CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC CỦA CHỦ TỊCH ỦY
Ch ủ t ị ch Ủ y ban nhân dân c ấ p xã
Theo Luật cán bộ, công chức được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 13 tháng 11 năm 2008, cán bộ là công dân Việt Nam được bầu cử, phê chuẩn hoặc bổ nhiệm vào các chức vụ trong cơ quan của Đảng Cộng sản, Nhà nước, và tổ chức chính trị - xã hội Cán bộ làm việc tại các cấp tỉnh, huyện và nhận lương từ ngân sách Nhà nước.
Cán bộ xã, phường, thị trấn là công dân Việt Nam được bầu giữ chức vụ trong Thường trực Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân, bao gồm Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, cùng với người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội Trong khi đó, công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng vào các chức danh chuyên môn thuộc Ủy ban Nhân dân xã, làm việc trong biên chế và nhận lương từ ngân sách Nhà nước.
Trong Đại từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên, xuất bản năm 1999, cán bộ có nghĩa như sau:
Cán bộ là những người làm việc trong các cơ quan Nhà nước và hệ thống chính trị, có nghiệp vụ chuyên môn, nhằm phân biệt với những người không phải là công chức hoặc viên chức Nhà nước.
Người làm công tác có chức vụ trong cơ quan, tổ chức và hệ thống chính trị là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý Họ khác biệt với những người không có chức vụ và được hình thành thông qua bầu cử dân chủ hoặc đề bạt, bổ nhiệm.
Trong cuốn Luận cứ khoa học về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, PGS, TS Nguyễn Phú Trọng và PGS, TS Trần Xuân Sầm nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nâng cao năng lực cán bộ trong bối cảnh phát triển kinh tế xã hội.
Cán bộ là những người giữ vị trí quan trọng trong tổ chức, có ảnh hưởng lớn đến hoạt động và các mối quan hệ lãnh đạo, quản lý Họ đóng vai trò then chốt trong việc định hướng và thúc đẩy sự phát triển của tổ chức.
Cán bộ lãnh đạo chủ chốt là những người giữ vị trí quan trọng nhất trong một tổ chức, có quyền ra quyết định và trách nhiệm điều hành để thực hiện nhiệm vụ của tập thể Họ có khả năng chi phối và dẫn dắt toàn bộ hoạt động của tổ chức, đảm bảo sự phát triển và thành công của đơn vị.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã là cán bộ cấp xã, giữ vai trò quan trọng nhất trong bộ máy chính quyền cấp xã Người này có ảnh hưởng trực tiếp và quyết định trong việc điều hành, cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng, cũng như chính sách, pháp luật của Nhà nước Ngoài ra, Chủ tịch còn có nhiệm vụ xây dựng và thực hiện các kế hoạch nhằm phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương.
Theo điều 36, Luật tổ chức Chính quyền địa phương 2015 quy định:
Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã là người đứng đầu Ủy ban nhân dân xã và có các nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1 Lãnh đạo công tác và điều hành công việc của Ủy ban nhân dân, các thành viên của Ủy ban nhân dân xã;
2 Lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ về tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp, pháp luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân xã; thực hiện các nhiệm vụ về quốc phòng, an ninh, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh, phòng, chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác, phòng, chống quan liêu, tham nhũng; tổ chức thực hiện các biện pháp bảo vệ tài sản của cơ quan, tổ chức, bảo hộ tính mạng, tự do, danh dự, nhân phẩm, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân; thực hiện các biện pháp quản lý dân cư trên địa bàn xã theo quy định của pháp luật;
3 Quản lý và tổ chức sử dụng có hiệu quả công sở, tài sản, phương tiện làm việc và nhân sách nhà nước được giao theo quy định của pháp luật;
4 Giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật, tiếp công dân theo quy định của pháp luật;
5 Ủy quyền cho Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân xã thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong phạm vị thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã;
6 Chỉ đạo thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, an ninh, trật tự, an toàn trên địa bàn xã theo quy định của pháp luật;
7 Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do cơ quan nhà nước cấp trên phân cấp, ủy quyền
Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khoá VIII khẳng định rằng cán bộ đóng vai trò quyết định đến sự thành bại của cách mạng và là yếu tố then chốt trong tiến trình đổi mới Sự mạnh yếu của hệ thống chính trị cơ sở phụ thuộc vào trình độ và năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã Do đó, cán bộ, công chức, đặc biệt là Chủ tịch ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, được coi là "trụ cột" trong lãnh đạo, quản lý và điều hành tại cơ sở, góp phần quan trọng vào thành công của sự nghiệp đổi mới đất nước.
Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã đóng vai trò quan trọng trong việc lãnh đạo, quản lý và điều hành phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương Việc cải cách nền hành chính và hoàn thiện chế độ công vụ, đặc biệt là trách nhiệm và quyền hạn của Chủ tịch ủy ban, là cần thiết để đáp ứng yêu cầu quản lý xã hội theo Hiến pháp và pháp luật Các cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức phải tôn trọng và phục vụ Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của họ, đồng thời kiên quyết chống tham nhũng và lãng phí Để thực hiện hiệu quả nhiệm vụ, cần xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, công khai và minh bạch, đồng thời nâng cao tiêu chuẩn về trình độ, năng lực và phẩm chất của cán bộ, trong đó có Chủ tịch ủy ban nhân dân Những vấn đề này khẳng định vai trò và trách nhiệm của Chủ tịch ủy ban trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội, có ảnh hưởng quyết định đến đời sống của nhân dân tại địa phương.
Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm được giao phó bởi Đảng, Nhà nước và Nhân dân Họ phải chịu trách nhiệm về kết quả trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh - quốc phòng tại địa phương, theo đúng chủ trương, đường lối, chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước, đồng thời phản ánh ý chí nguyện vọng của nhân dân Là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân, Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã cần có đủ năng lực, uy tín và công minh để thực thi quyền lực nhà nước hiệu quả Họ cũng cần lắng nghe ý kiến của người dân, giải quyết khó khăn và yêu cầu chính đáng, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời huy động tối ưu các nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng đời sống văn hóa mới tại địa phương.
N ăng lự c c ủ a Ch ủ t ị ch Ủ y ban nhân dân c ấ p xã
"Năng lực" trong tiếng Anh được hiểu là khả năng làm việc hiệu quả Theo Phòng ngôn ngữ Pháp, năng lực bao gồm tập hợp các kiến thức, kỹ năng và thái độ cần thiết để thực hiện thành công một nhiệm vụ.
Việt của Viện Ngôn ngữ thì năng lực có nghĩa là “khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên có thể thực hiện một công việc nào đó”.
Năng lực đã được nghiên cứu từ nhiều ngành khoa học khác nhau, với các tác giả tiếp cận ở những cấp độ và khía cạnh đa dạng, tạo ra những kết quả đặc trưng cho từng lĩnh vực.
Theo Bernard Wynne, năng lực bao gồm các kỹ năng, kiến thức, hành vi và thái độ mà cá nhân tích lũy và áp dụng để đạt được kết quả theo yêu cầu công việc.
Năng lực, theo quan điểm của Theo Raymond A Noe, đề cập đến khả năng cá nhân giúp nhân viên hoàn thành công việc một cách hiệu quả và đạt được kết quả mong muốn Năng lực bao gồm các yếu tố như kiến thức, kỹ năng, thái độ và giá trị cá nhân.
Năng lực của nhân viên, theo Forgues-Savage và Wong, bao gồm kiến thức, kỹ năng, phẩm chất và hành vi, và nó thể hiện rõ ràng trong công việc Những yếu tố này liên quan chặt chẽ đến yêu cầu cấp độ mà tổ chức hoặc đơn vị đặt ra nhằm đảm bảo hiệu quả công việc của từng cá nhân.
Theo nghiên cứu của Trần Trọng Thủy và Nguyễn Quang Uẩn, năng lực được định nghĩa là sự kết hợp của những thuộc tính độc đáo của mỗi cá nhân, phù hợp với yêu cầu đặc trưng của một hoạt động cụ thể Điều này giúp đảm bảo hoàn thành công việc với kết quả tốt trong lĩnh vực đó.
Năng lực là một thuật ngữ mang tính đa nghĩa Trong tâm lý học có hai hướng tiếp cận vấn đềnăng lực:
Theo lý thuyết hướng nội sinh, khả năng hoạt động của mỗi cá nhân được xem là sự bộc lộ và phát triển các yếu tố bẩm sinh, chủ yếu do di truyền sinh học quyết định.
Theo quan điểm thứ hai, năng lực được hiểu là tập hợp các yếu tố tâm lý của cá nhân, giúp họ đáp ứng hiệu quả các yêu cầu của một hoạt động cụ thể Những năng lực này được hình thành và phát triển thông qua quá trình sống và hoạt động của mỗi người.
Năng lực của con người, theo Mác-Ăngghen, được hiểu là sức mạnh tiềm ẩn hoặc phát triển qua học tập và rèn luyện, kết hợp với các lực lượng vật chất để khơi dậy tiềm năng đó Năng lực thể hiện trình độ, tri thức và kỹ năng của cá nhân trong hoạt động thực tiễn Nó là tổng hợp các thuộc tính tâm lý và tố chất của cá nhân, phù hợp với yêu cầu của các hoạt động tổ chức.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, năng lực con người không chỉ do bẩm sinh mà còn được hình thành từ công tác và luyện tập Năng lực là kết quả của sự kết hợp giữa tư chất bẩm sinh và quá trình rèn luyện, tu dưỡng, học tập thông qua hoạt động thực tiễn.
Mặc dù, có nhiều quan niệm khác nhau về năng lực nhưng nhìn chung, năng lực có các đặc điểm sau:
Năng lực của con người được hình thành từ sự kết hợp của các yếu tố thể chất và trí tuệ, cho phép hoàn thành các hoạt động với kết quả tối ưu Các yếu tố cấu thành năng lực bao gồm kiến thức, kỹ năng và thái độ, trong đó kiến thức và kỹ năng là những yếu tố quyết định nhất.
Kỹ năng có thể được hình thành từ các yếu tố bẩm sinh, nhưng chủ yếu là do tác động từ môi trường bên ngoài, bao gồm quá trình đào tạo, bồi dưỡng và tích lũy kinh nghiệm trong công việc.
Trên cơ sở các đặc điểm nêu trên, có thể khái niệm năng lực như sau:
Năng lực là sự kết hợp giữa kiến thức, kỹ năng và thái độ của cá nhân, cho phép họ đáp ứng hiệu quả các yêu cầu trong hoạt động Nó không chỉ là khả năng thực hiện nhiệm vụ mà còn là kết quả của chính quá trình hoạt động đó.
Khi đánh giá năng lực, cần xem xét mối liên hệ chặt chẽ với yêu cầu công việc tương ứng với vị trí và chức danh cụ thể.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội địa phương, lãnh đạo và điều hành các hoạt động của Ủy ban Họ cần gần gũi, hiểu và lắng nghe ý kiến của người dân, đồng thời phải có năng lực và kỹ năng tổ chức công việc hiệu quả Năng lực của họ được thể hiện qua hiểu biết và khả năng triển khai các nhiệm vụ, tập hợp quần chúng thành phong trào lớn nhằm đạt được mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Nh ững đặc trưng cơ b ả n v ề t ự nhiên, kinh t ế , xã h ộ i huy ệ n C ủ Chi
THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CỦA CHỦ TỊCH ỦY BAN NHÂN DÂN
CẤP XÃTRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CỦ CHI,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1 Những đặc trưng cơ bản về điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội của huyện Củ Chi
Huyện Củ Chi nằm trên vùng đất chuyển tiếp từ vùng đất cao của núi rừng miền Đông Nam Bộ xuống vùng đất thấp của Đồng bằng Sông Cửu
Khu vực này có sự đa dạng phong phú về chủng loại cây trồng, bao gồm cao su, các loại cây ăn trái như mít, xoài, bưởi, cùng với các loại cây nông sản như đậu phộng, bắp, rau và lúa.
Củ Chi thuộc khu vực có khí hậu nhiệt đới gió mùa, với đặc điểm cận xích đạo, nhiệt độ ổn định và cao quanh năm, ít biến đổi.
Mạng lưới kênh rạch tự nhiên phong phú tại Huyện, chịu ảnh hưởng từ sông Sài Gòn và kênh Thầy Cai, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp Huyện còn nhận được sự đầu tư từ Nhà nước về thủy lợi, đặc biệt là hệ thống Kênh Đông, cho phép nước chảy tự nhiên mà không cần máy bơm Hệ thống này bao gồm 411 km kênh đã được kiên cố hóa, với 537 kênh tưới và 80 tuyến kênh tiêu dài tổng cộng 167,7 km, được xây dựng từ cuối năm trước.
1985 và hoàn thành vào năm 1993).
Củ Chi, với vị trí địa lý và giao thông thuận lợi, là cửa ngõ Tây Bắc của thành phố Hồ Chí Minh Tuyến Quốc lộ 22 kết nối thành phố với tỉnh Tây Ninh và Campuchia, trong khi tỉnh lộ 8 liên kết Thị trấn Củ Chi với Long An và Bình Dương, tạo điều kiện thuận lợi cho huyện mở rộng quan hệ giao thương và giao lưu văn hóa với các vùng lân cận và các địa phương khác trong cả nước.
Hình 2.1 B ản đồ hành chính huy ệ n C ủ Chi
Củ Chi là huyện ngoại thành nằm ở phía Tây Bắc của thành phố Hồ Chí Minh, cách trung tâm thành phố 50km qua Quốc lộ 22 Huyện giáp ranh với huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh ở phía Bắc, tỉnh Bình Dương ở phía Đông (ngăn cách bởi sông Sài Gòn), huyện Hóc Môn ở phía Nam và tỉnh Long An ở phía Tây Với diện tích tự nhiên 43.496ha, Củ Chi chiếm 20,76% diện tích toàn thành phố, trong đó 64,9% là đất nông nghiệp Dân số huyện đạt 398.746 người, mật độ 9.167 người/km², chủ yếu là người lao động từ các tỉnh khác đến, điều này không chỉ tăng nguồn lao động mà còn tạo áp lực lớn lên công tác giải quyết việc làm, an ninh trật tự, vệ sinh môi trường và an sinh xã hội.
Huyện Củ Chi gồm 20 xã và 01 thị trấn là: thị trấn Củ Chi, Tân Thông
Hội, Tân An Hội, Tân Phú Trung, Tân Thạnh Đông, Tân Thạnh Tây, Bình
Mỹ, Trung An, Hòa Phú, Phú Hòa Đông, Phạm Văn Cội, Phước Vĩnh An, An Phú, An Nhơn Tây, Phú Mỹ Hưng, Nhuận Đức, Trung Lập Thượng, Trung
Lập Hạ, Phước Thạnh, Phước Hiệp, Thái Mỹ
2.1.2 Điều kiện kinh tế - xã hội
Trong những năm gần đây, tiếp tục thực hiện chủ chương đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn theo tinh thần
Nghị quyết số 26-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã chọn Huyện Củ Chi làm đơn vị thí điểm xây dựng nông thôn mới vào năm 2009, bắt đầu với xã Tân Thông Hội Đến năm 2011, chương trình đã hoàn thành và được triển khai mở rộng cho 19 xã còn lại trong huyện Hiện tại, 20 xã nông thôn mới đã được xây dựng hoàn chỉnh, đạt 19/19 tiêu chí theo đề án phê duyệt, và đang tiếp tục duy trì, nâng cao chất lượng các tiêu chí đã đạt được.
Biểu đồ 2.1 Cơ cấu tỷ trọng tăng trưởng kinh tế bình quân huyện Củ Chi (2010-2015)
Kinh tế huyện Duy trì đạt tốc độ tăng trưởng ổn định và hợp lý, với cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực Mức tăng trưởng kinh tế bình quân trong giai đoạn 2010-
Năm 2015, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế đạt 18,96%, trong đó ngành công nghiệp tăng trưởng bình quân 20,01%, chiếm 74,51% tổng sản phẩm; ngành thương mại - dịch vụ tăng 18,76%, và ngành nông nghiệp tăng 8,16%, chiếm 11,48% Thu nhập bình quân của người dân trong khu vực đã được cải thiện đáng kể.
40 triệu đồng/người/năm (tăng gấp 1,85 lần so với đầu kỳ kế hoạch)
Huyện hiện có 2.090 doanh nghiệp và chi nhánh hoạt động, trong đó có 93 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tạo việc làm cho hơn 61.000 lao động Ngành công nghiệp chủ yếu bao gồm sản xuất sản phẩm từ cao su và nhựa chiếm 44%, sản xuất thực phẩm và đồ uống 20%, và sản xuất trang phục 5,6% Ngoài ra, huyện cũng đang xây dựng 02 siêu thị tại xã Tân Thông.
Hội và xã Tân Thạnh Đông có 24 cửa hàng tiện ích và 17 chợ, cung cấp hàng hóa phong phú với giá cả hợp lý, đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của người dân Ngoài ra, khu vực còn có các khu du lịch đang hoạt động.
Khu Di tích lịch sử Địa đạo Bến Đình (xã Nhuận Đức), Khu Di tích lịch sử Địa đạo Bến Dược (xã Phú MỹHưng)
Ngành nông nghiệp đang chuyển dịch theo hướng tích cực, với chăn nuôi chiếm 51,02%, trồng trọt 30,07%, dịch vụ nông nghiệp 13,89%, lâm nghiệp 1,05% và thủy sản 3,97% Diện tích đất trồng lúa giảm nhanh để mở rộng diện tích cho hoa cây kiểng, rau an toàn và cỏ chăn nuôi phục vụ đàn bò sữa.
Đến nay, đã có 45 trường được xây dựng đạt chuẩn quốc gia về cơ sở vật chất, trong đó 19 trường được công nhận đạt chuẩn Quốc gia theo 5 tiêu chuẩn của Bộ Giáo dục và Đào tạo Đồng thời, việc xã hội hóa giáo dục mầm non cũng đang được đẩy mạnh, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
09 trường tư thục và 62 nhóm, lớp mầm non tư thục
Môi trường tự nhiên và hình thái kinh tế - xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển văn hóa Sự tương tác giữa văn hóa, xã hội và con người là yếu tố then chốt trong quá trình này Theo C.Mác, bản chất con người chính là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, điều này thể hiện rõ qua các phẩm chất tâm lý và tính cách của con người trong từng cộng đồng.
Củ Chi, với nền văn hóa nông nghiệp đặc trưng, ảnh hưởng sâu sắc đến lối sống và phong cách làm việc của người dân địa phương Người dân nơi đây thể hiện sự cần cù, bền bỉ và tinh thần tương trợ lẫn nhau, nhưng vẫn còn hạn chế về tính tổ chức và kỷ luật trong lao động công nghiệp Những yếu điểm này đang cản trở quá trình phát triển năng lực của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, ảnh hưởng đến sự tiến bộ của huyện Củ Chi trong bối cảnh văn hóa - chính trị - xã hội hiện nay.
Những biến đổi trong lĩnh vực kinh tế, dịch vụ xã hội và văn hóa tại huyện Củ Chi đã có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống của người dân nơi đây.
Đánh giá chung về năng lự c Ch ủ t ị ch Ủ y ban nhân dân xã huy ệ n C ủ Chi
Đội ngũ Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã huyện Củ Chi đã có nhiều chuyển biến tích cực, nhưng vẫn còn một số bất cập cần khắc phục Việc xây dựng và hoàn thiện đội ngũ này cần được thực hiện nghiêm túc, không chỉ dựa trên số liệu, độ tuổi hay bằng cấp mà còn phải xem xét kinh nghiệm, năng lực thực tiễn và uy tín Cần tìm hiểu rõ nguyên nhân của những điểm mạnh để phát huy, đồng thời đề xuất giải pháp khắc phục những hạn chế trong năng lực của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã.
2.3.1 Mặt làm được và nguyên nhân
Huyện ủy và Ủy ban nhân dân huyện Củ đã triển khai nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đáp ứng tốt hơn các yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Ủy ban nhân dân huyện đã ban hành nhiều chương trình và kế hoạch nhằm lãnh đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đặc biệt chú trọng đến đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, bao gồm cả Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Kế hoạch số 2637/QĐ-UBND đã được xây dựng để thực hiện mục tiêu này.
Kế hoạch thực hiện chương trình nâng cao chất lượng nguồn nhân lực giai đoạn 2011 - 2015 đã góp phần nâng cao trình độ cán bộ chủ chốt cấp xã, với 100% Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã đạt trình độ đại học và trên đại học Hơn 90% cán bộ đã hoàn thành trình độ lý luận chính trị từ trung cấp trở lên, trong đó 66.67% có bằng cử nhân, cao cấp chính trị Lãnh đạo Huyện đã chú trọng đến bình đẳng giới, với tỷ lệ phụ nữ trong đội ngũ lãnh đạo chính quyền địa phương ngày càng tăng Đặc biệt, trong công tác bầu cử Đại hội Đảng bộ cấp cơ sở 2015-2020, Huyện ủy đã chỉ đạo giới thiệu trên 30% nhân sự nữ, và kết quả cho thấy cấp ủy các xã đều đạt từ 30% trở lên cán bộ nữ tham gia, trong đó 42.86% là Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Sự quan tâm của cấp ủy các cấp trong quy hoạch và bố trí cán bộ nữ đã làm tăng cả số lượng và chất lượng, với 23.81% nữ cán bộ giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã có trình độ Thạc sĩ.
Chủ trương trẻ hóa đội ngũ cán bộ lãnh đạo tại huyện Củ Chi đã tạo ra bước đột phá trong công tác quy hoạch và sử dụng cán bộ, với 33,33% Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã dưới 35 tuổi, trong đó 57,14% là nữ Điều này không chỉ thúc đẩy sự đổi mới trong nhận thức và hành động phát triển kinh tế - xã hội mà còn thể hiện sự mạnh dạn, tự tin và năng động của đội ngũ lãnh đạo, góp phần đưa địa phương và đất nước tiến xa hơn trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Năng lực của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã ở huyện Củ Chi hiện nay đã đáp ứng yêu cầu công việc, góp phần phát triển kinh tế - xã hội Thành quả này đến từ sự nhiệt tình, trách nhiệm và tinh thần khắc phục khó khăn của đội ngũ Chủ tịch Họ tích cực học hỏi, nâng cao trình độ và tu dưỡng phẩm chất đạo đức, phong cách làm việc hiện đại Trong công vụ, họ phục vụ nhân dân với thái độ tận tụy, trách nhiệm cao, hướng dẫn chu đáo và phong cách phục vụ chuyên nghiệp Các Chủ tịch luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, phối hợp công tác, nghiên cứu và đưa ra giải pháp tối ưu, hoàn thành công việc đúng tiến độ và chất lượng Họ chủ động hỗ trợ, chia sẻ và giữ gìn tinh thần đoàn kết trong cơ quan.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã đã phát huy vai trò lãnh đạo hiệu quả, góp phần tích cực vào hoạt động của Ủy ban nhân dân các xã, đặc biệt trong việc quản lý và điều hành, cụ thể hóa nghị quyết Đại hội Đảng Họ cũng đã phối hợp chặt chẽ với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, cùng nhân dân tham gia giải quyết các vấn đề mới phát sinh tại cơ sở Những kết quả này đã đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Qua phân tích, năng lực của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã đã được cải thiện đáng kể nhờ vào việc trẻ hóa và chuẩn hóa trình độ học vấn, chuyên môn, và lý luận chính trị Đội ngũ này ngày càng năng động, sáng tạo và có khả năng ứng dụng khoa học – công nghệ tốt hơn Những kết quả này đạt được là nhờ vào các chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, như Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa VII về đổi mới Đảng, Quy định 52/QĐ-TW về chức năng của đảng bộ ở cơ sở, và các nghị quyết liên quan đến chiến lược cán bộ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa Các chỉ thị và nghị quyết khác cũng góp phần quan trọng trong việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, tạo điều kiện pháp lý thuận lợi để nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, đặc biệt là Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã trong quá trình thực thi công vụ.
Ban Thường vụ Huyện ủy, Thường trực Huyện ủy và Thường trực Ủy ban nhân dân huyện Củ Chi đang thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến công tác xây dựng đội ngũ Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Điều này được thực hiện thông qua việc triển khai mạnh mẽ các chương trình và kế hoạch nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt xã, bao gồm cả Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Huyện cũng đẩy mạnh công tác điều động, bố trí và bổ nhiệm những cán bộ trẻ, có trình độ, kiến thức và năng lực để tham gia công tác tại cơ sở.
Đội ngũ cán bộ công chức xã, đặc biệt là Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, đã nhận thức rõ vai trò và yêu cầu của mình trong thời kỳ mới Họ chủ động khắc phục những hạn chế, thể hiện tinh thần cầu thị và cầu tiến bộ trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có phẩm chất, đạo đức tốt và bản lĩnh chính trị vững vàng Đồng thời, họ tích cực học tập nâng cao trình độ, năng lực thực tiễn và mạnh dạn đưa ra nhiều sáng kiến, mô hình, giải pháp hiệu quả.
2.3.2 Mặt hạn chế và nguyên nhân
Mặc dù đội ngũ Chủ tịch Ủy ban nhân dân các xã trong huyện đã nỗ lực và phấn đấu nhiều, nhưng vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục.
Huyện Củ Chi đang đối mặt với thách thức trong việc trẻ hóa đội ngũ lãnh đạo Ủy ban nhân dân xã, do phần lớn cán bộ hiện tại đều có tuổi đời cao và kinh nghiệm lâu năm, nhưng lại gặp khó khăn trong việc chấp nhận lãnh đạo trẻ tuổi Mặc dù các Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã trẻ tuổi được đào tạo bài bản và có tinh thần trách nhiệm cao, họ thiếu kinh nghiệm thực tiễn và kỹ năng xử lý tình huống, dẫn đến khó khăn trong việc thực hiện nhiệm vụ Bên cạnh đó, tư tưởng “trọng người địa phương” vẫn tồn tại, khiến cho việc điều động cán bộ từ nơi khác gặp nhiều trở ngại Đặc biệt, nữ Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã còn phải đối mặt với định kiến phong kiến, gây thêm áp lực trong công tác lãnh đạo và quản lý.
Nguyên nhân của tình trạng này chủ yếu xuất phát từ yếu tố khách quan như vị trí địa lý không thuận lợi, xa trung tâm thành phố và nền nông nghiệp lạc hậu Bên cạnh đó, tư tưởng phong kiến và phong cách sống theo cảm tính đã tồn tại lâu dài, gây khó khăn trong việc thay đổi Mặc dù số lượng cán bộ công chức cấp cơ sở có trình độ chuyên môn đang tăng, chất lượng đào tạo vẫn chưa cao, dẫn đến việc chưa đáp ứng tốt công việc Các chủ trương như trẻ hóa, chuẩn hóa, bình đẳng giới và lãnh đạo không phải là người địa phương gặp nhiều khó khăn do thiếu sự đồng thuận từ cán bộ công chức và người dân Hơn nữa, công tác tuyên truyền còn thiếu hiệu quả và đội ngũ lãnh đạo chưa có kinh nghiệm thực tiễn, chưa gần gũi với người dân, khiến cho niềm tin của cộng đồng vào chính quyền địa phương chưa được củng cố.
Qua khảo sát, đội ngũ Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã đã đạt chuẩn về bằng cấp chuyên môn, nhưng hơn 30% trong số họ chỉ có bằng Đại học qua hình thức vừa làm vừa học hoặc đào tạo từ xa, chủ yếu là người lớn tuổi Điều này dẫn đến kiến thức không hệ thống và chất lượng sau đào tạo chưa cao, chuyên ngành không phù hợp với thực tiễn Họ thường dựa vào kinh nghiệm và mối quan hệ cá nhân để giải quyết công việc, gây ảnh hưởng đến hiệu quả thực thi công vụ, như tình trạng khiếu kiện vượt cấp và biểu tình ở một số địa phương Bên cạnh đó, trình độ chính trị của họ vẫn còn hạn chế.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã chưa qua sơ cấp chính trị và chỉ được đào tạo sau khi được bổ nhiệm, điều này ảnh hưởng đến khả năng hiểu biết và thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng cũng như chính sách của Nhà nước Hệ quả là niềm tin của nhân dân vào các chủ trương và chính sách chưa được củng cố vững chắc Ngoài ra, trình độ quản lý hành chính, nghiệp vụ quản lý nhà nước, tin học, ứng dụng công nghệ thông tin và ngoại ngữ của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã còn hạn chế, không đáp ứng tốt yêu cầu thực tiễn, dẫn đến thiếu chủ động và nhạy bén trong việc nhận diện các đổi mới và xu hướng của ngành.
“Hoạch định phát triển kinh tế - xã hội địa phương ngắn-trung-dài hạn”;