GIỚI THIỆU
Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, Đông Nam Á đã trở thành điểm sáng của nền kinh tế toàn cầu với tốc độ tăng trưởng nhanh, chiếm 3.5% GDP toàn cầu vào năm 2018 và đạt mức GDP danh nghĩa 3 nghìn tỷ USD Tuy nhiên, khu vực này cũng đối mặt với những bất ổn tiềm ẩn như giá hàng hóa và lương thực tăng, dẫn đến nguy cơ lạm phát có thể gia tăng, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế Theo dữ liệu của World Bank, lạm phát tại Đông Nam Á trong giai đoạn 2010-2018 dao động từ -0.5% đến 6.4%, với Việt Nam ghi nhận mức giảm lạm phát từ 8.9% xuống 3.5% Myanmar có tỷ lệ lạm phát cao nhất, đạt đỉnh 57.1% vào năm 2002 Mặc dù các quốc gia trong khu vực ủng hộ một mức lạm phát nhất định để phát triển kinh tế, việc xác định mức lạm phát chấp nhận được và nghiên cứu tác động của nó đến tăng trưởng kinh tế là rất quan trọng, đặc biệt đối với Việt Nam Nghiên cứu này sẽ đề xuất các chính sách nhằm nâng cao khả năng kiểm soát lạm phát để hướng tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế.
Mục tiêu của đề tài
Mục tiêu tổng quát của nghiên cứu này là phân tích tác động của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia Đông Nam Á, đồng thời ước lượng ngưỡng lạm phát tối ưu cho từng quốc gia Từ những kết quả này, bài viết sẽ đưa ra các hàm ý chính sách nhằm hỗ trợ sự phát triển kinh tế bền vững cho Việt Nam.
Thứ nhất, phân tích tác động của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia Đông Nam Á
Thứ hai, xác định ngƣỡng lạm phát tối ƣu của các quốc gia Đông Nam Á
Để nâng cao năng lực kiểm soát lạm phát và đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế, Việt Nam cần xem xét một số hàm ý chính sách quan trọng Các biện pháp này bao gồm cải thiện quản lý tài chính công, thúc đẩy sản xuất trong nước, và tăng cường hợp tác quốc tế để ổn định giá cả Đồng thời, việc áp dụng các công cụ kinh tế vĩ mô hợp lý sẽ giúp kiểm soát lạm phát hiệu quả hơn, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
Câu hỏi nghiên cứu
Sau khi xác định mục tiêu nghiên cứu thì câu hỏi nghiên cứu đặt ra:
Lạm phát có tác động đáng kể đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia Đông Nam Á, ảnh hưởng đến sức mua của người tiêu dùng và chi phí sản xuất Khi lạm phát tăng cao, nó có thể dẫn đến sự giảm sút trong đầu tư và tiêu dùng, từ đó làm chậm lại tốc độ phát triển kinh tế Các quốc gia trong khu vực cần quản lý lạm phát một cách hiệu quả để duy trì sự ổn định và thúc đẩy tăng trưởng bền vững.
Ngưỡng lạm phát tối ưu của các quốc gia Đông Nam Á là một vấn đề quan trọng cần được nghiên cứu kỹ lưỡng Bên cạnh đó, Việt Nam cũng có thể rút ra nhiều hàm ý chính sách từ những nghiên cứu này để điều chỉnh chiến lược kinh tế phù hợp, nhằm đảm bảo sự ổn định và phát triển bền vững.
Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu này tập trung vào mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế, đồng thời xem xét tác động của lạm phát đến sự phát triển kinh tế Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng bổ sung các yếu tố ảnh hưởng khác đến tăng trưởng kinh tế, bao gồm tốc độ tăng trưởng dân số (POP), đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và cung tiền (MS).
Nghiên cứu này tập trung vào 9 quốc gia Đông Nam Á trong tổng số 11 quốc gia, diễn ra từ năm 2001 đến 2018 Quốc gia Đông Timor bị loại trừ do mới thành lập vào năm 2002, trong khi Lào không được đưa vào nghiên cứu vì thiếu thông tin dữ liệu đầy đủ.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu này áp dụng phương pháp nghiên cứu định lượng, sử dụng kỹ thuật phân tích hồi quy dữ liệu bảng với các mô hình như mô hình dữ liệu gộp (Pooled Constant Effect Model), mô hình tác động thời gian cố định (Fixed Effect Model - FEM) và mô hình tác động ngẫu nhiên (Random Effect Model - REM) Ngoài ra, nghiên cứu cũng tiến hành phân tích mô hình hồi quy biến giả bình phương tối thiểu thông qua phương pháp ước lượng bình phương bé nhất (OLS) và mô hình hồi quy ngưỡng của Hansen (1999) bằng phương pháp ước lượng mô hình ngưỡng (Panel Threshold Regression - PTR).
Nghiên cứu sử dụng dữ liệu từ năm 2001 đến 2018, bao gồm 9 quốc gia Đông Nam Á với tổng số 162 quan sát Các quốc gia này được chọn do đều là thành viên của ASEAN, cùng hướng đến mục tiêu ổn định lạm phát và phát triển kinh tế Theo IMF năm 2015, các quốc gia Đông Nam Á chủ yếu là các nước đang phát triển, thường đối mặt với biến động lạm phát do chưa khai thác hết tiềm năng sản xuất, với ngưỡng lạm phát cao hơn so với các nước phát triển Do đó, tác giả quyết định chọn các quốc gia Đông Nam Á làm mẫu nghiên cứu Dữ liệu nghiên cứu được lấy từ bộ cơ sở dữ liệu Key Indicators for Asia and the Pacific của ADB, WB và IMF, với đơn vị tính là %.
Nội dung nghiên cứu
Khi nền kinh tế trải qua lạm phát cao, điều này làm sai lệch tín hiệu giá và ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả kinh tế, dẫn đến việc tiêu dùng nguồn lực để đối phó với biến động tiền tệ thay vì đầu tư và tiêu dùng Ngược lại, lạm phát ở mức vừa phải có thể kích thích đầu tư và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Nghiên cứu này phân tích tác động của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia Đông Nam Á, đồng thời xem xét các yếu tố như tốc độ tăng trưởng dân số (POP), đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và cung tiền (MS) qua mô hình hồi quy tuyến tính Tác giả cũng giải thích sự khác biệt về tăng trưởng giữa Việt Nam và các nước Đông Nam Á, xác định ngưỡng lạm phát tối ưu bằng phương pháp hồi quy ngưỡng PTR của Hansen (1999) Dựa trên kết quả nghiên cứu, tác giả đưa ra khuyến nghị nhằm nâng cao khả năng kiểm soát lạm phát cho các quốc gia Đông Nam Á và Việt Nam, đồng thời đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo để khắc phục những hạn chế hiện tại.
Đóng góp của đề tài
Nghiên cứu này khác biệt với các nghiên cứu trong nước khi không chỉ phân tích định tính mà còn kiểm định tác động của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia Đông Nam Á, xác định ngưỡng lạm phát tối ưu và đưa ra khuyến nghị chính sách cho Việt Nam Bên cạnh việc đánh giá ảnh hưởng của các biến số kinh tế vĩ mô khác đến tăng trưởng, nghiên cứu cung cấp cơ sở cho các nghiên cứu tiếp theo và góp phần hoàn thiện chính sách kinh tế vĩ mô cũng như chính sách tiền tệ của Việt Nam Qua việc tổng hợp các mô hình phân tích và lý thuyết liên quan, nghiên cứu giúp làm rõ mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế, từ đó hỗ trợ cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
Kết cấu nghiên cứu
Ngoài phần tóm tắt, giới thiệu và tài liệu tham khảo của luận văn, nội dung chính của luận văn bao gồm 5 chương:
Chương này trình bày các nội dung chính bao gồm lý do thực hiện nghiên cứu, các câu hỏi và mục tiêu nghiên cứu, phạm vi cũng như đối tượng nghiên cứu, và phương pháp nghiên cứu được áp dụng.
Chương 2 Cơ sở lý thuyết về tác động của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế
Chương này trình bày các nền tảng lý thuyết về lạm phát và tăng trưởng kinh tế, cùng với tác động của lạm phát đến tăng trưởng và các biến số kinh tế vĩ mô khác Ngoài ra, chương cũng giới thiệu một số nghiên cứu trước đây và so sánh sự khác biệt trong đề tài nghiên cứu của tác giả với các nghiên cứu đã được thực hiện trước đó.
Chương 3 Phương pháp nghiên cứu nhằm phân tích tác động của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế các nước Đông Nam Á
Chương này trình bày quy trình thực hiện nghiên cứu và phân tích dữ liệu nhằm xác định mô hình tối ưu cho nghiên cứu.
Chương 4 Kết quả nghiên cứu và thảo luận tác động của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế các nước Đông Nam Á
Chương này trình bày kết quả mô hình nghiên cứu, bao gồm thống kê mô tả và phân tích tương quan, nhằm kiểm định khuyết tật của mô hình để xác định kết quả cuối cùng.
Chương 5 Kết luận và khuyến nghị cho Việt Nam nhằm nâng cao năng lực kiểm soát lạm phát và hướng đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế
Chương này tác giả đưa ra những khuyến nghị cho Việt Nam nhằm kiểm soát lạm phát và hướng đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ TÁC ĐỘNG CỦA LẠM PHÁT ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
Lạm phát
2.1.1 Khái niệm về lạm phát
Lạm phát là sự gia tăng liên tục mức giá chung trong nền kinh tế, dẫn đến giảm sức mua của đồng tiền (Lipsey và Chrystal, 1995) Nghiên cứu cho thấy chỉ một số ít người hiểu rõ các yếu tố quyết định và tác động của lạm phát lên tăng trưởng kinh tế Samuelson và Nordhaus (1997) định nghĩa lạm phát là sự tăng lên trong mức giá chung, với tỷ lệ lạm phát phản ánh tỷ lệ thay đổi của mức giá này Họ cũng đề xuất ba phương pháp tính tỷ lệ lạm phát, bao gồm chỉ số giá tiêu dùng (CPI), chỉ số giá sản xuất (PPI) và chỉ số giảm phát tổng sản phẩm quốc nội (PGDP).
Friedman (1997) khẳng định rằng lạm phát là một hiện tượng tiền tệ, và quan điểm này được nhiều nhà kinh tế học trên thế giới đồng thuận Ông cho rằng lạm phát xảy ra khi cung tiền tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế Do đó, lạm phát luôn là kết quả của sự gia tăng số lượng tiền so với sự gia tăng hàng hóa trong nền kinh tế.
Lạm phát được hiểu là hiện tượng gia tăng liên tục và bền vững của mức giá chung trong một khoảng thời gian nhất định, mà không đi kèm với sự gia tăng trong sản xuất hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế Các nhà kinh tế đều đồng ý rằng mức giá chung này phản ánh giá trung bình của nhiều loại hàng hóa.
Lạm phát là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến đời sống kinh tế và xã hội, do đó, quản lý giá cả và kiểm soát lạm phát là nhiệm vụ thiết yếu của mọi quốc gia Ngược lại, giảm phát xảy ra khi mức giá trung bình giảm do lượng tiền tệ trong lưu thông sụt giảm, thường xuất hiện trong thời kỳ kinh tế suy thoái Giảm phát làm giảm chi tiêu của người tiêu dùng, dẫn đến tình trạng hàng hóa không tăng và gia tăng thất nghiệp Từ đó, có thể thấy rằng các hành vi tài chính trong hoạt động kinh tế xã hội rất nhạy cảm với biến động giá cả Trong nghiên cứu này, tác giả sẽ chỉ tập trung vào lạm phát.
2.1.2 Cách tính tỷ lệ lạm phát
Lê Thị Tuyết Hoa và cộng sự (2017) cho rằng mức độ lạm phát được thể hiện qua phương pháp chỉ số, phản ánh sự biến động của giá hàng hóa trong nền kinh tế Các phương pháp chỉ số quan trọng bao gồm chỉ số giá tiêu dùng (CPI), chỉ số giá sản xuất (PPI) và chỉ số giảm phát tổng sản phẩm quốc nội (PGDP).
Chỉ số giá cả hàng hóa tiêu dùng (CPI):
Chỉ số giá cả hàng hóa tiêu dùng (CPI) là chỉ số phần trăm phản ánh mức giá bình quân của hàng hóa tiêu dùng trong một khoảng thời gian nhất định CPI được tính dựa trên một rổ hàng hóa và dịch vụ tiêu biểu trong cơ cấu tiêu dùng của công chúng, cho phép so sánh giá bình quân hiện tại với giá ở kỳ gốc Đây là chỉ số phổ biến, thường được sử dụng để theo dõi sự biến động giá cả trong nền kinh tế.
: đơn giá của sản phẩm loại i trong năm t
: đơn giá của sản phẩm loại i trong năm gốc
: khối lƣợng của sản phẩm loại i trong năm gốc
Từ công thức tính chỉ số giá cả hàng hóa tiêu dùng CPI, tỷ lệ lạm phát đƣợc tính theo công thức sau:
INFt: tỷ lệ lạm phát năm t
CPIt: chỉ số CPI năm t
Chỉ số CPI năm t-1 (CPIt-1) là công cụ quan trọng để đo lường lạm phát, cho phép đánh giá tác động đến thu nhập và đời sống của người tiêu dùng thông qua tỷ lệ lạm phát Tuy nhiên, chỉ số này có nhược điểm là không phản ánh đầy đủ biến động giá cả hàng hóa do được xác định dựa trên một rổ hàng hóa cố định và sản lượng hàng hóa của năm gốc Điều này cũng dẫn đến việc không thể hiện sự xuất hiện của hàng hóa mới và sự thay đổi chất lượng hàng hóa trong năm nghiên cứu Ở Việt Nam, Tổng cục Thống kê là cơ quan chịu trách nhiệm tính toán chỉ số CPI, một chỉ số giá tiêu dùng được sử dụng phổ biến trên toàn cầu.
Chỉ số giá sản xuất (PPI):
Chỉ số giá sản xuất (PPI) là thước đo mức giá trung bình của giỏ hàng hóa trong lĩnh vực sản xuất, giúp phản ánh chi phí sản xuất bình quân trong xã hội.
Tỷ lệ lạm phát theo chỉ số PPI được tính toán dựa trên một rổ hàng hóa lớn hơn so với chỉ số CPI và phản ánh giá bán buôn trong lần bán đầu tiên Tuy nhiên, phương pháp này chỉ tập trung vào biến động giá ở khâu sản xuất, chưa phản ánh đầy đủ biến động giá ở khâu tiêu dùng, dẫn đến tính toàn diện còn hạn chế Hơn nữa, việc thu thập số liệu và xác định tỷ trọng theo PPI rất phức tạp, khiến cho nhiều quốc gia ít sử dụng phương pháp này để tính toán tỷ lệ lạm phát.
Chỉ số giảm phát tổng sản phẩm quốc nội (P GDP ):
Ngoài việc tính tỷ lệ lạm phát dựa trên chỉ số giá tiêu dùng và chỉ số giá sản xuất, chỉ số giảm phát tổng sản phẩm quốc nội (PGDP) cũng là một phương pháp hữu ích để xác định tỷ lệ lạm phát.
Chỉ số giảm phát tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là một chỉ số quan trọng, thể hiện sự thay đổi phần trăm mức giá trung bình của tất cả hàng hóa và dịch vụ sản xuất trong nước Chỉ số này so sánh mức giá trung bình của các loại hàng hóa và dịch vụ trong kỳ báo cáo với kỳ gốc, giúp đánh giá tình hình kinh tế và sức mua của đồng tiền.
Chỉ số giảm phát tổng sản phẩm quốc nội (GDP deflator) được tính bằng tỷ lệ giữa GDP danh nghĩa và GDP thực tế GDP danh nghĩa đo lường sản lượng theo giá năm nghiên cứu, trong khi GDP thực tế sử dụng giá năm gốc Chỉ số này phản ánh sự thay đổi giá cả của tất cả hàng hóa và dịch vụ sản xuất trong nước, giúp điều chỉnh GDP để có cái nhìn chính xác hơn về sức khỏe kinh tế Công thức tính chỉ số giảm phát tổng sản phẩm quốc nội là một phần quan trọng trong phân tích kinh tế.
: đơn giá của sản phẩm loại i trong năm t
: khối lƣợng của sản phẩm loại i trong t
: đơn giá của sản phẩm loại i trong năm gốc
Từ công thức tính chỉ số giảm phát tổng sản phẩm quốc nội P GDP , tỷ lệ lạm phát đƣợc tính theo công thức sau:
INF t : tỷ lệ lạm phát năm t
P GDP(t): chỉ số giảm phát GDP năm t
Chỉ số giảm phát GDP năm t-1 phản ánh toàn bộ sự thay đổi giá cả của các mặt hàng sản xuất trong nước và biến động của sản phẩm, bao gồm cả hàng hóa mới Tuy nhiên, phương pháp này cũng có những hạn chế, như không thể hiện sự thay đổi chất lượng sản phẩm, mức giá hàng nhập khẩu và sự thay đổi cơ cấu sản phẩm qua các thời kỳ.
Tỷ lệ lạm phát có thể được tính bằng nhiều phương pháp, trong đó chỉ số giá cả hàng hóa tiêu dùng (CPI) là phương pháp phổ biến nhất Bài luận văn này sẽ sử dụng chỉ số CPI để tính toán tỷ lệ lạm phát, cung cấp dữ liệu cho nghiên cứu.
Một số chỉ số khác đánh giá mức độ lạm phát nhƣ:
Chỉ số giá bán lẻ (Retail Price Index - RPI) là thước đo quan trọng thể hiện sự biến động giá cả của hàng hóa và dịch vụ trong lĩnh vực bán lẻ trên thị trường.
Tăng trưởng kinh tế
2.2.1 Khái niệm về tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế được định nghĩa là sự gia tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hoặc tổng sản phẩm bình quân đầu người (PCI) trong một khoảng thời gian nhất định.
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là tổng giá trị thị trường của tất cả hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất trong lãnh thổ của một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm Hàng hóa và dịch vụ cuối cùng bao gồm những sản phẩm được mua cho mục đích sử dụng cuối cùng, cũng như máy móc và thiết bị mà doanh nghiệp mua để phục vụ cho quá trình sản xuất.
Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) là giá trị thị trường của tất cả hàng hóa và dịch vụ cuối cùng do công dân một quốc gia sản xuất trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm.
Tổng sản phẩm bình quân đầu người (Per capita income) là tổng sản phẩm quốc nội chia cho dân số
Nguyễn Trọng Hoài (2010) định nghĩa tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng tổng sản phẩm bình quân đầu người, được hiểu như một quá trình thay đổi nhằm nâng cao sản lượng thực bình quân đầu người Tăng trưởng kinh tế không chỉ là sự thay đổi về số lượng mà còn về chất lượng trong cơ cấu sản xuất và tiêu dùng, dẫn đến việc cải thiện phúc lợi xã hội Điều này thể hiện qua sự gia tăng phúc lợi của con người, bao gồm các yếu tố như tuổi thọ, y tế, giáo dục, dinh dưỡng, thụ hưởng nghệ thuật, an ninh và phúc lợi xã hội.
Theo Phạm Thị Thương (2011), tăng trưởng kinh tế được định nghĩa là sự gia tăng tổng sản phẩm quốc dân trong một khoảng thời gian nhất định Đây là kết quả cuối cùng của tất cả các hoạt động sản xuất và dịch vụ mà nền kinh tế tạo ra, không phân biệt việc thực hiện trong nước hay nước ngoài.
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng năng lực sản xuất hàng hóa và dịch vụ trong một khoảng thời gian nhất định, thể hiện qua sự tăng trưởng của GDP, GNP hoặc PCI Đây là yếu tố quan trọng để đạt được phát triển bền vững và là chính sách hàng đầu mà mọi quốc gia đều hướng tới.
2.2.2 Đo lường tăng trưởng kinh tế
Nguyễn Trọng Hoài (2010) đã xác định ba chỉ tiêu chính để đánh giá tăng trưởng kinh tế, bao gồm tổng sản phẩm trong nước (GDP), tổng sản phẩm quốc dân (GNP) và tốc độ tăng trưởng kinh tế Trong nghiên cứu này, tác giả lựa chọn chỉ tiêu GDP làm dữ liệu chính để phân tích.
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là chỉ tiêu quan trọng phản ánh tình hình hoạt động kinh tế của một quốc gia, được tính bằng tổng giá trị thị trường của tất cả hàng hóa và dịch vụ cuối cùng sản xuất trong lãnh thổ quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định Có ba phương pháp chính để tính GDP: phương pháp chi tiêu, phương pháp thu nhập chi phí và phương pháp giá trị gia tăng.
Phương pháp chi tiêu xác định GDP bằng tổng giá trị chi tiêu của hộ gia đình, doanh nghiệp và Chính phủ cho hàng hóa và dịch vụ cuối cùng Công thức tính GDP theo phương pháp này được thể hiện như sau:
C (Consumption): bao gồm những khoản chi tiêu của hộ gia đình cho sản phẩm tiêu dùng (không bao gồm xây nhà và mua nhà)
I (Đầu tư): Bao gồm các khoản chi tiêu của doanh nghiệp cho sản phẩm đầu tư, như trang thiết bị, nhà xưởng, xây dựng, và đầu tư vào tài sản lưu động.
Chi tiêu của Chính phủ (G) bao gồm các khoản đầu tư vào hàng hóa và dịch vụ như chi phí hành chính, quốc phòng và giáo dục Tuy nhiên, các khoản chi chuyển nhượng như trợ cấp hưu trí và học bổng không được tính vào.
NX (Net exports) = Giá trị xuất khẩu (X) Giá trị nhập khẩu (M): giá trị hàng hóa và dịch vụ được xuất khẩu sang các nước khác
Phương pháp thu nhập chi phí, hay còn gọi là phương pháp phân phối, xác định tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bằng tổng thu nhập từ các yếu tố sản xuất hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế Khi tính toán theo giá thị trường, GDP cũng bao gồm thuế gián thu Công thức tính GDP theo phương pháp này được thể hiện như sau:
W (Wage): tiền lương của người lao động
R (Rent): tiền cho thuê của chủ đất và chủ tài sản cho thuê khác
I (Interest): tiền lãi của người cho vay
Lợi nhuận trước thuế (Pr) là chỉ số quan trọng, bao gồm lợi nhuận của công ty, thuế lợi tức, lợi nhuận không chia, trích lập các quỹ và các khoản đóng góp liên quan đến thuế lợi tức.
Ti (Indirect Tax): thuế gián thu ròng
De (Depreciation): khấu hao tài sản cố định hay là khoản chi ra để bù đắp hao mòn
Phương pháp giá trị gia tăng xác định tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bằng cách cộng tổng giá trị gia tăng của các ngành trong nền kinh tế Theo đó, GDP được tính theo công thức tổng hợp giá trị gia tăng từ từng lĩnh vực.
AVA (Agriculture Value Added): giá trị gia tăng của ngành nông nghiệp IVA (Industry Value Added): giá trị gia tăng của ngành công nghiệp
SVA (Service Value Added): giá trị gia tăng của ngành dịch vụ
Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) là tổng giá trị thị trường của tất cả hàng hóa và dịch vụ cuối cùng do công dân một quốc gia sản xuất trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm GNP được tính toán theo công thức cụ thể để phản ánh hiệu quả kinh tế của một quốc gia.
GDP (Gross Domestic Products): tổng sản phẩm quốc nội
NFFI (Net Foreign Factor Income): thu nhập nhân tố ròng
Tác động của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế
2.3.1 Tác động của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế theo các lý thuyết kinh tế
Lạm phát cao có tác động tiêu cực đến nền kinh tế, trong khi lạm phát bằng không cũng gây hại do dẫn đến sự trì trệ (Hossain và cộng sự, 2012) Fischer (1993) chỉ ra rằng lạm phát làm giảm tăng trưởng kinh tế thông qua việc giảm đầu tư và năng suất Ông nhấn mạnh rằng lạm phát thấp không cần thiết cho tăng trưởng kinh tế, và lạm phát cao cũng không phù hợp với sự phát triển này Do đó, mức lạm phát nhẹ và phù hợp là cần thiết cho sự tăng trưởng kinh tế, và các nền kinh tế ưu tiên tăng trưởng cần chấp nhận lạm phát Kiểm soát lạm phát đã trở thành mục tiêu quan trọng của các nhà quản lý kinh tế trên toàn cầu.
Theo một số nhà kinh tế học, lạm phát có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, và Chính phủ có thể sử dụng lạm phát như một công cụ để đạt được điều này Các lý thuyết về tác động của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế bao gồm lý thuyết cổ điển, tân cổ điển, Keynes và trọng tiền Lý thuyết cổ điển nhấn mạnh tầm quan trọng của tiết kiệm và đầu tư, trong khi lý thuyết tân cổ điển phân tích ảnh hưởng của lạm phát đến đầu tư và tích lũy vốn Lý thuyết Keynes cho rằng sự gia tăng khối lượng tiền tệ trong lưu thông trước khi đạt mức sản lượng tiềm năng sẽ kích thích sản xuất và tăng trưởng Cuối cùng, lý thuyết trọng tiền chỉ ra rằng giá cả chủ yếu bị ảnh hưởng bởi tốc độ tăng trưởng cung tiền, không có tác động thực sự đến tăng trưởng kinh tế.
Các nhà kinh tế nổi tiếng như Adam Smith và D Ricardo đã xây dựng các mô hình tăng trưởng lý thuyết, trong đó Smith nhấn mạnh vai trò của tiết kiệm và đầu tư trong phát triển kinh tế Ông cho rằng phân phối thu nhập là yếu tố quyết định tốc độ tăng trưởng của một quốc gia Lợi nhuận giảm không phải do năng suất cận biên giảm, mà là do mức lương tăng lên, dẫn đến chi phí lao động cao hơn mà không có sự thay đổi trong vốn đầu tư, gây ra giảm sản lượng và tăng giá hàng hóa Do đó, sự biến động giá cả hàng hóa ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận và có thể làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Năm 1911, trong tài liệu “Sức mua tiền tệ”, Fisher đã đƣa ra mô hình theo quan điểm của lý thuyết cổ điển đƣợc đề cập nhƣ sau:
M là khối lượng tiền tệ trong lưu thông
V là tốc độ lưu thông tiền tệ
Y là sản lƣợng thực của nền kinh tế
Các nhà kinh tế cổ điển cho rằng tốc độ lưu thông tiền tệ (V) là một hằng số, không thay đổi ngay lập tức do phụ thuộc vào sự phát triển của hệ thống tài chính, và giả định rằng sản lượng (Y) cũng là một hằng số trong dài hạn Mô hình này cho thấy khi cung ứng tiền tệ thay đổi, giá cả sẽ tỷ lệ thuận với khối lượng tiền tệ trong lưu thông Vai trò của Ngân hàng Trung ương rất quan trọng; nếu Ngân hàng Trung ương duy trì khối lượng tiền tệ ổn định, mức giá sẽ ổn định, ngược lại, nếu tăng nhanh khối lượng tiền tệ, giá cả sẽ tăng nhanh và dẫn đến lạm phát Do đó, mức giá chung chỉ phụ thuộc vào khối lượng tiền tệ trong lưu thông, cho thấy không tồn tại mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế.
Lý thuyết cổ điển đã chỉ ra mối quan hệ ngược chiều giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế, với những đóng góp quan trọng từ các nhà kinh tế học cổ điển trong lịch sử phát triển lý thuyết kinh tế Tuy nhiên, lý thuyết này có hạn chế khi giả định rằng tiền tệ mang tính trung lập và không ảnh hưởng đến sản lượng, đồng thời coi sản lượng là hằng số trong dài hạn, bỏ qua những diễn biến trong ngắn hạn.
Lý thuyết tân cổ điển
Theo lý thuyết tân cổ điển của Mundell (1963), khi lạm phát gia tăng, thu nhập thực của người dân giảm, dẫn đến sự giảm sút về sự giàu có Điều này khuyến khích mọi người tìm cách trốn tránh tiền tệ và tiết kiệm hơn bằng cách đầu tư vào các tài sản có lợi tức cao hơn so với tiền Sự gia tăng tiết kiệm sẽ làm tăng tích lũy vốn trong nền kinh tế, từ đó thúc đẩy tăng trưởng Như vậy, Mundell cho rằng lạm phát tăng có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tức là lạm phát có tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế.
Tobin (1965) đã chỉ ra rằng lạm phát và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ tích cực, trong đó lạm phát làm tăng chi phí cơ hội của việc giữ tiền mặt Điều này khiến mọi người chuyển hướng đầu tư từ tiền sang chứng khoán hoặc tài sản sinh lời khác, dẫn đến giảm lãi suất thực tế Kết quả là, sự tích lũy vốn gia tăng và mở rộng đầu tư, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Nghiên cứu của Sidrauski (1967) về trạng thái siêu trung lập cho thấy mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng và cung tiền Kết quả chỉ ra rằng tốc độ tăng trưởng sản lượng trong trạng thái ổn định không phụ thuộc vào tốc độ tăng trưởng của cung tiền trong dài hạn Điều này dẫn đến kết luận rằng việc tăng cung tiền trong dài hạn không ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, đồng thời không có mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế trong dài hạn.
Lý thuyết tân cổ điển cung cấp những phân tích sâu sắc về sự vận động của nền kinh tế, tập trung vào tâm lý tiết kiệm và đầu tư của con người Nó giải thích ảnh hưởng của lạm phát đối với tăng trưởng kinh tế, nhấn mạnh tác động của lạm phát đến việc mở rộng đầu tư và gia tăng tích lũy vốn Qua đó, lý thuyết cho thấy lạm phát có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế.
Theo lý thuyết của Keynes, trong ngắn hạn có sự đánh đổi giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế, tức là để đạt được tăng trưởng cao, cần chấp nhận một tỷ lệ lạm phát nhất định Khi lạm phát tăng, nó có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhưng nếu tỷ lệ lạm phát tiếp tục gia tăng sau giai đoạn này, có thể dẫn đến tác động ngược lại, khiến kinh tế không chỉ không tăng trưởng mà còn có thể giảm Keynes (1936) chỉ ra rằng khi khối lượng tiền tệ tăng lên trong một nền kinh tế đã đạt mức sản lượng tiềm năng, sự gia tăng này sẽ làm tăng giá cả mà không thúc đẩy tăng trưởng Ngược lại, nếu nền kinh tế chưa đạt mức sản lượng tiềm năng, việc tăng khối lượng tiền tệ sẽ kích thích sản xuất và tăng trưởng kinh tế Do đó, trong lý thuyết Keynes, mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế là tích cực, khi lạm phát tăng thì tăng trưởng kinh tế cũng sẽ tăng theo.
Lý thuyết Keynes đóng vai trò quan trọng trong việc làm rõ mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của chính sách tiền tệ, cho thấy rằng lạm phát và tăng trưởng kinh tế có tác động tích cực lẫn nhau.
Milton Friedman, người sáng lập thuật ngữ trọng tiền, đã chỉ ra rằng lạm phát dài hạn là hệ quả của việc tăng cung tiền nhanh hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế Ông nhấn mạnh rằng khi chi phí mọi thứ tăng gấp đôi, người tiêu dùng sẽ phải trả nhiều hơn cho hàng hóa và dịch vụ, nhưng nếu tiền lương cũng tăng gấp đôi, thì việc làm và sản lượng không bị ảnh hưởng, dẫn đến khái niệm "sự trung lập của tiền" Nếu lạm phát xảy ra theo cách này, nó sẽ không gây hại cho nền kinh tế.
Các nhà kinh tế học theo trường phái trọng tiền cho rằng trong ngắn hạn, lạm phát và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ cùng chiều Chính sách tiền tệ mở rộng và gia tăng cung tiền có thể làm giảm tỷ lệ thất nghiệp và kích thích tăng trưởng kinh tế tạm thời Tăng cung tiền thúc đẩy đầu tư, tạo thêm việc làm và góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế Hơn nữa, khi lạm phát thực tế cao hơn dự đoán, người lao động cảm thấy thu nhập thực tế cao hơn, từ đó làm việc tích cực hơn và góp phần vào tăng trưởng kinh tế.
Theo lý thuyết trọng tiền, trong dài hạn, giá cả chủ yếu bị ảnh hưởng bởi tốc độ tăng trưởng cung tiền, không phải do tăng trưởng kinh tế Nếu cung tiền tăng nhanh hơn tăng trưởng kinh tế, lạm phát sẽ xảy ra, và tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào các yếu tố thực của nền kinh tế, không phải yếu tố tiền tệ Điều này cho thấy trong dài hạn không có mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế, trong khi trong ngắn hạn, lạm phát có thể kích thích tăng trưởng kinh tế.
Các trường phái kinh tế khác nhau đều có quan điểm riêng về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế Các nhà kinh tế học nhấn mạnh rằng trong ngắn hạn, để đạt được tăng trưởng kinh tế cao, cần chấp nhận một mức lạm phát nhất định, từ đó lạm phát có thể có tác động tích cực đến sự phát triển của nền kinh tế.
Các nghiên cứu thực nghiệm trước về tác động của lạm phát đến tăng trưởng
Nhiều nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm đã chỉ ra tác động của lạm phát đối với tăng trưởng kinh tế, cả trong nước và quốc tế Bài luận văn này sẽ trình bày một số nghiên cứu thực nghiệm trước đó nhằm làm cơ sở tham khảo cho vấn đề này.
2.6.1 Một số nghiên cứu thực nghiệm nước ngoài về tác động của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế
Nghiên cứu của Fisher (1993) về mối liên hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế, sử dụng phương pháp hồi quy dữ liệu bảng trên 101 quốc gia từ năm 1960 đến 1989, đã chỉ ra rằng lạm phát có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế Cụ thể, khi lạm phát ở mức thấp, mối quan hệ giữa hai yếu tố này không rõ ràng hoặc thậm chí lạm phát có thể thúc đẩy tăng trưởng Ngược lại, khi lạm phát gia tăng, tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế trở nên rõ rệt.
Nghiên cứu của Sarel (1996) đã chỉ ra tác động phi tuyến tính của lạm phát đối với tăng trưởng kinh tế, xác định ngưỡng lạm phát là 8% Kết quả cho thấy, khi lạm phát dưới 8%, nó có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế, nhưng khi vượt qua ngưỡng này, lạm phát lại gây ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng Nghiên cứu đã sử dụng cơ sở dữ liệu bảng với dữ liệu hàng năm để phân tích.
87 quốc gia trong giai đoạn từ năm 1970 đến năm 1990 Tuy nhiên, nghiên cứu này chưa làm rõ đến những biến động trong lạm phát và tăng trưởng kinh tế
Nghiên cứu của Ghosh và Phillips (1998) cho thấy lạm phát thấp dưới 2% - 3% có mối tương quan thuận với tăng trưởng, trong khi lạm phát cao hơn lại có tương quan nghịch Mô hình nghiên cứu này chỉ phù hợp với các quốc gia thành viên của IMF Tương tự, Nell (2000) chỉ ra rằng lạm phát một chữ số có thể thúc đẩy tăng trưởng, trong khi lạm phát hai chữ số dẫn đến sự trì trệ trong tăng trưởng.
Nghiên cứu của Bittencourt (2011) đã phân tích mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế tại bốn quốc gia Châu Mỹ Latinh, sử dụng dữ liệu chuỗi thời gian hàng năm từ năm 1970 đến 2007 Các biến được xem xét bao gồm dân số, đặc điểm chính trị, cung tiền, tỷ lệ đầu tư, chi tiêu chính phủ và độ mở thương mại Kết quả cho thấy rằng lạm phát có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế, nghĩa là khi lạm phát gia tăng, tăng trưởng kinh tế sẽ giảm sút.
Nghiên cứu của Muhammad, Imran và Fatima (2011) về tác động của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế của Pakistan đã sử dụng dữ liệu từ năm 1972 đến 2010, cho thấy lạm phát có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế Ngoài lạm phát, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng các yếu tố khác như lực lượng lao động, độ mở thương mại và tốc độ tăng trưởng đầu tư cũng đóng vai trò quan trọng trong việc ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.
Nghiên cứu của Yabu và Kessy (2015) về tác động phi tuyến của lạm phát đến tăng trưởng ở các quốc gia Đông Phi trong giai đoạn 1970-2013 đã xác định ngưỡng lạm phát là 8.46% Kết quả cho thấy, khi lạm phát dưới ngưỡng này, nó có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế, trong khi khi vượt qua ngưỡng, lạm phát lại gây ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng.
2.6.2 Một số nghiên cứu thực nghiệm trong nước về tác động của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế
Nguyễn Trung Chính (2009) đã nghiên cứu mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn 1995-2008 bằng mô hình đồng liên kết ECM và mô hình VAR Kết quả cho thấy tăng trưởng kinh tế và lạm phát có mối quan hệ đồng liên kết với hệ số 0.5883, có ý nghĩa thống kê ở mức 1% Tác giả nhận định rằng lạm phát có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế khi chưa vượt qua mức ngưỡng.
Nghiên cứu của Tân Anh và cộng sự (2013) tập trung vào mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam trong giai đoạn 2002-2010 Dựa trên tổng quan lý thuyết và các nghiên cứu trước đó, tác giả chỉ ra rằng lạm phát và tăng trưởng có mối quan hệ đồng biến, với nguyên nhân lạm phát chủ yếu xuất phát từ việc nới lỏng chính sách tiền tệ và tài khóa.
Trương Minh Tuấn (2013) đã nghiên cứu mối tương quan giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam từ năm 2001 đến 2011, sử dụng mô hình hồi quy đa biến với các yếu tố như tỷ giá, cung tiền, giá dầu và tỷ lệ lạm phát Kết quả từ mô hình VAR và ECM cho thấy có mối quan hệ dài hạn giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế, trong đó lạm phát có ảnh hưởng ngược chiều đến tăng trưởng kinh tế.
Phùng Duy Quang (2013) đã nghiên cứu mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam trong giai đoạn 2008-2012 Tác giả sử dụng mô hình đồng liên kết ECM và mô hình VAR để phân tích dữ liệu Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng có mối quan hệ đồng biến ngắn hạn giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế.
Nghiên cứu của Sử Đình Thành (2014) về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế ở 5 quốc gia ASEAN từ năm 1980 đến 2011 cho thấy rằng có một mối quan hệ phi tuyến tính giữa hai yếu tố này Đặc biệt, mức ngưỡng lạm phát của các quốc gia trong nghiên cứu được xác định là 7.84%.
Nghiên cứu của Hồ Hữu Phương Chi (2019) đã chỉ ra mối quan hệ phi tuyến giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 1995-2016, xác định ngưỡng lạm phát tối ưu là 3.79% Kết quả cho thấy, khi lạm phát dưới mức 3.79%, nó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trong khi lạm phát vượt qua ngưỡng này sẽ có tác động tiêu cực đến tăng trưởng.
2.6.3 Điểm mới của nghiên cứu so với các nghiên cứu trước
Nghiên cứu của tác giả nổi bật so với các công trình trước đây bởi việc xác định ngưỡng lạm phát tối ưu cho các nhà hoạch định chính sách, đồng thời bổ sung các biến kinh tế vĩ mô khác để phân tích ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế Nghiên cứu cũng xem xét nguyên nhân sự khác biệt về tăng trưởng giữa Việt Nam và các quốc gia Đông Nam Á Đặc biệt, dữ liệu được cập nhật từ giai đoạn 2001 – 2018, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế hiện tại của các quốc gia trong khu vực.
Chương 2 đã trình bày cơ sở lý thuyết liên quan đến lạm phát và tăng trưởng kinh tế, đồng thời phân tích các nhân tố kinh tế vĩ mô khác có tác động lên tăng trưởng kinh tế như: tốc độ tăng trưởng dân số, đầu tư trực tiếp nước ngoài và cung tiền Ngoài ra, chương này cũng đã trình bày các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế, các nghiên cứu đều cho thấy rằng tồn tại một mức ngưỡng mà khi lạm phát ở dưới mức ngưỡng này thì lạm phát thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và khi lạm phát lớn hơn mức này, lạm phát sẽ tác động tiêu cực lên tăng trưởng Trên cơ sở đó tác giả làm căn cứ xây dựng mô hình cho bài luận văn được trình bày ở chương 3.