1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Tài liệu Tác Động Kinh Tế Của Biến Đổi Khí Hậu Đến Thu Nhập Ngành Trồng Trọt

97 41 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Tác Động Kinh Tế Của Biến Đổi Khí Hậu Đến Thu Nhập Ngành Trồng Trọt
Tác giả Nguyễn Châu Thoại
Người hướng dẫn TS. Nguyễn Hữu Dũng
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế Thành Phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Kinh Tế Phát Triển
Thể loại luận văn thạc sĩ kinh tế
Năm xuất bản 2011
Thành phố Tp.HCM
Định dạng
Số trang 97
Dung lượng 1,38 MB

Cấu trúc

  • BÌA

  • TÓM TẮT

  • MỤC LỤC

  • DANH MỤC BẢNG BIỂU – ĐỒ THỊ

  • CÁC CHỮ VIẾT TẮT

  • CHƯƠNG IGIỚI THIỆU NGHIÊN CỨU

  • CHƯƠNG IITỔNG QUAN LÝ THUYẾT

    • 2.1 Biến đổi khí hậu và một số nguyên nhân gây nên BĐKH

      • 2.1.1 Biến đổi khí hậu

      • 2.1.2 Một số nguyên nhân gây nên BĐKH

    • 2.2 Những thách thức của Việt Nam với BĐKH

    • 2.3 Diễn biến khí hậu thế giới

    • 2.4 Khái quát khí hậu Việt Nam

      • 2.4.1 Đặc điểm khí hậu của Việt Nam

      • 2.4.2 Diễn biến khí hậu tại Việt Nam 2007- 2008

    • 2.5 Kịch bản BĐKH Việt Nam

    • 2.6 Ngành nông nghiệp Việt Nam

    • 2.7 Lý thuyết mô hình Ricardian

      • 2.7.1 Mô hình phân tích Ricardian

      • 2.7.2 Nghiên cứu ứng dụng mô hình Ricardian

    • 2.8 Kết luận chương

  • CHƯƠNG IIIPHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

    • 3.1 Dữ liệu nghiên cứu

      • 3.1.1 Dữ liệu trích từ điều tra mức sống hộ gia đình (VHLSS) 2008

      • 3.1.2 Dữ liệu về khí tượng Việt Nam

      • 3.1.3 Xử lý số liệu

    • 3.2 Mô hình nghiên cứu

    • 3.3 Tác động biên và xu hướng tác động

    • 3.4 Dự báo biến đổi khí hậu

    • 3.5 Trình tự thực hiện nghiên cứu

  • CHƯƠNG IVHIỆN TRẠNG SẢN XUẤTNGÀNH TRỒNG TRỌT VIỆT NAM

    • 4.1 Đặc điểm khí hậu

      • 4.1.1 Nhiệt độ trung bình

      • 4.1.2 Lượng mưa

      • 4.1.3 Nhiệt độ trung bình và lượng mưa 2001-2009

    • 4.2 Đặc điểm đất đai canh tác

    • 4.3 Đặc điểm kinh tế xã hội nông hộ

    • 4.4 Tình hình tưới tiêu của nông hộ

    • 4.5 Thu nhập ròng bình quân

    • 4.6 Kết luận chương

  • CHƯƠNG VTÁC ĐỘNG KINH TẾ CỦA YẾU TỐ KHÍ HẬU

    • 5.1 Mô hình Ricardian cho Việt Nam

    • 5.2 Mối liên quan giữa thu nhập ròng và khí hậu

      • 5.2.1 Mô hình tổng hợp

      • 5.2.2 Mô hình nông hộ tưới tiêu chủ động

      • 5.2.3 Mô hình nông hộ không tưới tiêu chủ động

      • 5.2.4 Tổng kết phần 5.2

    • 5.3 Ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế xã hội của nông hộ

    • 5.4 Giá trị tác động biên

      • 5.4.1 Tác động biên của nhiệt độ

      • 5.4.2 Tác động biên của lượng mưa

    • 5.5 Xu hướng tác động

      • 5.5.1 Xu hướng tác động của nhiệt độ

      • 5.5.2 Xu hướng tác động của lượng mưa

      • 5.5.3 Tác động biên theo diện tích

    • 5.6 Dự báo tác động theo kịch bản BĐKH

      • 5.6.1 Dự báo tác động của nhiệt độ

      • 5.6.2 Dự báo tác động của lượng mưa

    • 5.7 Thảo luận đánh giá kết quả nghiên cứu

  • CHƯƠNG VIKẾT LUẬN

  • TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • Phụ lục 1: Nhiệt độ trung và lượng mưa từ tháng 11/2007 đến 10/2008

  • Phụ lục 2: Bản đồ vị trí trạm khí tượng & Phân bố mẫu

  • Phụ lục 3: Nhiệt độ trung bình toàn cầu

  • Phụ lục 4: Kịch Bản biến đổi khí hậu Việt Nam

  • Phụ lục 5: Mức tăng nhiệt độ trung bình (0C) các vùng theo kịch bản phátthải trung bình (so với thờ kỳ 1980-1999)

  • Phụ lục 6: Mức tăng lượng mưa (%) các vùng theo kịch bản phát thảitrung bình (so với thờ kỳ 1980-1999)

  • Phục lục 7: Thống kê mô tả các biến sử dụng trong mô hình hồi quy

  • Phụ lục 8: Hệ số tương quan các biến trong mô hình

  • Phụ lục 9: Kết quả hồi quy mô hình tổng hợp với biến phụ thuộc là thu nhập ròng

  • Phụ lục 10: Kết quả hồi quy mô hình nông hộ tưới tiêu chủ động với biến phụ thuộclà thu nhập ròng

  • Phụ lục 11: Kết quả hồi quy mô hình nông hộ tưới tiêu không chủ động với biến phụthuộc là thu nhập ròng

  • Phụ lục 12: Kết quả phân tích hai mô hình hồi quy với nhóm hộ tưới tiêu chủ động vàkhông chủ động – biến phụ thuộc thu nhập ròng

Nội dung

GIỚI THIỆU NGHIÊN CỨU

Giới thiệu

Biến đổi khí hậu (BĐKH) đang trở thành một vấn đề cấp bách toàn cầu, ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực như nông nghiệp, lâm nghiệp và năng lượng, đặc biệt tại các vùng ven biển của các quốc gia phát triển và đang phát triển BĐKH được xem là mối đe dọa đối với hòa bình và an ninh toàn cầu, ngang hàng với các vấn đề như xung đột vũ trang và nghèo đói Những biểu hiện của BĐKH như thời tiết bất thường, nước biển dâng, và gia tăng thiên tai đã tác động tiêu cực đến đời sống con người, dẫn đến bệnh tật, nghèo đói và mất đất canh tác Ngoài ra, BĐKH còn gây mất cân bằng trong hệ sinh thái thực phẩm và làm suy kiệt tài nguyên đất và rừng Những thay đổi về nhiệt độ và lượng mưa không chỉ ảnh hưởng đến sản lượng và thu nhập hiện tại mà còn đặt ra thách thức cho sự phát triển bền vững trong tương lai.

Sản xuất nông nghiệp là ngành chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ biến đổi khí hậu (BĐKH) trên toàn cầu Các nước đang phát triển, với điều kiện cơ sở hạ tầng kém và khả năng thích ứng hạn chế, đang phải đối mặt với tác động lớn hơn so với các nước phát triển (WB, 2010) Theo báo cáo của WB (2010), Châu Á là khu vực chịu ảnh hưởng nghiêm trọng nhất về an ninh lương thực, đặc biệt trong ngành trồng trọt, nơi phụ thuộc vào nguồn nước mưa ở các nước đang phát triển.

Trong khoảng 20 năm qua, nhiều nghiên cứu đã phân tích tác động kinh tế của biến đổi khí hậu (BĐKH) lên sản xuất nông nghiệp tại một số nước đang phát triển, bao gồm Trung Quốc, các quốc gia ở Châu Mỹ La Tinh và một số nước Châu Phi Phương pháp chính được sử dụng trong các nghiên cứu này là mô hình Ricardian, giúp xác định ảnh hưởng của các yếu tố khí hậu thay đổi đến kinh tế nông nghiệp Những kết quả thu được từ các nghiên cứu này đã cung cấp thông tin quý giá cho việc hoạch định chính sách phát triển nông nghiệp tại các quốc gia này.

Việt Nam, với nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế và an ninh lương thực, cần chú trọng đến tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH) lên lĩnh vực này Khoảng 74% dân số sống ở nông thôn, trong khi 80% người dân phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp, cho thấy sự thay đổi trong nông nghiệp sẽ ảnh hưởng lớn đến quốc gia Là nước xuất khẩu gạo thứ hai thế giới, cùng với các nông sản giá trị cao như cà phê và cao su, Việt Nam cần đánh giá và ứng phó kịp thời với các tác động tiêu cực của BĐKH Mặc dù thiệt hại kinh tế do nước biển dâng đã được dự báo, nhưng tác động của thay đổi nhiệt độ và lượng mưa vẫn chưa được phân tích đầy đủ Nghiên cứu này sẽ xem xét tác động kinh tế của những thay đổi này lên sản xuất nông nghiệp toàn quốc, nhằm cung cấp cái nhìn toàn cảnh về ảnh hưởng của BĐKH đến phát triển bền vững và hỗ trợ xây dựng kế hoạch ứng phó trong tương lai.

Vấn đề nghiên cứu

Trái đất đang nóng lên, theo báo cáo của IPCC (2007), là nguyên nhân chính gây ra biến đổi khí hậu (BĐKH) toàn cầu BĐKH không chỉ biểu hiện qua hiện tượng nước biển dâng mà còn qua các hiện tượng thời tiết cực đoan như giông bão, lũ lụt và hạn hán, cùng với sự biến đổi của nhiệt độ bề mặt nước biển, dòng hải lưu, lượng mưa, nhiệt độ bề mặt trái đất và bức xạ Thảm họa thiên nhiên do BĐKH ngày càng gia tăng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất cây trồng, sức khỏe con người, đa dạng sinh học và nguồn năng lượng (Nguyễn Hữu Ninh, 2009) Trong bối cảnh BĐKH, các hiện tượng khí hậu cực đoan như sóng thần, mưa bão và hạn hán xảy ra bất thường, khó dự đoán chính xác, vì vậy nghiên cứu BĐKH theo các yếu tố khí hậu là cần thiết để dự báo xu thế tác động.

Các yếu tố khí hậu chủ yếu ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là trồng trọt, bao gồm lượng mưa, nhiệt độ, độ ẩm không khí, bốc hơi, nắng và gió Trong đó, nhiệt độ và lượng mưa là hai yếu tố có tác động trực tiếp và dễ nhận biết nhất Dữ liệu quan trắc về nhiệt độ và lượng mưa có thể dễ dàng thu thập từ các trạm khí tượng Do đó, việc xem xét sự thay đổi của các yếu tố khí hậu và ảnh hưởng của chúng đến ổn định kinh tế xã hội là một vấn đề cấp thiết đối với các cơ quan quản lý nhà nước.

Nghiên cứu này tập trung vào nông hộ tại Việt Nam, sử dụng dữ liệu điều tra mức sống hộ gia đình năm 2008 để phân tích tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH) lên ngành trồng trọt Mục tiêu là ước lượng thiệt hại do BĐKH gây ra trong sản xuất nông nghiệp và khả năng thích ứng của nông hộ trước sự thay đổi về nhiệt độ và lượng mưa Phương pháp phân tích Ricardian sẽ được áp dụng, với biến phụ thuộc là thu nhập ròng của nông hộ, xem xét các yếu tố như diện tích canh tác, phương pháp sản xuất, hình thức tưới tiêu và vùng miền.

Mục tiêu nghiên cứu

Nghiên cứu này nhằm mục tiêu phân tích tác động kinh tế của biến đổi khí hậu (BĐKH) đối với ngành trồng trọt tại Việt Nam, đồng thời đánh giá mức độ ảnh hưởng của BĐKH đến nông hộ trong thời gian qua Bài viết cũng đề xuất các giải pháp cho các cấp quản lý nhằm giảm thiểu thiệt hại và nâng cao khả năng thích ứng của người dân trước những thách thức từ BĐKH.

Các mục tiêu cụ thể của nghiên cứu như sau:

1 Xác định tác động của thay đổi nhiệt độ trung bình và lượng mưa đến sản xuất ngành trồng trọt tại Việt Nam

2 Đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến nông hộ trong bối cảnh thay đổi nhiệt độ và lượng mưa nói riêng và BĐKH nói chung

3 Xác định xu hướng tác động của thay đổi nhiệt độ và lượng mưa lên thu nhập ròng của nông hộ, và dự báo mức độ thiệt hại của sản xuất nông nghiệp trong tương lai theo các kịch bản BĐKH

4 Đề xuất giải pháp làm giảm thiểu sự ảnh hưởng và kiểm soát tác động có thể có của BĐKH đến sản xuất nông nghiệp.

Câu hỏi nghiên cứu

Theo các mục tiêu nghiên cứu trên , các câu hỏi cần thiết phải tìm hiểu để giải quyết vấn đề được tóm gọn lại như sau:

1 Sự thay đổi nhiệt độ trung bình và lượng mưa tác động lên ngành trồng trọt tại Việt Nam như thế nào? Thu nhập ròng của nông hộ sẽ thay đổi ra sao? Tác động này lên các mùa trong năm có khác nhau hay không?

2 Các yếu tố kinh tế, xã hội của nông hộ; hình thức canh tác và quy mô trang trại như thế nào giúp nông hộ ít ảnh hưởng hơn (Nghĩa là có thu nhập ròng cao hơn) với sự thay đổi nhiệt độ và lượng mưa?

3 Ảnh hưởng của hai hình thức canh tác có tưới tiêu chủ động và không chủ động dưới tác động của BĐKH đến nông hộ như thế nào? Hình thức tưới tiêu nào có thiệt hại thấp hơn và ảnh hưởng ít hơn?

4 Giá trị tác động biên (đơn vị tác động) của nhiệt độ trung bình và lượng mưa hàng năm lên thu nhập ròng của nông hộ là bao nhiêu? Qua đó xây dựng xu hướng tác động của thay đổi nhiệt độ và lượng mưa lên thu nhập ròng nông hộ

5 Dựa vào giá trị đơn vị tác động, xem xét đánh giá thiệt hại ngành trồng trọt dưới tác động của BĐKH theo các kịch bản vào cuối thế kỷ ra sao?

6 Giải pháp nào làm giảm tác động của BĐKH đến sản xuất nông nghiệp Việt Nam?

Phạm vi và giới hạn nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu tập trung vào ngành trồng trọt tại Việt Nam, bao gồm cây lương thực, cây ăn trái, cây công nghiệp, rau đậu và hoa màu, đồng thời phân tích thu nhập ròng của nông hộ Đối tượng nghiên cứu là các hộ sản xuất nông nghiệp ở các tỉnh thành trên toàn quốc.

Nghiên cứu này dựa trên dữ liệu điều tra mức sống hộ gia đình (VHLSS) chính thức năm 2008 của Việt Nam và số liệu khí tượng cùng năm Nếu bộ dữ liệu được cập nhật, kết quả nghiên cứu sẽ có thể được bổ sung và tính toán lại, từ đó kiểm chứng giá trị của mô hình dự báo một cách dễ dàng hơn.

CHƯƠNG II TỔNG QUAN LÝ THUYẾT

2.1 Biến đổi khí hậu và một số nguyên nhân gây nên BĐKH 2.1.1 Biến đổi khí hậu

Biến đổi khí hậu (BĐKH) là sự thay đổi của hệ thống khí hậu, bao gồm khí quyển, thủy quyển, sinh quyển và thạch quyển, do các nguyên nhân tự nhiên và nhân tạo (Bộ TNMT, 2009) Các biểu hiện chính của BĐKH bao gồm: (i) sự nóng lên của bầu khí quyển và bề mặt trái đất; (ii) sự thay đổi thành phần và chất lượng của khí quyển, gây hại cho môi trường sinh thái và sự sống trên trái đất.

Sự dâng cao của nước biển do băng tan đang gây ngập úng các vùng đất thấp, trũng, đồng thời làm thay đổi các đới khí hậu tồn tại hàng ngàn năm, đe dọa sự sống của nhiều loài sinh vật và hệ sinh thái, cũng như ảnh hưởng đến hoạt động của con người Những thay đổi này bao gồm sự biến động cường độ hoạt động của quá trình hoàn lưu khí quyển, chu trình tuần hoàn nước tự nhiên và các chu trình sinh địa hóa khác Cuối cùng, điều này dẫn đến sự thay đổi năng suất sinh học của các hệ sinh thái, cũng như chất lượng và thành phần của thủy quyển, sinh quyển và các địa tuyến.

Khí hậu trên trái đất đang có sự biến đổi rõ rệt hàng năm, với nhiệt độ trung bình bề mặt địa cầu đã tăng gần 1°C trong 80 năm qua (từ 1920 đến 2005) và gia tăng nhanh chóng trong 25 năm gần đây (từ 1980 đến 2005), theo báo cáo của IPCC (2007) Nếu không thực hiện các biện pháp giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính theo Nghị định thư Kyoto, dự đoán đến năm 2035, nhiệt độ bề mặt sẽ tăng thêm 2°C, và có hơn 50% khả năng nhiệt độ sẽ tăng thêm 5°C vào cuối thế kỷ.

2.1.2 Một số nguyên nhân gây nên BĐKH

Theo Báo cáo đánh giá lần thứ tư của Ban liên chính phủ về BĐKH (IPCC,

Sự nóng lên của hệ thống khí hậu đã được chứng minh rõ ràng qua việc tăng nhiệt độ không khí và nước biển, cùng với sự tan chảy nhanh chóng của băng và tuyết, dẫn đến mực nước biển tăng cao Nhiều nghiên cứu gần đây xác nhận rằng nguyên nhân chính của biến đổi khí hậu là do sự gia tăng khí nhà kính trong khí quyển, chủ yếu từ các hoạt động kinh tế của con người, chiếm tới 90% Từ thời kỳ tiền công nghiệp (khoảng năm 1750), việc gia tăng sử dụng năng lượng trong sản xuất đã thải ra các khí gây hiệu ứng nhà kính, làm tăng nhiệt độ bề mặt trái đất Hiện nay, hàm lượng khí carbonic trong không khí đã cao hơn 30% – 35% so với thời kỳ tiền công nghiệp.

Nguyên nhân chính gây ra biến đổi khí hậu trái đất là sự gia tăng hoạt động thải khí nhà kính từ các ngành công nghiệp, khai thác tài nguyên rừng, và các hệ sinh thái khác Việc sử dụng năng lượng hóa thạch như than đá, dầu mỏ và khí đốt đã thải ra một lượng lớn khí CO2, NOx và CFC vào môi trường Thêm vào đó, sản xuất nông nghiệp cũng đóng góp vào hiệu ứng nhà kính với lượng khí CH4 và H2S thải ra.

Để phát triển kinh tế, nhiều quốc gia đã khai thác tài nguyên sinh thái một cách bừa bãi và thải ra môi trường lượng lớn chất thải, dẫn đến biến đổi khí hậu (BĐKH) Để giảm thiểu tác động của BĐKH, con người cần kiểm soát các nguyên nhân gây ra nó, nhưng điều này thường mâu thuẫn với lợi ích kinh tế hiện tại của mỗi quốc gia Bài viết sẽ phân tích các thách thức mà Việt Nam đang đối mặt liên quan đến BĐKH, nhằm làm rõ mức độ tác hại nếu không có các giải pháp hiệu quả để giảm thiểu vấn đề này.

2.2 Những thách thức của Việt Nam với BĐKH

Nhận thức về biến đổi khí hậu (BĐKH) ở Việt Nam còn hạn chế, đặc biệt là trong cộng đồng nông thôn, khiến người dân chưa nhận thức đầy đủ về nguy cơ đe dọa đến sinh kế của họ Sự hiểu biết của cán bộ lãnh đạo cũng chưa đủ sâu sắc, và các nghiên cứu cùng biện pháp ứng phó với BĐKH chưa được chú trọng ngang tầm với việc giảm thiểu phát thải khí nhà kính.

Việt Nam cần khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên để phát triển kinh tế, nhưng việc khai thác quá mức có thể dẫn đến tăng nguy cơ biến đổi khí hậu (BĐKH) và giảm khả năng thích ứng với BĐKH Chẳng hạn, tình trạng phá rừng và sự gia tăng nhanh chóng trong việc sử dụng nhiên liệu xăng dầu đang gây ra những tác động tiêu cực đến môi trường.

Năng lực tài chính: Mức độ ưu tiên tài chính cho phát triển kinh tế tại Viêt

Việc chú trọng đến ảnh hưởng của biến đổi khí hậu là rất quan trọng để đạt được mục tiêu phát triển bền vững Do đó, cần phải kết hợp các yếu tố liên quan đến biến đổi khí hậu với các mục tiêu phát triển nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững trong tương lai.

Để giảm thiểu phát thải khí nhà kính, cần nâng cao năng lực khoa học và công nghệ sản xuất, áp dụng công nghệ hiện đại và sạch, sử dụng năng lượng thiên nhiên, cùng với việc triển khai hệ thống xử lý chất thải hiệu quả.

Bài viết này cung cấp thông tin về nguyên nhân và thách thức của biến đổi khí hậu (BĐKH) tại Việt Nam, từ đó làm nổi bật tác động của BĐKH đối với sự phát triển kinh tế quốc gia Phân tích dữ liệu và mô hình Ricardian sẽ giúp làm rõ ảnh hưởng của BĐKH đến sự phát triển nông nghiệp tại Việt Nam.

2.3 Diễn biến khí hậu thế giới

Từ đầu thế kỷ XX, nhiệt độ bình quân toàn cầu đã tăng không liên tục, với xu thế nóng lên đạt 0,13°C/thập kỷ trong 50 năm qua, gần gấp đôi so với 100 năm trước Theo báo cáo của IPCC năm 2007, nhiệt độ toàn cầu đã tăng khoảng 0,74°C trong giai đoạn 1906 - 2005, và tốc độ tăng trong 50 năm gần đây cũng gần gấp đôi so với 50 năm trước đó, với sự gia tăng nhiệt độ trên lục địa nhanh hơn so với đại dương.

Lượng mưa đang có xu hướng tăng tại các khu vực vĩ độ cao hơn 30 độ, trong khi đó, khu vực nhiệt đới lại ghi nhận sự giảm lượng mưa từ giữa những năm 1970 Hiện tượng mưa lớn cũng đang có dấu hiệu gia tăng ở nhiều nơi trên thế giới.

2.4 Khái quát khí hậu Việt Nam

TỔNG QUAN LÝ THUYẾT

Biến đổi khí hậu và một số nguyên nhân gây nên BĐKH

Biến đổi khí hậu (BĐKH) là sự thay đổi của hệ thống khí hậu, bao gồm khí quyển, thủy quyển, sinh quyển và thạch quyển, do các nguyên nhân tự nhiên và nhân tạo Các biểu hiện rõ rệt của BĐKH bao gồm sự nóng lên của bầu khí quyển và bề mặt trái đất, cùng với sự thay đổi thành phần và chất lượng của khí quyển, gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường sinh thái và sự sống trên hành tinh.

Sự dâng cao của nước biển do băng tan đang gây ngập úng cho các vùng đất thấp, đồng thời dẫn đến sự di chuyển của các đới khí hậu tồn tại hàng ngàn năm, đe dọa sự sống của các loài sinh vật và hệ sinh thái Thêm vào đó, sự thay đổi cường độ hoạt động của quá trình hoàn lưu khí quyển và chu trình tuần hoàn nước tự nhiên đang diễn ra, cùng với sự thay đổi năng suất sinh học của các hệ sinh thái và chất lượng của thủy quyển, sinh quyển.

Khí hậu trên trái đất đang trải qua những biến đổi đáng kể, với sự dao động xung quanh nhiệt độ bình quân Theo báo cáo của IPCC (2007), từ năm 1920 đến 2005, nhiệt độ bề mặt địa cầu đã tăng gần 1°C, và sự tăng này diễn ra nhanh chóng trong 25 năm gần đây Nếu không thực hiện các biện pháp giảm khí thải theo Nghị định thư Kyoto, dự báo đến năm 2035, nhiệt độ sẽ tăng thêm 2°C, và có hơn 50% khả năng nhiệt độ sẽ tăng 5°C vào cuối thế kỷ.

2.1.2 Một số nguyên nhân gây nên BĐKH

Theo Báo cáo đánh giá lần thứ tư của Ban liên chính phủ về BĐKH (IPCC,

Sự nóng lên của hệ thống khí hậu đã được chứng minh rõ ràng qua số liệu quan trắc về sự gia tăng nhiệt độ không khí và nước biển, cùng với sự tan chảy nhanh chóng của băng và tuyết, dẫn đến mực nước biển tăng cao Nhiều nghiên cứu gần đây khẳng định rằng nguyên nhân chính của biến đổi khí hậu (BĐKH) là sự gia tăng khí nhà kính trong bầu khí quyển, chủ yếu do các hoạt động kinh tế của con người, chiếm tới 90% Từ thời kỳ tiền công nghiệp khoảng năm 1750, con người đã sử dụng ngày càng nhiều năng lượng, thải ra các khí gây hiệu ứng nhà kính, làm tăng nhiệt độ bề mặt trái đất Hiện nay, hàm lượng khí carbonic trong không khí cao hơn 30% - 35% so với thời kỳ tiền công nghiệp.

Nguyên nhân chính gây ra biến đổi khí hậu toàn cầu là sự gia tăng các hoạt động thải ra khí nhà kính, bao gồm khai thác quá mức tài nguyên rừng và các hệ sinh thái biển, ven bờ, cũng như sự gia tăng sản xuất công nghiệp sử dụng năng lượng hóa thạch như than đá, dầu mỏ và khí đốt Những hoạt động này thải ra một lượng lớn khí CO2, NOx và CFC vào môi trường Thêm vào đó, sản xuất nông nghiệp cũng đóng góp đáng kể với lượng khí CH4 và H2S, làm gia tăng hiệu ứng nhà kính.

Để phát triển kinh tế, nhiều quốc gia đã khai thác tài nguyên sinh thái một cách bền vững, dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng Để giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu, cần thiết phải hạn chế các yếu tố gây ra vấn đề này Tuy nhiên, điều này thường mâu thuẫn với lợi ích ngắn hạn của các quốc gia Bài viết sẽ phân tích những thách thức mà Việt Nam đang đối mặt với biến đổi khí hậu, từ đó làm rõ mức độ thiệt hại nếu không có các giải pháp hiệu quả để giảm thiểu tác động của nó.

Những thách thức của Việt Nam với BĐKH

Nhận thức về biến đổi khí hậu (BĐKH) ở Việt Nam còn hạn chế, đặc biệt là tại các khu vực nông thôn, khiến người dân chưa nhận thức rõ ràng về những nguy cơ mà BĐKH gây ra cho sinh kế của họ Hơn nữa, sự hiểu biết của các cán bộ lãnh đạo về tác động của BĐKH cũng chưa đầy đủ Các nghiên cứu và biện pháp ứng phó với BĐKH cần được nâng cao để tương xứng với những nỗ lực giảm thiểu phát thải khí nhà kính.

Việt Nam cần khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên để phát triển kinh tế, nhưng việc khai thác quá mức có thể dẫn đến tăng nguy cơ biến đổi khí hậu (BĐKH) và giảm khả năng thích ứng với nó Chẳng hạn, tình trạng phá rừng và việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch như xăng dầu đang gia tăng nhanh chóng trong thời gian gần đây.

Năng lực tài chính: Mức độ ưu tiên tài chính cho phát triển kinh tế tại Viêt

Việc chú trọng đến ảnh hưởng của biến đổi khí hậu (BĐKH) là rất quan trọng để đạt được mục tiêu phát triển bền vững Do đó, cần thiết phải kết hợp các yếu tố liên quan đến BĐKH với các mục tiêu phát triển nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững trong tương lai.

Để giảm thiểu phát thải khí nhà kính, cần nâng cao năng lực khoa học và công nghệ trong sản xuất Việc áp dụng công nghệ hiện đại, sử dụng công nghệ sạch và năng lượng thiên nhiên, cùng với hệ thống xử lý chất thải hiệu quả là rất quan trọng.

Bài viết này cung cấp cái nhìn tổng quan về nguyên nhân và thách thức của biến đổi khí hậu (BĐKH) tại Việt Nam, đồng thời nhấn mạnh tác động tiêu cực của BĐKH đối với sự phát triển kinh tế quốc gia Phân tích dữ liệu và mô hình Ricardian sẽ làm rõ hơn ảnh hưởng của BĐKH đến sự phát triển nông nghiệp Việt Nam.

Diễn biến khí hậu thế giới

Từ đầu thế kỷ XX, nhiệt độ bình quân toàn cầu đã tăng không liên tục, với xu thế nóng lên trong 50 năm qua đạt 0,13 °C mỗi thập kỷ, gần gấp đôi so với xu thế trong 100 năm qua Theo báo cáo của IPCC năm 2007, nhiệt độ toàn cầu đã tăng khoảng 0,74 °C từ năm 1906 đến 2005, và tốc độ tăng trong 50 năm gần đây gần gấp đôi so với 50 năm trước đó, trong đó nhiệt độ trên lục địa tăng nhanh hơn so với trên đại dương.

Lượng mưa đang có xu hướng tăng ở khu vực vĩ độ cao hơn 30 độ, trong khi đó, khu vực nhiệt đới lại ghi nhận sự giảm lượng mưa từ giữa những năm 1970 Hiện tượng mưa lớn cũng đang có dấu hiệu gia tăng tại nhiều khu vực trên toàn cầu.

Khái quát khí hậu Việt Nam

Việt Nam nằm trong vùng nội chí tuyến ở Đông Nam Á, trải dài trên khoảng 15 vĩ độ với địa hình phức tạp Khí hậu nơi đây chịu ảnh hưởng lớn từ gió mùa châu Á và tín phong Bắc bán cầu, tạo nên sự phong phú và đa dạng, đồng thời có mối liên hệ chặt chẽ với khu vực và toàn cầu.

2009) Vì thế diễn biến khí hậu Việt Nam cũng sẽ chịu ảnh hưởng chung của khí hậu trong vùng

2.4.1 Đặc điểm khí hậu của Việt Nam

Việt Nam, một quốc gia thuộc bán đảo Đông Dương, có diện tích 327.500 km² và đường biên giới trên đất liền dài 4.550 km Phía Bắc giáp Trung Quốc, phía Tây giáp Lào và Campuchia, trong khi phía Đông giáp biển Đông với chiều dài 1.650 km từ vĩ độ 23°23’ Bắc đến 8°27’ Bắc Đất liền Việt Nam có phần rộng nhất khoảng 500 km và phần hẹp nhất gần 50 km.

Khí hậu Việt Nam thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, với miền Bắc có bốn mùa rõ rệt hơn miền Nam Toàn quốc chia thành hai mùa chính: mùa khô từ đầu tháng 11 đến cuối tháng 4 và mùa mưa từ đầu tháng 5 đến cuối tháng 11 Ở một số tỉnh Nam Trung Bộ, mùa mưa kéo dài đến cuối tháng 12 Chế độ gió được chia thành hai loại: gió mùa hè mang mưa và gió mùa đông mang không khí lạnh, khô Trong những năm gần đây, nhiều hiện tượng thời tiết cực đoan đã xảy ra, gây thiệt hại lớn về người và tài sản ở nhiều địa phương.

Nhiệt độ bình quân năm: Theo Bộ TNMT (2009), Trong 50 năm qua (1958

Từ năm 2007, nhiệt độ bình quân năm ở Việt Nam đã tăng từ 0,5 đến 0,7 độ C, với tốc độ tăng nhanh hơn trong mùa khô so với mùa mưa Các khu vực phía Bắc có sự gia tăng nhiệt độ nhanh hơn so với phía Nam So với giai đoạn 1961-2000, nhiệt độ bình quân năm cao hơn so với giai đoạn 1931-1960 Xu hướng biến đổi nhiệt độ chia thành hai vùng rõ rệt: phía Bắc từ Huế trở ra tăng từ 0,2 đến 0,4 độ C, trong khi từ Huế vào miền Nam lại giảm từ 0,1 đến 0,2 độ C Nhiệt độ mùa mưa ở hầu hết các vùng tăng từ 0,2 đến 0,4 độ C, ngoại trừ một số khu vực như Tây Nguyên và Trung Bộ có sự giảm Nhiệt độ mùa khô tăng mạnh hơn, từ 0,4 đến 0,8 độ C Tuy nhiên, vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long vẫn giữ nhiệt độ bình quân ổn định, ít thay đổi.

Lượng mưa hàng năm tại các địa điểm khác nhau trong 9 thập kỷ qua (1911-2000) cho thấy xu thế biến đổi không đồng nhất, với những giai đoạn tăng và giảm rõ rệt.

Tóm lại, xu hướng biến đổi của nhiệt độ bình quân tăng trong những năm qua và lượng mưa tăng hoặc giảm không có xu hướng nhất định

2.4.2 Diễn biến khí hậu tại Việt Nam 2007- 2008

Nhiệt độ: Nhiệt độ bình quân năm 2007, 2008 dao động trong khoảng

18 0 C đến 28 0 C Tại các khu vực khác nhau nhiệt độ bình quân cũng khác nhau, ở Bắc Bộ từ 14,5 - 24,5 0 C, Trung Bộ 22 - 27 0 C, Tây Nguyên 18 -26 0 C, Nam Bộ 26

Năm 2008, độ lệch chuẩn của nhiệt độ bình quân trên toàn quốc cho thấy sự hụt chuẩn từ 0-1 độ C, trong khi một số khu vực có mức thấp hơn -0,5 độ C vào năm 2007.

Năm 2008, nhiệt độ trung bình toàn quốc ghi nhận sai lệch -0,1 độ C so với chuẩn, với một số khu vực vượt mức này (IMHEN, 2009) So với thập kỷ 1931 - 1940, nhiệt độ trung bình năm 2007 cao hơn từ 0,8 đến 1,3 độ C, và cũng cao hơn thập kỷ 1991 - 2000 từ 0,4 đến 0,5 độ C (Bộ TNMT, 2009).

Trong năm 2007, tổng lượng mưa tại các vùng dao động từ 1000mm đến 7050mm, trong khi năm 2008, lượng mưa giảm xuống còn từ 1000mm đến 4500mm Khu vực Tây Nguyên và Nam Trung Bộ có lượng mưa thấp hơn 2000mm, với mức cao nhất ghi nhận là 7059mm tại trạm Nam Đông (Huế) năm 2007 và 5239mm tại trạm Trà My (Quảng Nam) năm 2008 Ngược lại, Phan Rang (Ninh Thuận) ghi nhận lượng mưa thấp nhất là 695mm năm 2008 Phân bố tỷ chuẩn 1 của lượng mưa năm 2007 cho thấy hầu hết diện tích từ Hà Tĩnh trở vào có lượng mưa vượt chuẩn từ 100 đến trên 150%, đặc biệt là khu vực giữa Thừa Thiên Huế và Quảng Nam, trong khi Bắc Bộ có tỷ chuẩn thấp từ 50 đến dưới 100% Năm 2008, lượng mưa trên phần lớn diện tích nước ta cũng vượt chuẩn, chủ yếu từ 100 đến 150%, nhưng một số khu vực Bắc Bộ vẫn có lượng mưa hụt chuẩn.

Hà Tĩnh, Quảng Trị, phần lớn Tây Nguyên và một phần Đông Nam Bộ có tỷ lệ chuẩn từ dưới 75% đến dưới 100% Sông Mã (Sơn La) ghi nhận tỷ lệ chuẩn cao nhất với 180,6%, trong khi Plâycu (Gia Lai) có tỷ lệ chuẩn thấp nhất là 73,7% (IMHEN, 2009).

Gió mùa mùa hạ được xác định qua sự xuất hiện của mùa mưa Trong các năm 2007 và 2008, hoạt động của gió mùa đã diễn ra theo mức bình thường.

Tỷ lệ chuẩn về tổng lượng mưa thực tế so với lượng mưa bình quân từ năm 1971 đến 2000 dao động từ 0, với năm 2008 có lượng mưa cao hơn một chút Lượng mưa giảm trong các tháng mùa khô và tăng trong mùa mưa, với hầu hết các vùng kết thúc mùa mưa vào tháng 12, ngoại trừ khu vực Trung Trung Bộ và Tây Nam Bộ vẫn còn mưa trong tháng này Gió mùa đông biển được thể hiện qua tần suất các đợt không khí lạnh xâm nhập vào Việt Nam, trong hai năm 2007 và 2008, các đợt không khí lạnh gần đạt mức bình quân giai đoạn 1971-2000, nhưng lại kéo dài hơn, gây ra hiện tượng rét đậm, rét hại kéo dài tại Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ.

Theo báo cáo của WMO năm 2007, khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương ghi nhận 24 cơn bão, thấp hơn trung bình 3 cơn, trong khi khu vực biển Đông có 7 cơn bão và 3 áp thấp nhiệt đới, cũng thấp hơn trung bình chuẩn 3 cơn Tuy nhiên, số lượng bão và áp thấp nhiệt đới ảnh hưởng đến Việt Nam là 8 cơn, cao hơn trung bình 1 cơn Đến năm 2008, khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương có 22 cơn bão, trong khi Biển Đông ghi nhận 10 cơn bão và 5 áp thấp nhiệt đới, vượt mức chuẩn 2 cơn, với 11 cơn bão và áp thấp nhiệt đới tác động trực tiếp đến Việt Nam (IMHEN, 2009).

Trong hai năm 2007 và 2008, khí hậu Việt Nam không có nhiều biến động so với mức trung bình của các năm trước, vẫn tiếp tục theo xu hướng biến đổi khí hậu toàn cầu trong thế kỷ qua.

Kịch bản BĐKH Việt Nam

Kịch bản biến đổi khí hậu của Việt Nam, được Bộ Tài Nguyên và Môi Trường xây dựng năm 2009, dựa trên ba kịch bản phát thải khí nhà kính: phát thải cao, phát thải thấp và phát thải trung bình Các kịch bản này đã phân tích tác động của biến đổi khí hậu đối với nhiệt độ và lượng mưa tại bảy vùng khí hậu trên cả nước Dự báo, vào cuối thế kỷ 21, khí hậu tại tất cả các vùng của Việt Nam sẽ có nhiều biến đổi, với nhiệt độ bình quân năm tăng lên đáng kể.

2,3 o C Tổng lượng mưa năm và lượng mưa mùa mưa tăng trong khi lượng mưa mùa khô lại giảm dự báo cả năm lượng mưa tăng hơn 5%

Nhiệt độ mùa khô đang tăng nhanh hơn so với mùa mưa ở hầu hết các vùng, với tốc độ tăng cao hơn ở các khu vực phía Bắc so với phía Nam Theo dự báo, vào cuối thế kỷ 21, nhiệt độ trung bình năm sẽ tăng 1,5°C theo kịch bản phát thải thấp, 2,3°C theo kịch bản phát thải trung bình, và 2,9°C theo kịch bản phát thải cao so với giai đoạn 1980-1999.

Kịch bản biến đổi nhiệt độ trung bình Việt Nam ( 0 C/năm)

Nhiệt độ 2030 2050 2070 2100 Kịch bản thấp (B1) 0.7 1.1 1.4 1.5 Kịch bản trung bình (B2) 0.6 1.1 1.6 2.3 Kịch bản cao (A2) 0.7 1.2 1.8 2.9

Nguồn: Bộ TNMT (2009) và tác giả tính toán số bình quân cả nước

Lượng mưa: Theo kịch bản, (phụ lục 4) lượng mưa mùa khô giảm, lượng mưa mùa mưa và tổng lượng mưa năm tăng ở tất cả các vùng khí hậu

Bảng 2.2 Kịch bản biến đổi lượng mưa Việt Nam (%/năm)

Lượng mưa 2030 2050 2070 2100 Kịch bản thấp (B1) 1.5 2.6 3.2 3.4 Kịch bản trung bình (B2) 1.5 2.7 3.8 5.2 Kịch bản cao (A2) 1.5 2.6 4.0 6.6

Nguồn: Bộ TNMT (2009) và tác giả tính toán số bình quân cả nước

Theo bảng 2.2, dự báo lượng mưa năm sẽ tăng ở hầu hết các vùng trên cả nước vào cuối thế kỷ 21, với mức tăng tương ứng là 3,4%, 5,2% và 6,6% theo các kịch bản thấp, trung bình và cao Tuy nhiên, trong mùa khô, lượng mưa có khả năng giảm từ 2% đến 10% trên toàn quốc Ngược lại, trong mùa mưa, lượng mưa có thể tăng đến 15%, với các vùng miền Bắc có xu hướng tăng cao hơn so với miền Nam.

Theo kịch bản phát thải trung bình, nhiệt độ hầu hết các vùng trên cả nước sẽ tăng trong vài thập kỷ tới, mặc dù một số khu vực sẽ có mùa khô với nhiệt độ giảm nhẹ Dự báo đến cuối thế kỷ, nhiệt độ sẽ tăng từ 1,6 đến 2,6 độ C so với giai đoạn 1980-1999, trong đó vùng Tây Bắc có mức tăng cao nhất là 2,6 độ C, còn vùng Tây Nguyên có mức tăng thấp nhất là 1,6 độ C.

Theo kịch bản phát thải trung bình, lượng mưa trên cả nước đã tăng, với lượng mưa mùa khô giảm và mùa mưa tăng, dẫn đến tổng lượng mưa cả năm cũng gia tăng Đặc biệt, vùng Đồng Bằng Bắc Bộ ghi nhận mức tăng cao nhất (7,9%), trong khi Tây Nguyên có mức tăng thấp nhất (1,4%), và vùng Tây Bắc cũng có sự gia tăng đáng kể (7,4%).

Sự thay đổi nhiệt độ và lượng mưa dự báo đến cuối thế kỷ này khác nhau giữa các khu vực, với các vùng từ Bắc Trung bộ trở ra có mức tăng cao hơn Điều này cho thấy biến đổi khí hậu tại khu vực này diễn ra mạnh mẽ hơn, đòi hỏi nông hộ cần nâng cao khả năng thích nghi để ổn định sinh kế và phát triển bền vững.

Ngành nông nghiệp Việt Nam

Việt Nam, một quốc gia đang phát triển, có nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào nông nghiệp, với lĩnh vực này đóng góp hơn 20% GDP quốc gia Do đó, bất kỳ sự thay đổi nào, dù nhỏ, trong ngành nông nghiệp đều có thể ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của đất nước Nông nghiệp vẫn giữ vai trò quan trọng trong việc ổn định kinh tế xã hội của Việt Nam hiện nay.

Diện tích đất nông nghiệp của Việt Nam chiếm 29% tổng diện tích cả nước Vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) dẫn đầu với 63% diện tích đất nông nghiệp trong khu vực và đóng góp hơn 26,5% tổng diện tích đất nông nghiệp quốc gia, đồng thời là trung tâm sản xuất lúa gạo lớn nhất cả nước Trong khi đó, Tây Nguyên có 31% diện tích đất nông nghiệp, chủ yếu tập trung vào việc trồng các loại cây công nghiệp có giá trị cao như cà phê, tiêu và cao su.

Diện tích đất sản xuất nông nghiệp Việt Nam (1000 ha)

Stt Vùng Tổng diện tích Đất sản xuất nông nghiệp Tỷ trọng

2 Trung du và miền núi phía Bắc 953,7 1.426,4 15

7 Đồng bằng sông Cửu Long 4.051,9 2.550,7 63

Nguồn: Niên giám thống kê (2009) và tính toán của tác giả

Diện tích đất nông nghiệp được phân chia theo cây trồng, với tổng diện tích 6.282,5 ngàn ha, trong đó cây hàng năm chiếm 65% Cụ thể, diện tích lúa đạt 4.089,1 ngàn ha, tương đương 43%, trong khi cây trồng hàng năm khác là 2.134,6 ngàn ha, chiếm 22% Còn lại, cây trồng lâu năm có diện tích 3.316,3 ngàn ha, chiếm 35% tổng diện tích.

Cơ cấu kinh tế theo ngành: cùng với sự phát triển kinh tế quốc gia, cơ cấu

GDP nông nghiệp đóng góp vào tăng trưởng quốc gia cũng giảm từ 38,7% năm

1990 xuống 27,8% năm 1995; 24,5% năm 2000; 20,9% năm 2005; 20,4% năm

Mặc dù tỷ lệ đóng góp của ngành nông nghiệp vào GDP quốc gia giảm từ 22,2% năm 2008, nhưng giá trị sản xuất nông nghiệp lại tăng mạnh, với mức tăng trung bình 32% mỗi năm trong giai đoạn 2000-2008.

Cơ cấu ngành trồng trọt trong sản xuất nông nghiệp chiếm 75,2% trong giai đoạn 2000-2008, với tốc độ tăng trưởng bình quân 5,4% mỗi năm, mặc dù có những năm giảm sút, đặc biệt là ở đầu thập kỷ này Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng của ngành trồng trọt đã đạt trên 10% mỗi năm, trong khi diện tích đất sản xuất nông nghiệp không có sự gia tăng đáng kể Điều này cho thấy hiệu quả của việc đầu tư vào ứng dụng khoa học công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp.

Bảng 2.4 Giá trị sản xuất nông nghiệp Việt Nam (ĐVT: 1000 tỷ đồng)

Giá thực tế Giá so sánh 1994 Năm Tổng

SXNN Trồng trọt Tỷ lệ (%) Tổng

SXNN Trồng trọt Tốc độ tăng (%)

Nguồn: : Niên giám thống kê (2009) và tính toán của tác giả

Cơ cấu cây trồng trong ngành trồng trọt cho thấy rằng hơn 75% giá trị sản xuất nông nghiệp đến từ trồng trọt, trong đó cây lương thực chiếm 59%, cây công nghiệp 24%, và rau củ, đậu, cây ăn trái chiếm 15% Tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 4,1% mỗi năm, với cây lương thực có tốc độ tăng thấp nhất là 3,3%, trong khi nhóm rau đậu và cây công nghiệp có tốc độ tăng cao hơn, lần lượt là 6,2% và 5,4%.

Bảng 2.5 Giá trị sản xuất ngành trồng trọt phân theo nhóm cây trồng

(giá so sánh 1994.) ĐVT: nghìn tỷ đồng

Tổng số Lương thực Rau đậu Cây công nghiệp Cây ăn quả

Năm S.lượng % S.lượng % S.lượng % S.lượng % S.lượng %

Ghi chú: Số % là tăng/giảm so với năm trước; Nguồn: Niên giám thống kê (2009)

Ngành trồng trọt Việt Nam chủ yếu tập trung vào cây lương thực, nhưng gần đây đã chứng kiến sự gia tăng trong phát triển cây công nghiệp Tốc độ tăng trưởng của các nhóm cây trồng không đồng đều, phụ thuộc vào thị trường và thời tiết hàng năm Sự phụ thuộc vào cây lương thực có thể dẫn đến rủi ro về an ninh lương thực và nghèo đói, đặc biệt ở các vùng nông thôn, khi xảy ra biến động như giảm giá thị trường, biến đổi khí hậu, hạn hán và lũ lụt.

Lý thuyết mô hình Ricardian

Nghiên cứu tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH) lên nông nghiệp đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trên toàn cầu Các nhà khoa học nông nghiệp đã áp dụng nhiều phương pháp khác nhau để đánh giá tác động của BĐKH, trong đó có hai nhóm mô hình chính Nhóm đầu tiên là mô hình đánh giá tổng quát, xem xét ảnh hưởng tổng thể của tất cả các ngành đến kinh tế Nhóm thứ hai là mô hình đánh giá riêng phần, tập trung vào từng ngành cụ thể Trong nhóm này, nhiều mô hình như mô hình thích nghi của cây trồng theo vùng sinh thái và mô hình hàm sản xuất đã được sử dụng để khảo sát tác động của các yếu tố khí hậu lên sản lượng nông sản Gần đây, mô hình phân tích Ricardian đã trở nên phổ biến trong nghiên cứu BĐKH, giúp đánh giá ảnh hưởng của các điều kiện khí hậu khác nhau lên nông hộ.

Mô hình Ricardian mang lại nhiều thuận lợi, như khả năng kết hợp các yếu tố ảnh hưởng riêng biệt, giúp nông hộ tối ưu hóa lợi nhuận thông qua việc điều chỉnh phương thức canh tác, sử dụng đất, loại cây trồng và thời vụ thu hoạch để thích ứng với biến đổi khí hậu Các yếu tố này còn phụ thuộc vào giá thị trường đầu vào và đầu ra trong sản xuất Thêm vào đó, mô hình này sử dụng dữ liệu thứ cấp, dễ dàng thu thập cùng với dữ liệu khảo sát Tuy nhiên, điểm yếu của mô hình Ricardian là không đánh giá được ảnh hưởng của từng loại cây trồng đối với biến đổi khí hậu, không xem xét tác động của giá thị trường nông sản và thiếu khả năng giải thích quá trình tự tác động trong tương lai.

Tóm lại, để dánh giá tác động của BĐKH lên sản xuất nông nghiệp, FAO

Bài viết đề xuất ba phương pháp nghiên cứu: đầu tiên, phương pháp sử dụng số liệu chéo trên mô hình phân tích Ricardian dựa vào thiết kế khảo sát điều tra; thứ hai, phương pháp tiếp cận kinh tế nông nghiệp thông qua việc thực hiện thí nghiệm; và cuối cùng, phương pháp tiếp cận vùng sinh thái nông nghiệp dựa trên đánh giá khả năng thích nghi của cây trồng tại các vùng khác nhau.

2.7.1 Mô hình phân tích Ricardian

Mô hình Ricardian đang được nhiều nhà nghiên cứu áp dụng để phân tích tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH) đối với sản xuất nông nghiệp Đây là một mô hình kinh tế lượng vi mô, thường sử dụng dữ liệu chéo để thực hiện các phân tích (Seo & Mendelsohn, 2008; Kurukulasuruya & Mendelsohn, 2008) Mô hình này được phát triển dựa trên lý thuyết giá trị đất đai của David Ricardo, trong đó thu nhập ròng của nông hộ và giá trị đất được phản ánh qua năng suất đất Nó đã được áp dụng thành công tại Mỹ (Mendelsohn và cộng sự, 1994, 1996) và nhiều quốc gia đang phát triển như Brasil, Cameroon, Ấn Độ, Trung Quốc và các nước ở Châu Mỹ La Tinh.

Mô hình Ricardian cơ bản xác định thu nhập ròng của nông hộ bằng cách lấy tổng thu nhập từ sản xuất nông nghiệp trừ đi chi phí sản xuất Thu nhập này chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố đầu vào như vật tư, giống, công lao động, cũng như các yếu tố khí hậu như nhiệt độ, lượng mưa, độ ẩm, và các yếu tố thủy văn như nguồn nước Bên cạnh đó, loại đất sản xuất, các yếu tố kinh tế xã hội và đặc điểm của nông hộ cũng đóng vai trò quan trọng, được thể hiện qua mô hình tổng quát.

NI là thu nhập ròng của nông hộ, được xác định bởi giá thị trường đầu ra p q và sản lượng đầu ra q của nông sản Các yếu tố đầu vào sản xuất T, bao gồm nguyên liệu và các yếu tố khí hậu W, cùng với biến liên quan đến nguồn nước H và đất đai S, cũng ảnh hưởng đến thu nhập Ngoài ra, các biến kinh tế xã hội C của nông hộ và giá nguyên vật liệu đầu vào p T đóng vai trò quan trọng trong việc xác định hiệu quả sản xuất nông nghiệp.

Mendelsohn (1994) cho rằng nông hộ luôn nỗ lực tối ưu hóa lợi nhuận khi điều kiện đầu vào trên đất sản xuất thay đổi Họ lựa chọn loại cây trồng, hình thức sản xuất và đầu vào để đạt được lợi nhuận tối đa Do đó, giá trị đầu ra q phụ thuộc vào các yếu tố đầu vào (T) như lao động, vốn, giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và nước Các yếu tố khác như khí hậu (W) bao gồm nhiệt độ, lượng mưa, nắng, gió và độ ẩm không khí, cũng ảnh hưởng đến sản xuất Đặc điểm kinh tế xã hội (C) của nông hộ, yếu tố đất đai (S) như loại đất, độ phì và quy mô đất, cùng với nguồn nước (H) và các yếu tố khác (K) được thể hiện qua phương trình q = f(T,W,C,S,H,K).

Từ đó hàm lợi nhuận (Thu nhập ròng) được biểu diễn lại như sau:

Tối đa hóa lợi nhuận phụ thuộc vào yếu tố đầu vào và đầu ra trong sản xuất, cũng như các điều kiện sản xuất Do đó, hàm lợi nhuận được xác định dựa trên những yếu tố này.

NI (pq, pT) = max q, T [pqq – pTT: (q,T) Є M; pq,pT>0] (4)

Với p q , p T là giá của yếu tố đầu ra và đầu vào, M là điều kiện sản xuất

Tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH) lên thu nhập ròng của nông hộ có thể được biểu diễn qua hàm lợi nhuận, bằng cách tính lợi nhuận tại thời điểm hiện tại sau khi trừ đi lợi nhuận tại thời điểm ban đầu, dưới ảnh hưởng của các yếu tố đầu vào T và khí hậu W, như được thể hiện trong phương trình (5).

Với ∆NI là lợi nhuận của nông hộ khi khí hậu thay đổi trong một khoảng thời gian xác định

Nghiên cứu cho thấy rằng hành vi ra quyết định của nông hộ trong việc lựa chọn các yếu tố sản xuất, cả trong ngắn hạn và dài hạn, phụ thuộc vào việc tính toán đầu vào (T) dựa trên giá cả thị trường của đầu vào và giá thị trường kỳ vọng đầu ra, đồng thời chịu ảnh hưởng của yếu tố thời tiết, khí hậu và các yếu tố khác.

Mô hình Ricardian giả định rằng giá cả thị trường đầu vào và đầu ra là không xác định và bị bỏ qua trong phân tích, vì chúng phụ thuộc vào nhiều yếu tố khó đoán định Để ước lượng giá trị của hàm lợi nhuận, cần dựa vào giá ước lượng của các yếu tố đầu vào như kinh tế xã hội, khí hậu, đất đai và nguồn nước, thay vì giá thị trường Đồng thời, nông hộ không thể biết trước giá thị trường đầu ra, nên chỉ có thể sử dụng giá đầu ra kỳ vọng trên tất cả các thị trường Giả thuyết này là rất quan trọng cho nghiên cứu; nếu nó bị phá vỡ, thì giá trị của nghiên cứu sẽ giảm sút do ước lượng của mô hình không còn ý nghĩa.

Tóm lại, mô hình Ricardian cơ bản được mô tả như sau:

Sai số của mô hình được ký hiệu là ui, trong khi W đại diện cho vec-tơ các biến khí hậu theo dạng tuyến tính và phi tuyến tính H là vec-tơ chứa các biến đặc điểm hộ gia đình, S là vec-tơ các biến liên quan đến đất đai và cách sử dụng đất, và C là vec-tơ đại diện cho nguồn nước tưới tiêu cùng hình thức tưới tiêu.

Mô hình Ricardian áp dụng dạng phi tuyến tính với các biến độc lập là nhiệt độ và lượng mưa bình phương Xu hướng tác động của khí hậu được dự báo thông qua đồ thị bậc hai, dựa trên giá trị trung bình của dữ liệu nghiên cứu.

Do đó tác động biên của biến khí hậu lên thu nhập ròng của nông hộ được tính bằng công thức sau:

Tác động biên của yếu tố khí hậu đến thu nhập ròng hàng năm của nông hộ được xác định bằng tổng hợp tác động của các mùa trong năm.

[dNI/dW] = ([dNI/dW] d + [dNI/dW] w ) (10)

Trong đó [dNI/dW] d là tác động biên mùa khô, [dNI/dW] w là tác động biên mùa mưa

Giá trị tác động biên là một hàm bậc nhất phụ thuộc vào yếu tố khí hậu (W) Khi W thay đổi một đơn vị, chẳng hạn như tăng hoặc giảm 1°C đối với nhiệt độ trung bình hoặc 1mm/tháng đối với lượng mưa, lợi nhuận của nông hộ cũng sẽ thay đổi tương ứng Giá trị này chính là giá trị tác động biên của biến đổi khí hậu lên nông hộ.

[dNI/dW]hộ = [dNI/d(W+1)]- [dNI/dW] (11) Giá trị tác động biên theo đơn vị diện tích (hecta) được tính như sau:

[dNI/dW]ha = [dNI/dW]hộ * DT(ha/hộ) (12)

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

HIỆN TRẠNG SẢN XUẤT NGÀNH TRỒNG TRỌT VIỆT NAM

TÁC ĐỘNG KINH TẾ CỦA YẾU TỐ KHÍ HẬU

Ngày đăng: 18/08/2021, 10:49

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w