nhóm và hình thành các doanh nghiệp có quyền lực thị trường.

Hậu quả là các doanh nghiệp có cơ hội tăng giá bán hoặc giảm giá mua hàng hóa, dịch vụ, tạo ra rào cản gia nhập và mở rộng thị trường, đồng thời hạn chế nghiên cứu.

Tập trung kinh tế dẫn đến việc loại bỏ áp lực cạnh tranh giữa các bên tham gia, đồng thời làm giảm số lượng đối thủ cạnh tranh trên thị trường.

Tập trung kinh tế làm thay đổi cấu trúc và tương quan trên thị trường, dẫn đến sự xuất hiện của các doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh mạnh mẽ hơn Điều này tiềm ẩn nguy cơ đe dọa sự tồn tại của các doanh nghiệp cạnh tranh khác Khi số lượng doanh nghiệp đối thủ giảm, mức độ "hoàn hảo" của cạnh tranh cũng suy giảm.

Tập trung kinh tế theo chiều ngang giúp doanh nghiệp loại bỏ cạnh tranh trực tiếp giữa các công ty trước đó, đồng thời tập trung sức mạnh thị trường vào một doanh nghiệp duy nhất Tuy nhiên, điều này có thể dẫn đến những hành vi hạn chế cạnh tranh, gây hại cho lợi ích của người tiêu dùng.

Tập trung kinh tế giúp hình thành các doanh nghiệp quy mô lớn với tiềm lực tài chính mạnh mẽ, đặc biệt khi các doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia vào quá trình này.

+ Tập trung kinh tế giúp các nhà đầu tư mở rộng thị trường, giảm chi phí đầu tư, chí phí sản xuất;

Tập trung kinh tế tạo điều kiện cho các doanh nghiệp lớn đầu tư vào công nghệ và đổi mới sáng tạo, từ đó thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật Những doanh nghiệp này có tiềm lực tài chính mạnh mẽ, điều mà các doanh nghiệp nhỏ thường không thể đạt được.

Hoạt động tập trung kinh tế là quá trình tích tụ sức mạnh thị trường nhằm tạo ra các chủ thể kinh tế có hiệu quả cao hơn Tuy nhiên, khi sức mạnh thị trường đạt đến một mức độ nhất định, nó có thể gây ra tác động hạn chế cạnh tranh, dẫn đến việc hình thành các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh hoặc thoả thuận hạn chế cạnh tranh Do đó, pháp luật cạnh tranh đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế, nhằm ngăn chặn các tác động tiêu cực và bảo vệ môi trường cạnh tranh.

5 Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế

Pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế là hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước nhằm xem xét, đánh giá và theo dõi để phát hiện và ngăn ngừa sai phạm trong quá trình thực hiện tập trung kinh tế Các đặc điểm của pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế bao gồm việc đảm bảo tính minh bạch, công bằng và hiệu quả trong quản lý các hoạt động kinh tế tập trung.

Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế là một lĩnh vực pháp luật công, thể hiện quyền lực nhà nước qua việc cho phép, điều tra và xử phạt các hành vi tập trung kinh tế bị cấm Nó bao gồm cả luật nội dung, quy định các hành vi cấm và hậu quả của chúng, lẫn luật tố tụng, quy định về cơ quan và thủ tục liên quan đến cạnh tranh Ngoài ra, pháp luật này còn gắn liền với chính sách cạnh tranh và định hướng phát triển trong từng ngành kinh tế cụ thể Để thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ, Nhà nước sẽ kiểm soát chặt chẽ khả năng hình thành quyền lực thị trường nhằm tăng cường cạnh tranh trong các lĩnh vực kinh tế.

Trong quan hệ pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế, cơ quan nhà nước quản lý hoạt động cạnh tranh đóng vai trò chủ thể kiểm soát, trong khi các nhà đầu tư trong và ngoài nước (doanh nghiệp) tham gia hoạt động tập trung kinh tế phải đáp ứng đầy đủ điều kiện năng lực theo quy định Những quan hệ này mang tính chất công quyền, liên quan đến chức năng quản lý và điều tiết nền kinh tế của Nhà nước, đồng thời ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp, bao gồm nhân sự, thương hiệu, tài sản hữu hình và vô hình, vị thế trên thị trường, quyền sở hữu trí tuệ, mạng lưới kinh doanh, hệ thống khách hàng, kinh nghiệm thương trường và các vấn đề khác liên quan.

Thứ ba , Hệ thống các quy định pháp luật này vừa có tính chất “tiền kiểm”

Trong quản lý giao dịch tập trung kinh tế, quy trình "tiền kiểm" đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn tác động tiêu cực đến cạnh tranh Bằng cách đánh giá tác động của các hành vi trong tương lai, cơ quan chức năng có thể áp dụng các điều kiện nhằm khắc phục những ảnh hưởng này Chỉ những giao dịch không có biện pháp khả thi để hạn chế tác động tiêu cực mới bị cấm Ngược lại, kiểm soát "hậu kiểm" được thực hiện để xử lý các vi phạm liên quan đến phòng ngừa tập trung kinh tế, bao gồm điều tra và xử phạt các hành vi vi phạm.

Thứ tư , kiểm soát tập trung kinh tế mặc dù là một hình thức kiểm soát của

Nhà nước nhưng không ảnh hưởng đến quyền tự chủ trong kinh doanh của các doanh nghiệp.

Các hoạt động kiểm soát tập trung kinh tế không chỉ đánh giá tác động đến thị trường mà còn đảm bảo sự tự chủ của doanh nghiệp Điều này dựa trên sự tương tác với cơ quan cạnh tranh, bao gồm việc thông báo về các vụ tập trung kinh tế, tính toán thị phần, doanh thu, doanh số, và thực hiện các biện pháp tái cơ cấu cũng như khắc phục hậu quả từ các vụ việc tập trung kinh tế.

Pháp luật kiểm soát đóng vai trò quan trọng trong việc giúp Nhà nước quản lý và điều tiết nền kinh tế, nhằm tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh và công bằng Qua đó, pháp luật này đảm bảo quyền tự do kinh doanh cho tất cả các chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế.

NỘI DUNG CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY VỀ KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ

Nội dung pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế

Kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế chủ yếu được thực hiện qua hai cơ chế: thứ nhất, cấm các trường hợp tập trung kinh tế gây hại cho cạnh tranh; thứ hai, kiểm soát các trường hợp cho phép thực hiện tập trung kinh tế một cách tự do.

(i) Điều 30 Tập trung kinh tế bị cấm (sửa đổi Điều 18 Luật Cạnh tranh năm

Doanh nghiệp thực hiện tập trung kinh tế có thể gây ảnh hưởng đáng kể đến cạnh tranh trên thị trường Việt Nam Sự thay đổi này điều chỉnh cách tiếp cận đối với các trường hợp tập trung kinh tế bị cấm theo Điều 18 của Luật Cạnh tranh năm 2004.

Luật Cạnh tranh năm 2004 cấm tập trung kinh tế nếu thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia vượt quá 50% trên thị trường liên quan, trừ khi các doanh nghiệp này vẫn được coi là nhỏ và vừa theo quy định Tuy nhiên, quy định này có những bất cập, vì việc cấm theo ngưỡng thị phần không thể ngăn chặn tất cả các hành vi tập trung kinh tế có thể gây hại cho cạnh tranh Thực tế, ngay cả khi thị phần kết hợp dưới 50%, vẫn có thể xảy ra tác động hạn chế cạnh tranh, trong khi một tập trung kinh tế có thị phần trên 50% nhưng không gây ảnh hưởng tiêu cực tới thị trường lại không bị cấm.

Nhóm được tự do thực hiện tập trung kinh tế bao gồm các vụ việc mà qua quá trình đánh giá tác động, cơ quan cạnh tranh kết luận không gây nguy cơ tiêu cực cho cạnh tranh, hoặc tác động đó là không đáng kể Mỗi loại hành vi tập trung kinh tế được xác định dựa trên các tiêu chí cụ thể.

Ngưỡng thông báo tập trung kinh tế là một khái niệm quan trọng trong pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế Để thực hiện kiểm soát hiệu quả, cần xây dựng các tiêu chí cụ thể yêu cầu doanh nghiệp liên quan tiến hành thông báo Các tiêu chí này sẽ giúp xác định rõ ràng ngưỡng thông báo cần thiết trong quá trình kiểm soát.

Quy định về thông báo tập trung kinh tế

Theo Điều 20 Luật Cạnh tranh năm 2004, các doanh nghiệp tập trung kinh tế phải thông báo cho Cơ quan quản lý cạnh tranh nếu thị phần kết hợp đạt từ 30% đến 50% trên thị trường liên quan Tuy nhiên, nếu sau khi tập trung kinh tế, doanh nghiệp vẫn thuộc loại hình vừa và nhỏ theo quy định, sẽ không cần thông báo Việc xác định nghĩa vụ thông báo dựa trên tiêu chí "thị phần kết hợp trên thị trường liên quan" đã bộc lộ nhiều bất cập trong Luật Cạnh tranh năm 2004.

Theo điều 33 của Luật Cạnh tranh 2018, tiêu chí “thị phần kết hợp” không còn được sử dụng để thông báo tập trung kinh tế Thay vào đó, luật quy định các tiêu chí mới làm “ngưỡng thông báo” cho việc này.

Các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế cần nộp hồ sơ thông báo đến Ủy ban cạnh tranh quốc gia nếu đạt ngưỡng thông báo tập trung kinh tế, được xác định theo các tiêu chí tại Khoản 2 Điều 33 của Luật cạnh tranh 2018.

- Tổng tài sản trên thị trường Việt Nam của một trong các bên tham gia tập trung kinh tế;

- Tổng doanh thu trên thị trường Việt Nam của một trong các bên tham gia tập trung kinh tế;

- Giá trị giao dịch của tập trung kinh tế;

- Thị phần kết hợp trên thị trường liên quan.

Thủ tục thông báo tập trung kinh tế

Các doanh nghiệp thuộc ngưỡng phải thông báo tập trung kinh tế thì thủ tục xem xét các vụ việc tập trung kinh tế gồm các bước:

- Nộp hồ sơ và thủ tục tiếp nhận hồ sơ tập trung kinh tế từ cơ quan quản lý cạnh tranh quốc gia

- Cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận và thẩm định hồ sơ ( sơ bộ- chính thức):

- Yêu cầu bổ sung thông tin nếu thiếu (ko quá 2 lần).

- Tham vấn trong quá trình thẩm định và yêu cầu các cá nhân tổ chức có liên quan cung cấp thông tin.

- Ra quyết định về việc tập trung kinh tế.

Các trường hợp trong tập trung kinh tế

a Trường hợp miễn trừ thuộc diện bị cấm

Miễn trừ là quy trình cho phép các tập trung kinh tế bị cấm được hưởng ngoại lệ có thời hạn Trong lĩnh vực luật cạnh tranh, miễn trừ áp dụng cho một số hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và tập trung kinh tế, dựa trên các cơ sở lý luận và thực tiễn cụ thể.

Xem xét việc miễn trừ cần dựa trên tác động tích cực đối với sự phát triển của thị trường, lợi ích của người tiêu dùng và lợi ích chung của nền kinh tế Điều này bao gồm khả năng hình thành các doanh nghiệp và tập đoàn kinh tế có sức cạnh tranh cao hơn trên thị trường quốc tế.

Không phải tất cả các trường hợp tập trung kinh tế đều gây tác động tiêu cực đến cạnh tranh; một số vụ tập trung mặc dù có thị phần lớn nhưng ảnh hưởng không đáng kể, hoặc có thể mang lại lợi ích kinh tế - xã hội vượt trội so với thiệt hại gây ra Do đó, quy định về miễn trừ trong Pháp luật Cạnh tranh nhấn mạnh tính linh hoạt và hiệu quả trong việc điều tiết nền kinh tế, nhằm tối ưu hóa việc tuân thủ pháp luật cho lợi ích chung Trường hợp tập trung kinh tế có điều kiện được quy định tại Điều 42 Luật Cạnh tranh 2018.

Là tập trung kinh tế được thực hiện nhưng phải đáp ứng một hoặc một số các điều kiện:

+ Chia, tách, bán lại phần vốn góp, tài sản của doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế;

Kiểm soát nội dung liên quan đến giá mua, giá bán hàng hóa và dịch vụ là một yếu tố quan trọng trong các hợp đồng hình thành sau khi có sự tập trung kinh tế Việc này đảm bảo tính minh bạch và công bằng trong các giao dịch, đồng thời giúp các bên liên quan tuân thủ các quy định pháp lý hiện hành.

Để khắc phục khả năng tác động đến hạn chế cạnh tranh trên thị trường, cần áp dụng các biện pháp nhằm tăng cường tác động tích cực đến sự tập trung kinh tế Những giải pháp này không chỉ giúp cải thiện môi trường cạnh tranh mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền kinh tế.

Vi phạm pháp luật tập trung kinh tế

Vi phạm pháp luật về tập trung kinh tế của doanh nghiệp được hiểu là việc các doanh nghiệp thực hiện một trong hai hành vi sau:

Hành vi tập trung kinh tế như sát nhập, hợp nhất doanh nghiệp, mua lại doanh nghiệp và liên doanh giữa các doanh nghiệp sẽ bị cấm nếu không thuộc trường hợp được miễn trừ.

Các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế mà không thông báo theo quy định có thể vi phạm Điều 34 của Luật Cạnh tranh 2018 Hành vi này xảy ra khi doanh nghiệp không nộp hồ sơ thông báo đến Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia, mặc dù trường hợp tập trung kinh tế đó thuộc ngưỡng phải thông báo.

Chế tài

Theo Điều 111 của Luật Cạnh Tranh 2018, mỗi hành vi vi phạm sẽ bị xử phạt bằng hình thức phạt tiền, với mức phạt tối đa lên đến 5% tổng doanh thu của doanh nghiệp vi phạm trong năm tài chính trước đó.

Ngoài việc bị phạt tiền, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm của doanh nghiệp còn có hình phạt khác (Điều 23, 24, 25, 26, Nghị định số 71/2014/NĐ-CP).

Xử lý vi phạm và cơ quan quản lý tập trung kinh tế

Các doanh nghiệp thực hiện hành vi tập trung kinh tế phải thông báo với cơ quan quản lý cạnh tranh Nếu không thực hiện thông báo, doanh nghiệp có thể bị phạt tiền lên đến 10% tổng doanh thu của năm tài chính trước năm vi phạm Điều này được quy định tại Điều 27, Nghị định số 71/2014/NĐ-CP.

Pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế không nhằm cấm đoán hay hạn chế các hành vi này, mà nhằm bảo vệ và phát huy cạnh tranh Kiểm soát tập trung kinh tế dựa trên việc đánh giá tác động để xác định liệu nó có gây hại đến sự cạnh tranh hay không, từ đó xác định mức độ và phạm vi kiểm soát cần thiết.

THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT KIỂM SOÁT CẠNH TRANH

Cơ quan quản lý cạnh tranh

Theo Luật Cạnh tranh 2004, có hai cơ quan cạnh tranh độc lập: Cơ quan quản lý cạnh tranh và Hội đồng Cạnh tranh Cơ quan quản lý cạnh tranh do Chính phủ thành lập, có trách nhiệm điều tra các vụ việc liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh và cạnh tranh không lành mạnh Trong khi đó, Hội đồng Cạnh tranh cũng do Chính phủ thành lập, đảm nhiệm việc xử lý các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh.

Mô hình hai cơ quan trong giải quyết vụ việc cạnh tranh đã bộc lộ nhiều bất cập, không đáp ứng nhu cầu thực tiễn Quá trình giải quyết kéo dài, nguồn lực phân tán khiến việc xử lý chưa tập trung, và kết quả luôn theo sau diễn biến thị trường, thiếu sự can thiệp kịp thời của Nhà nước để khắc phục khiếm khuyết Thêm vào đó, cơ chế kiêm nhiệm của thành viên Hội đồng Cạnh tranh gây ra sự thiếu tập trung trong quá trình giải quyết các vụ việc cạnh tranh.

Luật Cạnh tranh số 23/2018/QH14, được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ V, đã thiết lập Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia nhằm hỗ trợ Bộ trưởng Bộ Công Thương trong việc quản lý nhà nước về cạnh tranh Ủy ban này sẽ trực tiếp điều tra và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh, đồng thời hợp nhất và tổ chức lại Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng cùng với Hội đồng Cạnh tranh, bao gồm cả Văn phòng Hội đồng Cạnh tranh.

Thực tiễn áp dụng

Hơn 14 năm thực thi Luật Cạnh tranh, cơ quan quản lý cạnh tranh đã tích cực triển khai theo dõi, giám sát hoạt động tập trung kinh tế đối với nhiều ngành,lĩnh vực trong nền kinh tế và đã đạt được những kết quả nhất định Theo Báo cáo của Bộ Công thương về số vụ việc thông báo tập trung kinh tế và vụ việc tham vấn về tập trung kinh tế cả trước và trong quá trình các doanh nghiệp thực hiện tập trung kinh tế, tính đến hết năm 2018, Việt Nam đã thụ lý 40 vụ việc thông báo tập kinh tế, 50 vụ việc tham vấn tập trung kinh tế.

Năm 2018, Cục đã tiếp nhận và xử lý 04 hồ sơ thông báo tập trung kinh tế, đồng thời trả lời tham vấn cho 03 hồ sơ của doanh nghiệp Ngoài ra, Cục cũng tiến hành rà soát 05 vụ việc tập trung kinh tế và điều tra 01 vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật cạnh tranh liên quan đến tập trung kinh tế.

Mặc dù số vụ việc cạnh tranh được phát hiện và xử lý còn hạn chế, nhưng trong bối cảnh kinh tế khó khăn, nguồn nhân lực và kinh nghiệm của cơ quan quản lý cạnh tranh vẫn còn yếu, các hành vi tập trung kinh tế tiềm ẩn đang ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường cạnh tranh, đặc biệt trong các lĩnh vực quan trọng như phân phối, bán lẻ, năng lượng, dược phẩm, vận tải và du lịch Tuy nhiên, quy định về kiểm soát tập trung kinh tế trong Luật Cạnh tranh đã bắt đầu phát huy tác dụng.

3 Phân tích tình huống thực tế

VỤ VIỆC TẬP TRUNG KINH TẾ GIỮA

CÔNG TY TNHH GRABTAXI VÀ CÔNG TY TNHH UBER VIỆT

NAM a Tóm tắt vụ việc

Vào ngày 25 tháng 3 năm 2018, Công ty Grab Holdings Inc đã ký hợp đồng mua lại tài sản và tiếp nhận người lao động, hợp đồng và dữ liệu từ Công ty Uber International C.V và Công ty Apparate International C.V liên quan đến dịch vụ đặt xe, đặt hàng và giao nhận đồ ăn tại 8 quốc gia Đông Nam Á, bao gồm Việt Nam Tuy nhiên, hợp đồng này không bao gồm ứng dụng công nghệ của Uber tại khu vực này Grab Holdings Inc thực hiện việc mua sắm thông qua các công ty con hoặc công ty liên kết, và thỏa thuận mua bán riêng (Bill of Sale) là một phần thiết yếu để hợp thức hóa hợp đồng chuyển nhượng chung, đảm bảo các bên thực hiện giao dịch theo các điều khoản đã thỏa thuận.

Vào ngày 25 tháng 3 năm 2018, Công ty TNHH GrabTaxi (49% vốn của Grab Inc.) và Công ty TNHH Uber Việt Nam (100% vốn của Uber International Holding B.V.) đã ký kết hợp đồng mua bán, chuyển nhượng và tiếp nhận nghĩa vụ, trong đó Uber Việt Nam chuyển nhượng các tài sản, hoạt động kinh doanh và lợi ích khác tại Việt Nam cho GrabTaxi.

Ngay sau khi ký hợp đồng mua bán, GrabTaxi đã phát hành Hối phiếu nhận nợ trị giá 37.914.755.060 VNĐ cho Uber Việt Nam theo quy định trong hợp đồng Đồng thời, GrabTaxi cũng đã tiếp nhận một số tài sản và hợp đồng từ Uber Việt Nam chuyển giao.

- Ngày 30 tháng 11 năm 2018, Cục trưởng Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng đã ban hành Kết luận điều tra số 05/KL-CT Ngày 09 tháng 4 năm

Năm 2019, Cục trưởng Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng đã ban hành Kết luận điều tra bổ sung số 02/KL-CT, xác định rằng hành vi tập trung kinh tế của Bên bị điều tra là hình thức mua lại doanh nghiệp theo quy định tại khoản 3 Điều 17 Luật Cạnh tranh Vụ việc này liên quan đến hai thị trường chính.

Thị trường dịch vụ trung gian vận tải hành khách tại Thành phố Hà Nội kết nối người đi xe với lái xe ô tô dưới 09 chỗ thông qua nền tảng phần mềm và tổng đài.

Thị trường dịch vụ trung gian kết nối vận tải hành khách tại Thành phố Hồ Chí Minh đang phát triển mạnh mẽ, với sự kết hợp giữa người đi xe và lái xe ô tô dưới 09 chỗ thông qua nền tảng phần mềm và tổng đài Sự gia tăng này không chỉ tạo ra nhiều lựa chọn cho hành khách mà còn mở ra cơ hội kinh doanh cho các nhà cung cấp dịch vụ.

Thị phần kết hợp trên các thị trường liên quan trong năm 2017 như sau:

Thị phần dịch vụ trung gian kết nối vận tải hành khách tại Hà Nội, giữa người đi xe và lái xe ô tô dưới 09 chỗ, đạt 44,10% trên nền tảng phần mềm và tổng đài.

Thị phần dịch vụ trung gian kết nối vận tải hành khách tại Thành phố Hồ Chí Minh, giữa người đi xe và lái xe ô tô dưới 09 chỗ, đạt 82,68% trên nền tảng phần mềm và tổng đài.

Quá trình điều tra đã xác định rằng Bên bị điều tra đã thực hiện hai hành vi vi phạm, bao gồm hành vi không thông báo về việc tập trung kinh tế theo quy định tại Điều 20 của Luật Cạnh tranh, và hành vi tập trung kinh tế bị cấm theo Điều 18 của Luật Cạnh tranh, cụ thể là việc mua lại doanh nghiệp bị cấm theo Điều 25 Nghị định số 71/2014/NĐ-CP.

Vụ việc này có tính chất phức tạp, do đó nhóm phân tích đã tối giản thông tin nhằm giảm bớt độ phức tạp của vấn đề.

Để xác định hoạt động tập trung kinh tế là tự do, bị kiểm soát hay bị cấm, theo Luật Cạnh tranh 2004, giao dịch M&A phải được xác định theo Điều 16 Có năm hình thức tập trung kinh tế bao gồm: sáp nhập doanh nghiệp, hợp nhất doanh nghiệp, mua lại doanh nghiệp, liên doanh giữa các doanh nghiệp, và các hành vi tập trung kinh tế khác theo quy định pháp luật Nhóm sẽ phân tích từng hình thức tập trung kinh tế theo Điều 16.

Sát nhập doanh nghiệp là quá trình trong đó một hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển giao toàn bộ tài sản, quyền lợi, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình cho một doanh nghiệp khác.

1 Điều 25 Hành vi mua lại doanh nghiệp bị cấm

Nhận xét

Theo Luật Cạnh tranh 2018, việc kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế (mua bán và sáp nhập) được quy định rõ ràng Cụ thể, pháp luật cấm các doanh nghiệp có thị phần kết hợp vượt quá 50% trên thị trường liên quan tham gia vào các hoạt động tập trung kinh tế Đối với những doanh nghiệp có thị phần kết hợp từ 30-50%, họ phải thông báo cho cơ quan cạnh tranh trước khi tiến hành Tuy nhiên, thực tế cho thấy các doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc xác định thị phần của mình, dẫn đến việc không biết liệu họ có vi phạm quy định hay không Điều này cho thấy các quy định hiện tại về kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế chưa thực sự khả thi.

Theo Luật Cạnh tranh 2018, Điều 30 quy định rằng doanh nghiệp thực hiện tập trung kinh tế có thể gây tác động hạn chế cạnh tranh đáng kể trên thị trường Việt Nam Luật hiện tại chỉ xem xét tập trung kinh tế theo chiều ngang, tức là giữa các doanh nghiệp cùng cấp độ kinh doanh Tuy nhiên, thực tế có nhiều giao dịch tập trung kinh tế theo chiều dọc và dạng hỗn hợp, ví dụ như giữa thị trường sản xuất và cung cấp nguyên liệu Tiêu chí xác định việc cấm tập trung kinh tế dựa trên khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh của giao dịch Chỉ những giao dịch có tác động đáng kể mà không có biện pháp khắc phục mới bị cấm, và cơ quan cạnh tranh Quốc gia sẽ đánh giá dựa trên các tiêu chí cụ thể.

2 Kiến nghị a Đối với cơ quan quản lí nhà nước về hoạt động tập trung kinh tế.

Nhiều chuyên gia tư vấn cho cơ quan quản lý nhà nước về xây dựng chính sách cho rằng các giao dịch mua bán công ty chủ yếu là tự do khế ước Các bên tham gia tự tìm kiếm thông tin, thương lượng giá cả và tự quản lý thương vụ của mình.

Để bảo vệ cạnh tranh, quyền lực của Cục Quản lý cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh quốc gia cần được thực thi nghiêm túc Việc xây dựng hệ thống đăng ký kinh doanh độc lập và chia sẻ thông tin quốc gia, cũng như xóa bỏ tình trạng “cát cứ” của các sở kế hoạch và đầu tư, được coi là ưu tiên hàng đầu trong việc hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp.

Doanh nghiệp cần thiết lập kênh kiểm soát thông tin để đảm bảo tính minh bạch trong hoạt động kinh doanh chung và trong các hoạt động tập trung kinh tế cụ thể Điều này không chỉ giúp tăng cường niềm tin từ khách hàng mà còn góp phần vào việc tuân thủ các quy định trong môi trường pháp lý hiện hành.

Môi trường pháp lí cần được hoàn thiện và tuân theo các nguyên tắc sau:

Pháp luật cần thiết lập các tiêu chuẩn hợp lý để phân loại các trường hợp tập trung kinh tế, nhằm xác định rõ ràng những trường hợp gây hại thực sự cho thị trường cạnh tranh và những trường hợp mang lại lợi ích tích cực cho nền kinh tế.

Các thủ tục cần được thực hiện một cách hợp lý, không gây khó khăn cho doanh nghiệp và không cản trở các chiến lược, kế hoạch kinh doanh hợp pháp của họ.

Để cải thiện môi trường kinh doanh, các nhà hoạch định chính sách cần có cái nhìn khách quan và tích cực, nhằm hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp Điều này giúp các chủ thể trên thị trường dễ dàng tiếp cận và gia nhập thị trường hơn.

Cần có sự thống nhất và làm rõ khái niệm về hành vi tập trung kinh tế, đặc biệt là trong việc định nghĩa hành vi mua lại doanh nghiệp, nhằm đảm bảo sự đồng bộ giữa các lĩnh vực pháp luật liên quan.

3 Hoàn thiện Pháp luật cạnh tranh

Luật Cạnh tranh, được Quốc hội thông qua vào ngày 03 tháng 12 năm 2004 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2005, đã đóng vai trò quan trọng trong việc thiết lập hành lang pháp lý cho môi trường kinh doanh Sau hơn 12 năm thi hành, luật này đã góp phần duy trì sự bình đẳng trong kinh doanh, thúc đẩy phát triển kinh tế và phân bổ hiệu quả các nguồn lực xã hội.

Bối cảnh kinh tế - xã hội của Việt Nam đã có nhiều thay đổi trong những năm qua, đặc biệt khi đất nước hội nhập sâu rộng với nền kinh tế toàn cầu, dẫn đến một số nội dung của Luật Cạnh tranh trở nên không còn phù hợp.

Theo Luật Cạnh tranh hiện hành, việc xác định doanh nghiệp tập trung kinh tế chủ yếu dựa vào thị phần của doanh nghiệp trên thị trường liên quan Do đó, việc xác định thị trường liên quan, bao gồm thị trường sản phẩm và thị trường địa lý, là rất quan trọng và có ảnh hưởng quyết định đến quá trình thực thi Tuy nhiên, các tiêu chí hiện tại để xác định thị trường liên quan không phù hợp với thực tế, dẫn đến nhiều khó khăn trong quá trình thực thi.

Theo Điều 18 của Luật Cạnh tranh 2018, việc kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế (mua bán và sáp nhập) bị cấm nếu thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia vượt quá 50% trên thị trường liên quan, trừ những trường hợp đặc biệt theo Điều 19 Các doanh nghiệp có thị phần kết hợp từ 30-50% cũng cần thông báo cho cơ quan cạnh tranh trước khi tiến hành tập trung kinh tế Tuy nhiên, thực tế cho thấy các doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc xác định thị phần của mình, dẫn đến việc không biết liệu họ có vi phạm quy định hay cần thông báo hay không, cho thấy các quy định hiện tại thiếu tính khả thi.

Luật Cạnh tranh hiện tại chỉ xem xét tập trung kinh tế theo chiều ngang, tức là giữa các doanh nghiệp cùng cấp độ kinh doanh trên thị trường liên quan Tuy nhiên, thực tế vẫn tồn tại các giao dịch tập trung kinh tế theo chiều dọc, giữa các doanh nghiệp hoạt động ở các cấp độ khác nhau nhưng hỗ trợ lẫn nhau, chẳng hạn như giữa thị trường sản xuất và thị trường cung cấp nguyên liệu, hoặc giữa thị trường sản xuất và thị trường phân phối Ngoài ra, còn có các hình thức tập trung kinh tế hỗn hợp, diễn ra giữa các doanh nghiệp trên các thị trường sản phẩm khác nhau mà không có mối quan hệ theo chiều dọc.

Như vậy, để hoàn thiện pháp luật cạnh tranh, cần:

Doanh nghiệp cần xây dựng quy định rõ ràng về các tiêu chí để tự xác định xem giao dịch của mình có thuộc trường hợp phải thông báo hay không Các tiêu chí này bao gồm thị phần trên thị trường liên quan, giá trị giao dịch tập trung kinh tế và tổng doanh thu trên thị trường Việt Nam.

Ngày đăng: 20/08/2021, 21:34

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Luật Cạnh tranh số 23/2018/QH14 do Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 12 tháng 6 năm 2018 Khác
2. Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 do Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2014 Khác
3. Luật Cạnh tranh số 27/2004/QH11 do Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 03 tháng 12 năm 2004 Khác
4. Luật Hợp tác xã số 23/2012/QH13 do Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 20 tháng 11 năm 2012 Khác
5. Luật Doanh nghiệp nhà nước do Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003 Khác
6. Nghị định số 71/2014/NĐ-CP về xử lý vi phạm trong lĩnh vực cạnh tranh được thông qua ngày 21 tháng 7 năm 2014 Khác
7. Bản thuyết minh chi tiết dự thảo luật cạnh tranh do Bộ công thương trình quốc hội, 2018 Khác
8. Báo cáo thường niên năm 2018 do Cục cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng ban hành, 2018 Khác
9. Trường Đại học kinh tế-luật, Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, Giáo trình luật cạnh tranh, 2010 Khác
10. Trường Đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật cạnh tranh, 2018 Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

w