Tổng quan chung về đa dạng sinh học ĐNN nội địa ở Quảng Ninh. Điều tra khảo sát và đánh giá về các giá trị dịch vụ hệ sinh thái ĐNN nội địa vàvai trò của chúng đối với sinh kế của người dânPhạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm các vùng đất ngập nước nội địa trênđịa bàn tỉnh Quảng Ninh, chủ yếu phân bố ở phía Tây trục Quốc lộ 18, không đềcập các vùng đất ngập nước ven biển và hải đảo. Các vùng đất ngập nước đượcnghiên cứu bao gồm: Các vùng đất ngập nước thường xuyên có dòng chảy (sôngngòi), các vùng đất ngập nước thường xuyên không có dòng chảy (hồ đầm) và cácvùng đất ngập nước không thường xuyên sử dụng cho nông nghiệp (đất chuyên lúanước)
Nội dung, đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu
- Tổng quan chung về đa dạng sinh học ĐNN nội địa ở Quảng Ninh
Khảo sát và đánh giá các giá trị dịch vụ hệ sinh thái ĐNN nội địa là cần thiết để hiểu rõ vai trò của chúng đối với sinh kế của người dân Những dịch vụ này không chỉ cung cấp nguồn tài nguyên thiết yếu mà còn hỗ trợ phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường Việc nhận diện và đánh giá chính xác các giá trị này sẽ giúp cải thiện chất lượng cuộc sống và nâng cao khả năng thích ứng của cộng đồng.
Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu tập trung vào các vùng đất ngập nước nội địa tại tỉnh Quảng Ninh, chủ yếu nằm ở phía Tây trục Quốc lộ 18, không bao gồm các khu vực ven biển và hải đảo Các loại hình đất ngập nước được khảo sát gồm: vùng đất ngập nước có dòng chảy thường xuyên như sông ngòi, vùng đất ngập nước không có dòng chảy thường xuyên như hồ đầm, và vùng đất ngập nước không thường xuyên phục vụ cho nông nghiệp, cụ thể là đất chuyên trồng lúa nước.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập, phân tích và xử lý tài liệu thứ cấp bao gồm việc thu thập và xử lý các tư liệu, tài liệu, và số liệu thống kê đã được công bố từ các công trình nghiên cứu, sách vở, cũng như số liệu từ các cơ quan trung ương và địa phương có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
Điều tra thực địa đã được thực hiện tại cộng đồng và các cơ quan liên quan thông qua bảng câu hỏi và phỏng vấn trực tiếp theo phương pháp đánh giá nhanh nông thôn (RRA) 60 hộ gia đình được chọn ngẫu nhiên từ các hộ dân xung quanh vùng đất ngập nước quan trọng ở 4 huyện tỉnh Quảng Ninh, bao gồm Đông Triều, Hạ Long, Đầm Hà và Móng Cái Thông tin thu thập tập trung vào vai trò của vùng đất ngập nước, nguồn tài nguyên mà chúng cung cấp, các hoạt động sinh kế liên quan, cũng như vấn đề khai thác và bảo vệ các vùng đất ngập nước tại từng địa phương.
- Phương pháp đánh giá dịch vụ hệ sinh thái:
Dịch vụ hệ sinh thái (HST) được đánh giá trong tài liệu Đánh giá thiên niên kỷ hệ sinh thái MA (2005) bao gồm bốn loại chính: dịch vụ cung cấp như thực phẩm, nước và nguyên liệu; dịch vụ điều tiết như khí hậu, lũ lụt và lọc nước; dịch vụ hỗ trợ như vòng tuần hoàn dinh dưỡng, hình thành đất và năng suất sơ cấp; và dịch vụ văn hóa bao gồm nghỉ dưỡng, giải trí, du lịch và giáo dục Khung đánh giá này nhấn mạnh rằng con người là một phần không thể tách rời của hệ sinh thái, đồng thời thể hiện sự tương tác giữa con người và các thành phần khác trong hệ sinh thái Mối liên kết giữa các dịch vụ HST và sinh kế của con người được thể hiện rõ trong hình 1.
Hình 1 Khung liên kết các dịch vụ hệ sinh thái và sinh kế của con người
Kết quả nghiên cứu
Đặc điểm các vùng đất ngập nước nội địa ở Quảng Ninh
3.1.1 Hệ thống sông ngòi và hồ ao ở Quảng Ninh
Tỉnh Quảng Ninh sở hữu mạng lưới sông suối dày đặc với mật độ từ 1,0 đến 1,9 km/km², có nơi lên đến 2,4 km/km² Các sông suối thường ngắn, dốc, với tốc độ dòng chảy lớn và khả năng bào mòn mạnh Hầu hết các sông bắt nguồn từ vùng núi cao, theo hướng Đông Bắc - Tây Nam và Bắc - Nam Lưu lượng sông thay đổi theo mùa và phần hạ lưu chịu ảnh hưởng lớn từ thủy triều và nhiễm mặn Toàn tỉnh có khoảng 30 sông, suối dài trên 10 km, với diện tích lưu vực thường không vượt quá 300 km².
Tỉnh có bốn con sông lớn: sông Đá Bạc, sông Ka Long, sông Tiên Yên và sông Ba Chẽ, mỗi sông đều có nhiều nhánh vuông góc với sông chính Hầu hết các sông có hình dạng xòe cánh quạt, ngoại trừ sông Ba Chẽ và sông Tiên Yên có hình dạng lông chim Nước mặn xâm nhập vào vùng cửa sông khá xa, trong khi lớp thực vật che phủ ở các lưu vực thấp, dẫn đến tình trạng xói lở và bào mòn đất Điều này làm tăng lượng phù sa và đất đá trôi xuống trong mùa lũ, khiến nhiều nơi sông suối bị bồi lấp nhanh chóng, đặc biệt ở những khu vực có hoạt động khai khoáng như suối Vàng Danh và sông Mông Dương.
Các sông suối ở Quảng Ninh có đặc điểm ngắn và độ dốc lớn, với lưu lượng và lưu tốc thay đổi rõ rệt theo mùa Vào mùa đông, nhiều sông cạn nước, để lộ đáy, trong khi mùa hạ lại chứng kiến lưu lượng nước dồi dào, nước dâng nhanh chóng.
Phúc lợi và giảm đói nghèo
- Sự tự do lựa chọn và hành động Động lực tác động gián tiếp
- Kinh tế (thị trường và khuôn khổ chính sách)
- Chính trị xã hội (quản trị và khuôn khổ thể chế)
- Khoa học và công nghệ
‾ - Văn hóa và tín ngưỡng Động lực tác động trực tiếp
- Biến động sử dụng đất
- Các tác động đầu vào (ví dụ như tưới tiêu)
- Khai thác và sử dụng tài nguyên
Các dịch vụ hệ sinh thái
6 có thể xuống thấp tới 1,45 m 3 /s; mùa mưa lại có thể lên tới 1.500m 3 /s; chênh nhau khoảng 1.000 lần
Một số sông, hồ có tầm quan trọng trong việc cung cấp nước trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh bao gồm:
Sông Đá Bạc (đoạn hạ lưu của hệ thống sông Thái Bình) và các phụ lưu
Sông Đá Bạc, thuộc hệ thống sông Thái Bình, là đoạn hạ lưu của sông Kinh Thầy Cuối sông Đá Bạc, dòng chảy chia thành ba nhánh: sông Bạch Đằng, sông Chanh và sông Rút trước khi đổ ra biển Sông Đá Bạc chảy qua tỉnh Quảng Ninh, đi qua các địa phương như Đông Triều, Uông Bí, và Quảng Yên, với tổng chiều dài khoảng 60km.
Các phụ lưu của sông Đá Bạc, nằm trên địa bàn tỉnh, đều bắt nguồn từ Nam dãy Yên Tử với độ cao từ 500 - 700m Một số phụ lưu quan trọng như sông Trung Lương (sông Cầm) và sông Vàng Danh đang cung cấp nước thô cho các nhà máy xử lý nước Diện tích lưu vực của các phụ lưu này thường nhỏ, dẫn đến tình trạng nước lũ lên nhanh và rút chậm do cửa thoát nước nhỏ Tuy nhiên, đoạn sông từ Uông Bí ra biển có cửa sông mở rộng, giúp nước lũ thoát nhanh hơn.
Sông Ka Long, hay còn gọi là sông Bắc Luân, bắt nguồn từ khu vực Thập Vạn Đại Sơn của Trung Quốc, chảy dọc biên giới Việt - Trung theo hướng Tây Bắc - Đông Nam và đổ ra vịnh Bắc bộ tại cửa Bắc Luân thuộc TP Móng Cái Diện tích lưu vực toàn sông là 773 km², trong đó 99 km² nằm trên địa phận Quảng Ninh Sông có tổng chiều dài 109 km, với 60 km tạo thành biên giới Việt - Trung, và có 5 phụ lưu chính là Ka Long, Bắc Luân, Lục Lầm, Vạn Ninh và Xuân Ninh Thượng lưu sông có độ dốc lớn và nhiều thác ghềnh, trong khi hạ lưu rộng và có nhiều cửa sông, giúp thoát lũ nhanh chóng, giảm thiểu tình trạng úng lụt.
Sông Tiên Yên, bắt nguồn từ vùng núi Nam Châu Lãnh với độ cao 1.506m, chảy theo hướng Đông Bắc - Tây Nam và từ Co Linh đến cửa sông theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, có tổng chiều dài 82 km và diện tích lưu vực 1.070 km² Trong lưu vực, có 14 sông suối dài từ 10 km trở lên, trong đó 12 sông suối có diện tích lưu vực trên 100 km² Hình dạng lưu vực sông Tiên Yên là tam giác, với thủy lưu rộng và hạ lưu thu hẹp, dẫn đến độ dốc lớn và tình trạng lũ xảy ra nhanh, đặc biệt là ở khu vực thị trấn Tiên Yên và khu Mũi Chùa, nơi thường xuyên chịu ảnh hưởng của lũ lớn do thủy triều.
Ba Chẽ là một sông lớn của tỉnh Quảng Ninh Sông Bắt nguồn từ vùng núi Am Váp
7 trên đất Hoành Bồ, diện tích lưu vực 978 km 2 với chiều dài sông chính 78,5 km, chạy quanh co, uốn khúc và đổ ra vịnh Bắc Bộ
Sông Ba Chẽ có 11 nhánh cấp 1 phân bố đều, với mật độ lưới sông là 1,1 km/km² Lòng sông hẹp và nhiều thác ghềnh, độ dốc lưu vực nhỏ, cùng với lượng mưa ít ở thượng nguồn, khiến tác hại của lũ không lớn Khi di chuyển từ thị trấn Ba Chẽ ra biển, lòng sông dần rộng ra Cửa sông Ba Chẽ nối với cửa sông Tiên Yên ở phía Bắc và cửa sông Voi Lớn ở phía Nam.
Hệ thống các sông nhỏ trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
Quảng Ninh có 11 sông nhỏ, với chiều dài từ 13 đến 15 km và diện tích lưu vực thường nhỏ hơn 300 km² Các sông này phân bố dọc bờ biển từ bắc xuống nam, bao gồm: Sông Tràng Vinh (sông Tín Coóng), sông Hà Cối, sông Đầm Hà, sông Tài Chi, sông Đồng Cái Xương, sông Hà Thanh, Đồng Mỏ, Mông Dương, Diễn Vọng, sông Mằn, Sông Trới và Sông Míp.
Các sông ở khu vực này bắt nguồn từ sườn đón gió biển và cánh cung Đông Triều - Móng Cái, chảy ra vịnh Bắc Bộ theo hướng vuông góc với bờ biển Đặc điểm nổi bật của các sông là độ dốc lớn ở thượng lưu, nhiều thác ghềnh và trắc diện hẹp, không có trung lưu, với chiều dài sông ngắn và cửa sông thường mở rộng thành vịnh Khu vực này có lượng mưa lớn trên 2.000mm, dẫn đến tình trạng lũ thường xuyên, với lũ lên nhanh và xuống cũng nhanh Thủy triều và độ mặn thường xâm thực vào cửa sông ngắn, đặc biệt bị chặn bởi các chân đập hoặc hạ lưu công trình vượt ngầm qua sông.
Hệ thống các hồ đập lớn ở Quảng Ninh
Quảng Ninh sở hữu một hệ thống hồ đập phong phú với khoảng 123 hồ khác nhau, trong đó có 14 hồ nước lớn đã được tỉnh quy hoạch.
Tỉnh Quảng Ninh sở hữu một số hồ đập quan trọng, bao gồm hồ Yên Lập với diện tích lưu vực 182,6 km² và dung tích 127,5 triệu m³, hồ Cao Vân có diện tích lưu vực 46,5 km² và dung tích 12,56 triệu m³, hồ Tràng Vinh với diện tích lưu vực 70,8 km² và dung tích 75 triệu m³, cùng hồ Quất Đông có diện tích lưu vực 11 km² và dung tích 10,3 triệu m³.
3.1.2 Phân bố lưu vực các vùng ĐNN nội địa ở Quảng Ninh
Phân vùng và phân khu là yếu tố then chốt trong việc đánh giá khả năng cấp nước hiện tại của hệ thống công trình Chúng đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng các sơ đồ nghiên cứu tính toán cấp nước phù hợp cho hiện tại và tương lai Ngoài ra, đây cũng là cơ sở để phát triển các phương án quy hoạch nguồn nước theo từng lĩnh vực, giúp quyết định chính xác cho các dự án đầu tư, nâng cấp và bổ sung mới.
8 đúng đắn và phù hợp
Bảng 1 Một số hồ chứa nước lớn ở Quảng Ninh
T Tên hồ chứa Địa phương
Thông số kỹ thuật chính Diện tich tướic(ha) Flv
1 Hồ Khe Chè Xã An Sinh 22,40 12 15,5 23,8 25,98 1.000 213
2 Hồ Bến Châu Xã Bình Khê 24,00 8 19,5 29,6 30,8 1.050 454
1 Hồ Yên Lập P Minh Thành 182,60 127,5 11,5 29,5 31,37 5.800 5.500
2 Hồ Yên Trung P Phương Đông 3,20 1,56 227 227
1 Hồ Khe Chính Xã Bằng Cá 4,70 1,49 47,5 60,4 62,72 170 100
2 Hồ An Biên Xã Lê Lợi 0,60 1,2 8,5 13 14,8 100 80
1 Hồ Sau Làng P Việt Hưng 1,20 0,8 100 50
3 Hồ Khe Cá P Hà Tu 2,40 1,6 100 66
1 Hồ Cao Vân Xã Dương Huy 52,00 11,8 23,5 33,2 36,2 SH
1 Hồ Đầm Hà Động Xã Quảng Lợi 68,500 12,3 47,5 60,7 62,69 3.850 3.850
2 Hồ Tân Bình Xã Tân Bình 0,60 0,6 60 40
1 Hồ Chúc Bài Sơn Xã Quảng Sơn 18,20 15 66,5 76,5 78,2 1.900 1.600
1 Hồ Quất Đông Xã Hải Đông 11,00 10 15,5 24,5 25,95 1.300 517
2 Hồ Tràng Vinh Xã Hải Tiến 70,80 86 15 24,2 25,3 1.800 200
Kế thừa quy hoạch các sông ven biển tỉnh Quảng Ninh, vùng quy hoạch được chia thành 4 vùng chính Các vùng này được phân loại dựa trên nguyên tắc phân vùng thủy lợi trong quy hoạch Để dễ dàng đánh giá nguồn nước và nhu cầu sử dụng, mỗi vùng thủy lợi được chia thành các tiểu khu, căn cứ vào điều kiện địa hình, kinh tế xã hội, thủy văn, nguồn nước, phân bố dân cư, cơ sở hạ tầng và tập tục canh tác của từng khu vực trong dự án.
Hình 2 Phạm vi quy hoạch các vùng a Vùng I: (Vùng Đông Triều - Uông Bí - Quảng Yên)
Vùng lưu vực Đá Bạc bao gồm các huyện Đông Triều, thị xã Quảng Yên và thành phố Uông Bí, với tổng diện tích tự nhiên đạt 96.595 ha, trong đó có 63.031 ha đất nông nghiệp và dân số khoảng 400.998 người Khu vực này có hệ thống sông suối chảy vào sông Đá Bạc, nằm ở phía tây Quảng Ninh Địa hình chủ yếu dốc theo hướng Đông Bắc - Tây Nam, là nơi phát triển mạnh mẽ cả nông - ngư nghiệp và công nghiệp.
Vùng này được chia thành 3 tiểu khu:
- Tiểu khu Đông Triều: gồm toàn bộ diện tích của huyện Đông Triều: 39.657 ha; có
2 sông trên 10km chảy qua là sông Đạm Thủy và sông Cầm đổ vào sông Đá Bạc
Tổng quan về đa dạng sinh học của tỉnh Quảng Ninh
3.2.1 Khái quát về tính đa dạng thành phần loài
Khu hệ động thực vật tại Quảng Ninh rất đa dạng với 4.350 loài sinh vật được ghi nhận, bao gồm 2.236 chi và 721 họ thuộc 19 ngành, trong đó có 3 giới: Động vật, Nấm và Thực vật.
Bảng 2 Tổng hợp về tính đa dạng các bậc phân loại và số loài động, thực vật đã biết tại tỉnh Quảng Ninh
TT Tên ngành/Lớp Số lượng
Lớp Hai mảnh vỏ - Bivalvia 34 74 127
Lớp Giun nhiều tơ - Polychaeta 17 35 51
Lớp Giun ít tơ - Oligochaeta 4 8 29
Lớp Côn trùng - Insecta (Gồm Kiến & Mối) 64 268 472
6 Ngành Có Dây sống (Chordata)
10 Ngành Vi khuẩn lam Cyano-phyta /-bacteria 5 10 18
13 Ngành Tảo vàng ánh Chrysophyta 1 1 2
Lớp Hai lá mầm - Dicotyledonae 132 605 1251 Lớp Một lá mầm - Monocotyledonae 40 172 329
Các ngành sinh vật có số loài phong phú nhất bao gồm Thực vật Hạt kín (Angiospermae) với 1.580 loài, Chân khớp (Arthropoda) với 722 loài, Thân mềm (Mollusca) với 438 loài, Ruột khoang (Coelenterata) với 157 loài và Tảo Silich (Bacillariophyta) với 153 loài Trên cạn, ngành Hạt kín phát triển mạnh mẽ nhờ sự đa dạng địa hình và phân hóa theo độ cao, trong khi các ngành Chân khớp và Thân mềm thích ứng tốt với các sinh cảnh chuyển tiếp.
Môi trường biển với các loài tảo và san hô (Ruột khoang) đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp tài nguyên, hình thành sinh cảnh và duy trì sự ổn định của môi trường Mỗi loài đều có những ưu thế riêng, góp phần vào sự đa dạng sinh học và sức khỏe của hệ sinh thái biển.
Có 182 loài (4,18%) trong số 4350 loài được ghi nhận là đặc hữu của tỉnh Quảng Ninh thuộc các bậc khác nhau (Bảng 3)
Bảng 3 Các thành phần đặc hữu trong hệ động thực vật Quảng Ninh
TT Tên Ngành / Lớp Tên Việt Nam Số loài đặc hữu
Ngành Chân khớp Lớp Giáp xác
3 Chordata - Písces Ngành Có dây sồng Lớp cá 5 2 3
3.2.2 Các loài nguy cấp trong hệ động thực vật ở Quảng Ninh
Các loài nguy cấp phản ánh rõ ràng sự xung đột giữa phát triển kinh tế và bảo tồn đa dạng sinh học, đồng thời chỉ ra sự suy thoái môi trường do con người gây ra Việc áp dụng ba công cụ xếp hạng nguy cấp, bao gồm Sách đỏ Việt Nam 2007, Nghị định 32/2006/NĐ-CP và Danh lục đỏ IUCN 2009, giúp đánh giá mức độ nguy cấp của các loài trong hệ động thực vật Quảng Ninh, từ đó cung cấp cái nhìn tổng quan về tình trạng bảo tồn tại khu vực này.
Trong số 4350 loài của hệ động thực vật Quảng Ninh ghi nhận được có tới
154 loài được ghi trong Sách đỏ VN (3,54%), 56 loài trong Nghị đinh 32/2006/NĐ-
CP, 72 loài trong Danh lục đỏ IUCN
Trong số 154 loài được ghi trong Sách đỏ Việt Nam, có đến 149 loài được xếp vào diện nguy cấp, chiếm 96,75% Chỉ có 3 loài ít nguy cấp và 2 loài thiếu dữ liệu để đánh giá Theo Danh lục đỏ của IUCN (2009), trong 72 loài được ghi, chỉ có 27 loài nguy cấp, chiếm 27,5%, trong khi 45 loài còn lại thuộc các loại ít nguy cấp hơn Cách tiếp cận này mang tính chất cảnh báo sớm về tình trạng bảo tồn các loài.
Sự quan tâm ngày càng tăng đối với sự ổn định của hệ sinh thái và môi trường đã dẫn đến những vấn đề nghiêm trọng, như tình trạng suy giảm quần thể cây họ Đước (Rhizophoraceae) tại các rừng ngập mặn Việc phá rừng ngập mặn để phát triển nuôi tôm đã khiến hàng nghìn hecta rừng bị triệt hạ, dẫn đến sự sụt giảm đáng kể về số lượng cá thể Mặc dù tình trạng này chưa được ghi nhận trong Sách đỏ Việt Nam, nhưng nhiều loài cây họ Đước đã được ghi nhận trong Danh lục đỏ IUCN với thứ hạng ít nguy cấp (LR).
Phần lớn các loài trong Sách đỏ Việt Nam, theo NĐ 32, đang phải đối mặt với sự khai thác quá mức vì lợi ích kinh tế của con người Điển hình là lớp Bò sát (Reptilia) với 65 loài được ghi nhận ở Quảng Ninh, trong đó có 18 loài nguy cấp (3CR+10EN+5VU), chiếm 27,69% Ngoài ra, các loài suy giảm do các nguy cơ khác như suy thoái môi trường và thay đổi mục đích sử dụng đất đai vẫn chưa được chú ý đầy đủ.
Nhiều loài cây trồng và vật nuôi truyền thống, dù có chất lượng cao và nguồn gen quý hiếm, đang bị loại bỏ do hiệu quả kinh tế thấp và sự thay đổi trong thị hiếu tiêu dùng Điều này nhấn mạnh sự cần thiết phải thúc đẩy công tác bảo tồn đa dạng sinh học nông nghiệp trên toàn quốc, đồng thời cần đưa các quy chế bảo vệ nguồn lợi thủy sản thành văn bản pháp quy cho các hoạt động bảo tồn một cách toàn diện, không chỉ giới hạn trong một lĩnh vực kinh tế chuyên ngành.
3.2.2.2 Các loài thực vật nguy cấp
Hệ thực vật Quảng Ninh rất đa dạng và phong phú nhờ vào sự đa dạng địa hình, khí hậu và các hệ sinh thái Theo thống kê, có 98 loài thực vật có giá trị bảo tồn được ghi nhận theo Danh lục đỏ Việt Nam, Sách đỏ IUCN và Nghị định 32/2006/NĐ-CP Trong số đó, 57 loài được đưa vào Sách đỏ Việt Nam (2007), bao gồm 2 loài rất nguy cấp (CR) là Ba gạc Bắc bộ và Vù hương, cùng với 22 loài nguy cấp (EN) và 33 loài sẽ nguy cấp (VU) Ngoài ra, 20 loài cũng được ghi trong Nghị định 32, phân loại vào các nhóm Ia và IIa.
Bảng 4 Bảng tổng hợp các loài nguy cấp trong hệ động, thực vật tỉnh Quảng Ninh
TT TÊN NGÀNH / LỚP Sách đỏ VN 2007 Nghị định 32/NĐ-CP
Danh lục đỏ IUCN (2009) Σ CR EN VU LR DD Σ Ib IIb Ia IIa Σ CR EN VU NT LR LC DD
Bảng 5 Giá trị bảo tồn của hệ thực vật Quảng Ninh
DLSĐ VN DLĐ IUCN NĐ 32/2006
Sắp bị đe dọa (NT) Ít nguy cấp/sắp bị đe dọa (LR/nt) Ít nguy cấp/ít lo ngại (LR/lc) Ít lo ngại (LC)
3.2.2.3 Các loài côn trùng có giá trị bảo tồn
Kết quả khảo sát thực địa cho thấy trong số 425 loài được ghi nhận tại 14 huyện của tỉnh Quảng Ninh, có 4 loài nằm trong danh sách đỏ Việt Nam (2007).
6 So với các vùng khác thì số loài không nhiều, nhưng tỷ lệ các loài quý, hiếm (theo Sách Đỏ VN) thì cao: ở Quảng Ninh 15,04%; trong khi ở toàn Việt Nam là 9,62 %
Bảng 6 Danh sách các loài côn trùng có trong Sách đỏ Việt Nam 2007
STT Tên Việt Nam Tên khoa học Mức độ bảo vệ Nơi thu mẫu
1 Bướm Phượng đuôi lá cải
(Oberthur) DD Đồng Sơn – Kỳ
(De Nice) VU Đồng Sơn – Kỳ Thượng (HB) Yên Tử (Uông Bí)
(Felder.) VU Đồng Sơn – Kỳ
(L Felder) VU Đồng Sơn – Kỳ
Saunders VU Đồng Sơn – Kỳ
Thượng (Hoành Bồ) VU: Sẽ nguy cấp
3.2.2.4 Các loài cá có giá trị bảo tồn
Trong nội địa có 4 loài cá nước ngọt có trong Sách đỏ VN, 2007
Cá chuối hoa (Channa maculata) được tìm thấy tại 8/12 huyện thị như Nam Sơn, Phong Dụ, Húc Đông, Đường Hoa, TT Đông Triều, Yên Công, Yên Hải và TT Hoành Bồ Với thịt thơm ngon, loài cá này trở thành đặc sản phổ biến trong các bữa tiệc, dẫn đến việc khai thác mạnh mẽ Tuy nhiên, hiện nay cá chuối hoa cũng đã được nuôi trồng, có thể xuất phát từ các cơ sở nuôi cá.
Cá mòi cờ hoa (Clupanodon thrissa) xuất hiện tại 6/12 huyện thị, bao gồm Đông Triều, Yên Hưng, Hạ Long, Cẩm Phả, Tiên Yên và Đầm Hà Loài cá này là loài di cư, sống chủ yếu ở biển nhưng lại di cư vào sông và có bãi đẻ ở các vùng nước ngọt sâu trong nội địa.
Cá lá giang (Parazacco vuquangensis) là một loài cá nước ngọt đặc hữu của Việt Nam, được phát hiện bởi Nguyễn Thái Tự Loài cá này đã được ghi nhận tại các khu vực như Đồng Sơn (Hoành Bồ), Diền Xá, Hà Lâu và Phong Dụ (Tiên Yên), cũng như ở Hà Tĩnh, sông Đà và Quảng Ninh.
Cá chình hoa (Anguilla marmorata) là một loài cá di cư, thường sống ở nước ngọt và phân bố chủ yếu tại các sông suối vùng cao, đặc biệt là ở Ba Chẽ Khi trưởng thành, chúng di cư ra biển sâu để sinh sản và sau đó chết, trong khi ấu trùng theo dòng nước biển trở lại đất liền Loài cá này có thịt thơm ngon, khiến chúng trở thành mục tiêu săn lùng Phạm vi phân bố của cá chình hoa rất rộng, từ các nước vùng biển Ấn Độ Dương đến Thái Bình Dương Tại Việt Nam, chúng được phát hiện từ sông Lam (Nghệ An) trở vào các tỉnh phía Nam, và gần đây còn được tìm thấy ở sông Mã (Thanh Hóa), Na Hang (Tuyên Quang) và Ba Chẽ (Quảng Ninh).
Có 5 loài cá nước ngọt mới chỉ gặp ở Việt Nam ( có thể là là loài đặc hữu Việt Nam):
Như ̃ng tồn ta ̣i và thách thức với bảo tồn đa da ̣ng sinh ho ̣c ở Quảng Ninh
Tại tỉnh Quảng Ninh, có tổng cộng 24 loài sinh vật được ghi nhận, trong đó TP Uông Bí có 14 loài, Huyện Yên Hưng có 172 loài, Huyện Hoành Bồ có 36 loài, TP Hạ Long có 85 loài, TX Cẩm Phả có 43 loài, Huyện Ba Chẽ có 31 loài, Huyện Tiên Yên có 229 loài, Huyện Bình Liêu có 31 loài, Huyện Đầm Hà có 118 loài, Huyện Hải Hà có 98 loài, TP Móng Cái có 68 loài và Quần đảo Ba Mùn cũng có 68 loài.
Phân bố của các loài theo độ mặn của nước được thể hiện rõ ràng: có 210 loài chỉ sống ở nước mặn, 133 loài tồn tại cả ở nước lợ và nước mặn, 83 loài phân bố ở cả nước ngọt, nước lợ và nước mặn, trong khi đó có 10 loài vừa xuất hiện ở nước ngọt vừa ở nước lợ.
Có 2 loài chỉ phân bố ở nước lợ; Có 80 loài chỉ phân bố ở nước ngọt; Còn 12 loài chưa xác định được môi trường sống
3.2.3.8 Hiện trạng đa dạng sinh học trong các hệ sinh thái nông nghiệp Ở Quảng Ninh, tuy nông nghiệp không phải là ngành kinh tế trọng điểm (chỉ chiếm 5% cơ cấu kinh tế toàn tỉnh) nhưng lại có vị trí, vai tr ̣ò r ất quan trọng trong phát triển kinh tế - Xă hội của tỉnh Ngành giải quyết đời sống cho hơn 53% dân số và việc làm cho hơn 60% lao động của tỉnh sống ở khu vực nông thôn Ngoài ra còn cung cấp khối lượng lớn các loại nông sản cho nhu cầu tiêu dùng thiết yếu của nhân dân ở khu vực thành thị, các khu công nghiệp, khách tham quan du lịch Sản xuất nông - lâm nghiệp - thủy sản góp phần khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của tỉnh về đất đai, khí hậu, con người, …
Trong lĩnh vực trồng trọt, bên cạnh các cây lương thực truyền thống như lúa (17 giống), ngô (8 giống), sắn (5 giống) và các cây có củ (21 giống), một số vùng sản xuất nông sản hàng hóa tập trung đã được hình thành.
Rau xanh với hơn 32 chủng loại trong số đó các loài bản địa có 12 giống được gieo trồng ở một số xă ngoại thành T.P Hạ Long, Ngoại thị T.X Cẩm Phả,…
Hoa với khoảng 43 chủng loại trong số đó các loài bản địa có 15 giống được gieo trồng ở một số xă ngoại thành T.P Hạ Long, ngoại thị T.X Cẩm Phả,…
3.3 Những tồn tại và thách thức với bảo tồn đa dạng sinh học ở Quảng Ninh
3.3.1 Nguyên nhân gây suy thoa ́ i đa dạng sinh học
Suy thoái và mất đa dạng sinh học ở Việt Nam, đặc biệt là tại Quảng Ninh, được gây ra bởi nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu tập trung vào hai nhóm chính.
Do thiên tai bao gồm: Cháy rừng, biến đổi khí hậu
Do các hoạt động của con người, trong đó bao gồm các nguyên nhân sâu xa và các nguyên nhân trực tiếp
Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này bao gồm tăng dân số, nghèo đói, chính sách kinh tế nông nghiệp, và tập quán du canh, du cư của các dân tộc ở miền Đông Đặc biệt, sự phát triển kinh tế và xã hội của các ngành và địa phương cũng góp phần vào vấn đề này.
Các nguyên nhân trực tiếp gây ra vấn đề môi trường bao gồm việc mở rộng đất nông nghiệp và nuôi trồng thủy hải sản, xây dựng hạ tầng kỹ thuật, khai thác gỗ, củi và các sản phẩm ngoài gỗ, cũng như tình trạng khai thác quá mức tài nguyên.
Các mối đe dọa chính đối với đa dạng sinh học (ĐDSH) tỉnh Quảng Ninh bao gồm việc khai thác huỷ diệt các loài động, thực vật hoang dã thông qua săn bắt và buôn bán, khai thác tài nguyên thiên nhiên và khoáng sản, cùng với ô nhiễm môi trường sống.
Việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất thiếu căn cứ khoa học và không chú trọng đến bảo vệ đa dạng sinh học trong quá trình mở rộng sản xuất nông nghiệp, cây công nghiệp, nuôi trồng thủy sản và phát triển cơ sở hạ tầng đang gây ra những hệ lụy nghiêm trọng.
Khai thác quá mức tài nguyên sinh vật, bao gồm việc khai thác trái phép gỗ và lâm sản, đánh bắt thủy hải sản bằng các phương pháp hủy diệt và không bền vững, cùng với săn bắt và buôn bán động vật hoang dã trái phép, đã gây ra những tác động nghiêm trọng đến môi trường Ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu và các tai biến thiên nhiên cũng ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến các hệ sinh thái, đặc biệt là những hệ sinh thái nhạy cảm tại vịnh Hạ Long và vịnh Bái Tử Long.
Sức ép từ gia tăng dân số trong 5 năm qua và những năm tiếp theo Kèm theo đó là tỷ lệ đói nghèo ở một số nơi còn cao
Mức tiêu thụ tài nguyên thiên nhiên ngày càng nhiều để đáp ứng cho phát triển các ngành kinh tế, dịch vụ và quy mô dân số
Quản lý đa dạng sinh học (ĐDSH) đang gặp nhiều khó khăn, với hệ thống cơ quan nhà nước chưa đủ mạnh và các quy định pháp luật thiếu tính hệ thống, không đồng bộ Ngoài ra, quy hoạch phát triển ĐDSH bền vững vẫn chưa được xây dựng, trong khi đầu tư cho công tác bảo tồn còn nhiều hạn chế.
Sự du nhập các giống mới và loài ngoại lai, bao gồm giống thủy sản và cây trồng, đã gây ra những tác động tiêu cực đến hệ sinh thái Các loài xâm hại như cây mai dương (trinh nữ đầm lầy) và ốc bươu vàng đã trở thành mối đe dọa nghiêm trọng, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của môi trường tự nhiên.
Sự tham gia của cộng đồng vào công tác bảo tồn ĐDSH chưa được huy động đúng mức
3.3.2 Như ̃ng tồn tại và thách thức trong quản lý, bảo tồn đa dạng sinh học tỉnh Quảng Ninh
3.3.2.1 Cơ cấu tổ chức về qua ̉ n lý, bảo tồn đa dạng sinh học
Luật Đa dạng sinh học ra đời vào tháng 12/2008 đã chính thức khẳng định bộ máy tổ chức quản lý và bảo tồn đa dạng sinh học, tạo điều kiện cho các cấp trung ương và địa phương củng cố tổ chức phù hợp với chức năng và nhiệm vụ Theo luật này, Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm trước chính phủ trong việc thực hiện quản lý nhà nước về đa dạng sinh học, trong khi các bộ, ngành khác thực hiện quản lý theo phạm vi nhiệm vụ và sự phân công của Chính phủ.
Ở cấp trung ương, nhiệm vụ quản lý nhà nước về bảo tồn đa dạng sinh học hiện đang được giao chủ yếu cho hai bộ, đó là Bộ Tài nguyên và Môi trường cùng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Đa dạng sinh học là một phần quan trọng của môi trường, vì vậy nhiều bộ ngành khác cũng tham gia vào công tác tham mưu về bảo vệ đa dạng sinh học.
Tất cả các tỉnh thành đã thành lập Sở Tài nguyên và Môi trường, trong đó một số sở đã hình thành các đơn vị theo dõi hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học (ĐDSH), chủ yếu theo chế độ kiêm nhiệm, và một số địa phương có cán bộ chuyên trách Ở cấp huyện, cán bộ quản lý môi trường thuộc Phòng Tài nguyên và Môi trường theo dõi một số công tác bảo tồn như là nhiệm vụ bảo vệ môi trường.
Phân tích và đánh giá các dịch vụ hệ sinh thái đất ngập nước nội địa ở Quảng Ninh
Quảng Ninh có tổng diện tích tự nhiên là 610.235,31 ha, trong đó đất nông nghiệp chiếm 460.119,34 ha, tương đương 75,4% Diện tích đất trồng lúa nước đạt 28.530,51 ha, chiếm 6,2% tổng diện tích đất nông nghiệp, và đất nuôi trồng thủy sản là 20.806,61 ha, chiếm 4,52% Các huyện Quảng Yên, Móng Cái, Tiên Yên, Uông Bí và thành phố Hạ Long là những khu vực tập trung nhiều nhất đất nuôi trồng thủy sản.
Hệ thống sông ở Quảng Ninh rất đa dạng, bao gồm 4 sông lớn: sông Đá Bạc, sông Ka Long, sông Tiên Yên, và sông Ba Chẽ, cùng với 11 sông nhỏ có chiều dài từ 15 - 35 km và diện tích lưu vực dưới 300 km² Các sông tại đây có đặc điểm chung là độ dài ngắn, độ dốc lớn, nhiều ghềnh thác, và trắc diện hẹp Cửa sông thường mở rộng, tạo thành các vùng vịnh hình phễu Với lượng mưa lớn trên 2.000 mm, khu vực này thường xuyên xảy ra lũ lụt.
30 thất thường, có đặc điểm lũ lên nhanh và xuống cũng nhanh
Tỉnh Quảng Ninh sở hữu một số hồ đập quan trọng, bao gồm: Hồ Yên Lập với diện tích lưu vực 182,6 km² và dung tích 127,5 triệu m³; hồ Cao Vân có diện tích lưu vực 46,5 km² và dung tích 12,56 triệu m³; hồ Tràng Vinh với diện tích lưu vực 70,8 km² và dung tích 75 triệu m³; và hồ Quất Đông có diện tích lưu vực 11 km² và dung tích 10,3 triệu m³ (Sở Tài nguyên và Môi trường, 2012).
Các sông ven biển tỉnh Quảng Ninh được chia thành 4 vùng chính: Vùng I, lưu vực sông Đá Bạc, bao gồm Đông Triều, Quảng Yên và Uông Bí, với diện tích 96.595 ha, trong đó 63.031 ha là đất nông nghiệp Vùng II, lưu vực các sông Yên Lập, Mằn, Trới, Diễn Vọng, gồm Hoành Bồ, Hạ Long, Cẩm Phả và một phần Vân Đồn, có tổng diện tích 175.877 ha, trong đó 115.617 ha là đất nông nghiệp Vùng III, lưu vực các sông Ba Chẽ, Tiên Yên, gồm Ba Chẽ, Tiên Yên và Bình Liêu, với diện tích 172.412 ha, trong đó 87.199 ha là đất nông nghiệp Cuối cùng, Vùng IV, lưu vực các sông Đầm Hà, Hà Cối, Tín Coóng và Ka Long, bao gồm Đầm Hà, Hải Hà và Móng Cái, có diện tích 134.255 ha, trong đó 100.745 ha là đất nông nghiệp.
Đất ngập nước đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản và các ngành công nghiệp khác, góp phần đảm bảo sự sống cho con người Mặc dù nông nghiệp chỉ chiếm 5% trong cơ cấu kinh tế của tỉnh Quảng Ninh, nhưng nó vẫn có vị trí quan trọng trong đời sống và kinh tế xã hội của người dân địa phương Nghiên cứu cho thấy 100% người được phỏng vấn đều nhận thức rõ về lợi ích và giá trị của đất ngập nước đối với sinh kế của họ.
Giá trị cung cấp của đất ngập nước nội địa ở Quảng Ninh chủ yếu thể hiện qua khả năng dự trữ và cung cấp nước của hệ thống sông hồ Trong mùa khô năm 2015, 23 hồ đập trong khu vực đã trữ khoảng 211,260 triệu m³ nước, đáp ứng nhu cầu cho các ngành sản xuất, đặc biệt là nông nghiệp và sinh hoạt Chẳng hạn, hồ Yên Lập có khả năng cung cấp nước tưới cho hơn 8.300 ha đất nông nghiệp và 1.500 ha diện tích nuôi trồng thủy sản, đồng thời cung cấp 33 triệu m³ nước sinh hoạt và công nghiệp cho các huyện lân cận.
Hà Động cung cấp nước tưới cho 3.485 ha đất nông nghiệp và nước sinh hoạt cho hơn 25.000 dân ở huyện Đầm Hà Đồng thời, các sông Tiên Yên và Ba Chẽ cũng cung cấp nước tưới cho khoảng 6.867 ha đất canh tác và đáp ứng nhu cầu nước sinh hoạt cho người dân.
Hệ thống đất ngập nước nội địa ở Quảng Ninh đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp lương thực thực phẩm Mặc dù diện tích đất trồng lúa nước có hạn, nhưng giá trị của nó đối với an ninh lương thực là không thể thay thế.
Tỉnh Quảng Ninh có diện tích đất nông nghiệp chỉ chiếm 6,2% tổng diện tích, nhưng nông nghiệp là nguồn sống chính cho hơn 53% dân số và tạo việc làm cho hơn 60% lao động Các vùng đất ngập nước cung cấp nhiều nông sản cho nhu cầu tiêu dùng tại các khu vực đô thị và công nghiệp Nhờ vào nguồn nước tưới chủ động, sản lượng lương thực của tỉnh đã tăng nhanh chóng Cụ thể, từ khi có nước tưới từ hồ Yên Lập, sản lượng lương thực của huyện Yên Hưng đã tăng từ 10.730 tấn năm 1981 lên 16.775 tấn năm 1983, với dự báo đạt 28.163 tấn vào năm 2016 Tổng sản lượng lương thực của Quảng Ninh đạt khoảng 233.732 tấn năm 2015, đủ khả năng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong tỉnh.
Quảng Ninh sở hữu tiềm năng nuôi trồng thủy sản đáng kể với tổng diện tích 12.968,7 ha ao hồ, đầm, và ruộng trũng, cho phép phát triển các loại thủy sản có giá trị kinh tế cao Các địa phương nổi bật với diện tích nuôi trồng lớn bao gồm thị xã Quảng Yên 8.200 ha, huyện Vân Đồn 4.300 ha, thành phố Móng Cái 3.800 ha, huyện Đầm Hà 2.800 ha, huyện Hải Hà 2.400 ha, huyện Tiên Yên 2.000 ha, thành phố Uông Bí 1.500 ha, và huyện Đông Triều 1.000 ha.
Nguồn lợi thủy sản ở tỉnh Quảng Ninh chủ yếu bao gồm các loài cá truyền thống như cá trắm, cá mè, cá trôi và cá chép Sản lượng nuôi thủy sản nước ngọt đã tăng nhanh từ 6.210 tấn năm 2008 lên 6.276 tấn năm 2010 và 7.656 tấn năm 2012, dự kiến đạt 10.819 tấn vào năm 2020 Năng suất nuôi cá rô phi thâm canh cũng gia tăng từ 6-7 tấn/ha/vụ năm 2008 lên 8-10 tấn/ha/vụ năm 2012, với một số mô hình đạt năng suất cao 12-13 tấn/ha/vụ tại Quảng Yên và Uông Bí Đến năm 2015, tổng diện tích nuôi thủy sản đạt 20.667 ha, trong đó diện tích nuôi thâm canh là 2.034 ha Tổng sản lượng thủy sản năm 2015 ước đạt 103.407 tấn, bao gồm 57.120 tấn từ khai thác và 46.287 tấn từ nuôi trồng.
Nuôi trồng thủy sản nước ngọt đã tạo ra việc làm và thu nhập cho khoảng 5,5-5,7 nghìn người trong giai đoạn 2008-2015, và dự báo sẽ tăng lên 5,9 nghìn người vào năm 2020.
Dịch vụ điều tiết của các vùng đất ngập nước đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa khí hậu, giảm thiểu lũ lụt và cung cấp nước ngầm Theo khảo sát, 65% người tham gia cho rằng đất ngập nước sông, hồ có tác dụng tích cực trong việc hạn chế lũ lụt và xói mòn đất.
Sông, hồ có tác dụng như những bể chứa nước khi mưa lớn, sau đó nước ngấm
Quảng Ninh sở hữu trữ lượng nước ngầm đáng kể, với huyện Tiên Yên có khả năng cung cấp khoảng 93.000 m³/ngày và huyện Đầm Hà khoảng 53.420 m³/ngày Tổng trữ lượng nước ngầm của tỉnh ước tính đạt 1.520.600 m³/ngày, trong đó tầng chứa nước bở rời đệ tứ chủ yếu tập trung ở Đông Triều, Uông Bí và Móng Cái với khoảng 362.760 m³/ngày, trong khi các tầng chứa nước khe nứt đạt khoảng 1.157.840 m³/ngày Tuy nhiên, do địa hình phức tạp và sự phân bố không đồng đều của các tầng chứa nước, việc khai thác nguồn nước ngầm này gặp nhiều khó khăn (Sở Tài nguyên và Môi trường, 2012).
Trong các hệ sinh thái, dịch vụ cung cấp đóng vai trò quan trọng đối với sinh kế của người dân, trong khi các dịch vụ hỗ trợ giữ vai trò gián tiếp nhưng cần thiết cho việc duy trì và ổn định các vùng đất ngập nước Các dịch vụ hỗ trợ tạo ra môi trường sống và điều kiện cho các dịch vụ cung cấp tồn tại Với môi trường thuận lợi và nguồn thức ăn phong phú từ sinh vật phù du, các vùng đất ngập nước nội địa ở Quảng Ninh không chỉ là nơi cư trú và kiếm ăn của các loài sinh vật, mà còn góp phần vào năng suất sơ cấp, hình thành đất, và quay vòng chất dinh dưỡng, đồng thời bảo tồn sự đa dạng sinh học, đặc biệt là các loài động thực vật nổi và cá quý hiếm.
Vai trò của ĐNN nội địa với sinh kế của người dân
Theo Đánh giá HST thiên niên kỷ, dịch vụ hệ sinh thái (HST) bao gồm những lợi ích mà con người nhận được từ các HST, bao gồm dịch vụ cung cấp, dịch vụ điều tiết, dịch vụ hỗ trợ và dịch vụ văn hóa (Millennium Ecosystem Assessment, 2005).
Nhiều nhà nghiên cứu khẳng định rằng có mối liên hệ chặt chẽ giữa hệ sinh thái (HST) và phúc lợi của con người Con người phụ thuộc vào HST qua các dịch vụ đa dạng như: (i) dịch vụ cung cấp, bao gồm bãi đẻ, vật liệu, cây thuốc, thực phẩm và nước; (ii) dịch vụ điều tiết, giúp kiểm soát lũ lụt, hạn hán, chống xói mòn đất, điều hòa nguồn nước và dịch bệnh; (iii) dịch vụ văn hóa-tinh thần, mang lại giá trị du lịch, giải trí, nghỉ dưỡng, nghiên cứu, giáo dục, tôn giáo, nghệ thuật và các lợi ích phi vật chất khác; và (iv) dịch vụ hỗ trợ, bao gồm hình thành đất, duy trì chu trình dinh dưỡng, chu trình sinh địa hóa và dòng năng lượng.
Con người ảnh hưởng đến hệ sinh thái qua các hoạt động sinh kế trực tiếp và phát triển kinh tế - xã hội, dẫn đến suy thoái hệ sinh thái và đa dạng sinh học Sự tương tác giữa con người và hệ sinh thái thay đổi và bị tác động bởi các cấp địa phương, quốc gia và quốc tế.
Các hoạt động của con người đang gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến cấu trúc và chức năng của các hệ sinh thái (HST) trên toàn cầu Những tác động này bao gồm khai thác rừng, chuyển đổi đất cho các hoạt động phát triển, xây dựng cơ sở hạ tầng, đốt nhiên liệu hóa thạch, suy thoái đất, xáo trộn chế độ dòng chảy và ô nhiễm nguồn nước, cũng như làm tăng nồng độ khí nhà kính trong khí quyển Những ảnh hưởng này không chỉ tác động tiêu cực đến sức khỏe và phúc lợi của con người mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế tại các địa phương.
Hình 4 Mối liên quan giữa hệ thống tự nhiên (các dịch vụ hệ sinh thái) và hệ thống xã hội (quản lý và sử dụng)
(Nguồn: Hassan R.M., R.Scholes, N.Ash (Eds), 2005; Millennium Ecosystem Asessment: Current State and Trends Asessment, Insland Press)
Kết quả khảo sát 60 hộ dân quanh 4 hồ nước ở Quảng Ninh cho thấy hầu hết người dân liên quan đến các vùng đất ngập nước (ĐNN) nhưng chưa hiểu rõ về khái niệm và loại hình ĐNN Cụ thể, 61% người dân chưa từng nghe về ĐNN, mặc dù 100% có liên quan đến chúng Đáng chú ý, 94% cho rằng tài nguyên ĐNN được sử dụng để trồng lúa, và 67% sử dụng nước từ hồ ao cho sinh hoạt Các nguyên nhân suy thoái ĐNN chủ yếu do tự nhiên (56%) và sản xuất nông nghiệp (50%) Hơn nữa, 83% người dân cảm thấy chưa có nhận thức đầy đủ về ĐNN, và 72% cho rằng quản lý yếu kém ở cấp xã là vấn đề Do đó, 89% mong muốn tham gia các buổi đào tạo về ĐNN, và 83% cho rằng nâng cao nhận thức cộng đồng là giải pháp quan trọng để bảo vệ các vùng ĐNN.
36 cầu về các giải pháp kết hợp phát triển kinh tế và xã hội với bảo vệ môi trường trong việc sử dụng các vùng đất ngập nước (Bảng 7)
Bảng 7 Kết quả khảo sát về vai trò của ĐNN đối với sinh kế người dân
% số người được hỏi Phân loại ĐNN
Chưa từng nghe nói về ĐNN
61 Vấn đề quản lý Người dân chưa nhận thức được vấn đề
Loại hình ĐNN là ao hồ 61 Vai trò quản lý ĐNN thuộc về cấp xã
Loại hình ĐNN là ao hồ 44 Quản lý yếu kém 44
Vai trò của ĐNN ĐNN liên quan đến sinh kế
100 Vai trò quản lý ĐNN thuộc về
Sử dụng nước tưới tiêu 100 Nhu cầu đào tạo, tập huấn
Có nhu cấu được tập huấn, đào tạo
Trồng lúa nước 94 Truyền thông, hội họp 78
Sử dụng nước sinh hoạt 67 Trên TV, đài phát thanh 61 Cung cấp lương thực thực phẩm
Bảo vệ nguồn nước 50 Thông qua cộng đồng 50
Nuôi trồng thủy sản 50 Thông tin cần được cung cấp
Vai trò của các vùng ĐNN 67
Bảo tồn ĐDSH 44 Phương pháp khai thác, bảo vệ ĐNN
Cung cấp gỗ củi 33 Các nguyên nhân và hành vi làm suy thoái ĐNN
44 Điều hòa khí hậu 33 Quyền tiếp cận ĐNN
Suy giảm tài nguyên ĐNN
Nguyên nhân suy thoái ĐNN do bão lũ
56 Chỉ những người được cấp phép
Nguyên nhân suy thoái ĐNN do sản xuất nông nghiệp
Nguyên nhân suy thoái ĐNN do ô nhiễm nước
44 Giải pháp quản lý các vùng ĐNN
Nâng cao nhận thức cộng đồng 83
Diện tích thu hẹp 28 Phát triển kinh tế - xã hội gắn liền với bảo vệ ĐNN
Lượng cá tôm giảm 22 Tăng cường năng lực cán bộ quản lý
Các giá trị dịch vụ sinh thái tại các vùng ĐNN nội địa ở Quảng Ninh đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp điều kiện sống và sinh kế cho người dân địa phương Đặc biệt, những giá trị này bao gồm cung cấp lương thực thực phẩm, nguồn nước sinh hoạt, nước cho sản xuất, cùng với các dịch vụ khác như du lịch, cảnh quan và bảo vệ môi trường.
Từ những phân tích ở trên cho thấy các vùng ĐNN nội địa có vai trò rất quan trọng trong
Người dân Quảng Ninh phụ thuộc vào các nguồn tài nguyên từ các vùng ĐNN, nhưng hiểu biết của họ về vai trò và phương pháp khai thác bền vững còn hạn chế Việc nâng cao nhận thức về cách sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên này là cần thiết để đảm bảo sự phát triển bền vững cho cộng đồng.
Quảng Ninh sở hữu 19 hệ sinh thái chính cùng nhiều hệ sinh thái độc đáo, tạo nên sự đa dạng sinh học phong phú và là nguồn tài nguyên quý giá cho phát triển kinh tế xã hội bền vững Để bảo tồn và phát huy giá trị này, cần có kế hoạch hành động hoàn chỉnh theo hướng phát triển bền vững Thời gian qua, Quảng Ninh đã nỗ lực bảo vệ đa dạng sinh học, đặc biệt tại các vùng đa dạng sinh học ven biển như Vịnh Hạ Long và VQG Bái Tử Long Tuy nhiên, nhiều khu vực có giá trị bảo tồn cao như Ngàn Chi – Bình Liêu, khu vực giáp ranh giữa Bình Liêu – Tiên Yên, và các khu vực Quảng An, Quảng Lâm của Đầm Hà vẫn chưa được đưa vào hệ thống các khu bảo tồn thiên nhiên của tỉnh và cả nước.
Môi trường và đa dạng sinh học tại Quảng Ninh đang đối mặt với tình trạng ô nhiễm và suy giảm nghiêm trọng do nhiều nguyên nhân, bao gồm quản lý kém, thực thi pháp luật không hiệu quả, và sự thiếu hiểu biết cũng như tham gia của cộng đồng Sự phát triển kinh tế chưa cân bằng với bảo vệ môi trường và khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách hủy diệt cũng góp phần vào vấn đề này Để bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển bền vững, việc xây dựng và thực hiện kế hoạch hành động cho đa dạng sinh học ở Quảng Ninh là vô cùng cần thiết, đòi hỏi sự đồng lòng từ lãnh đạo tỉnh, các địa phương, và toàn thể nhân dân.