1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Tài liệu Tác Động Hành Vi Nhà Quản Lý Đến Quyết Định Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp

89 15 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Tác Động Hành Vi Nhà Quản Lý Đến Quyết Định Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp
Tác giả Hoàng Thị Hạnh
Người hướng dẫn TS. Hay Sinh
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế Thành Phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Tài Chính – Ngân Hàng
Thể loại luận văn thạc sĩ kinh tế
Năm xuất bản 2012
Thành phố TP. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 89
Dung lượng 856,42 KB

Cấu trúc

  • BÌA

  • TÓM TẮT

  • MỤC LỤC

  • DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

  • DANH MỤC HÌNH

  • DANH MỤC BẢNG

  • LỜI MỞ ĐẦU

    • 1. Tính cấp thiết, ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

    • 2. Mục đích nghiên cứu

    • 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

    • 4. Phương pháp nghiên cứu

    • 5. Kết cấu luận văn

  • CHƯƠNG 1CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẤU TRÚC VỐN VÀ HÀNH VI CÁ NHÂN

    • 1.1 Lý thuyết tài chính hành vi

    • 1.2 Nghiên cứu thực nghiệm về tác động của hành vi nhà quản lý đếnquyết định cấu trúc vốn

      • 1.2.1 Sự lạc quan (Optimism) và cấu trúc vốn

      • 1.2.2 Khẩu vị rủi ro (Risk Tolerance) và cấu trúc vốn

      • 1.2.3 Tính bất định (Intolerance to Ambiguity) và cấu trúc vốn

      • 1.2.4 Sự chinh phục (Sensation Seeking) và cấu trúc vốn

      • 1.2.5 Các nghiên cứu về tài chính hành vi ở Việt Nam

    • Kết luận chương 1

  • CHƯƠNG 2DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

    • 2.1 Phương pháp nghiên cứu

      • 2.1.1 Các biến nghiên cứu

        • 2.1.1.1 Biến đại diện cho tính cách nhà quản lý

        • 2.1.1.2 Biến đại diện làm rõ thêm cho tính cách nhà quản lý

        • 2.1.1.3 Biến đại diện làm rõ thêm cho cấu trúc vốn

      • 2.1.2 Phân tích thống kê mô tả

      • 2.1.3 Phân tích tương quan

      • 2.1.4 Phân tích hồi quy

    • 2.2 Dữ liệu

      • 2.2.1 Đối tượng khảo sát

      • 2.2.2 Phương thức khảo sát

      • 2.2.3 Cấu trúc bảng hỏi & Thang đo

        • 2.2.3.1 Cấu trúc bảng hỏi

        • 2.2.3.2 Thang đo liên quan tới hành vi nhà quản lý

        • 2.2.3.3 Thang đo liên quan tới quyết định cấu trúc vốn

        • 2.2.3.4 Thang đo liên quan tới các biến hỗ trợ thông tin của nhà quản lý

        • 2.2.3.5 Thang đo liên quan tới các biến hỗ trợ thông tin của công ty

      • 2.2.4 Tỷ lệ người trả lời

    • Kết luận chương 2

  • CHƯƠNG 3KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH

    • 3.1 Kết quả nghiên cứu

      • 3.1.1 Phân tích thống kê mô tả

        • 3.1.1.1 Đặc điểm của nhà quản lý

        • 3.1.1.2 Thông tin của nhà quản lý

        • 3.1.1.3 Thông tin về công ty

      • 3.1.2 Đánh giá độ tin cậy của thang đo

        • 3.1.2.1 Đánh giá độ tin cậy của thang đo biến độc lập Khẩu vị rủi ro

        • 3.1.2.2 Đánh giá độ tin cậy của thang đo biến độc lập Sự lạc quan

        • 3.1.2.3 Đánh giá độ tin cậy của thang đo biến độc lập Tính bất định

        • 3.1.2.4 Đánh giá độ tin cậy của thang đo biến độc lập Sự chinh phục

      • 3.1.3 Phân tích tương quan

        • 3.1.3.1 Tương quan giữa các biến đặc điểm của nhà quản lý

        • 3.1.3.2 Tương quan giữa các biến đặc điểm của nhà quản lý và quyếtđịnh cấu trúc vốn

      • 3.1.4 Phân tích hồi quy

        • 3.1.4.1 Phân tích hồi quy đối với đòn bẩy tài chính

        • 3.1.4.2 Phân tích hồi quy đối với các nguồn tài trợ

    • 3.2 Gợi ý chính sách

    • Kết luận chương 3

  • KẾT LUẬN, HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI &HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO

  • Kết luận

  • Hạn chế của đề tài & hướng nghiên cứu tiếp theo

  • DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • BẢNG KHẢO SÁTPHẦN A: ĐẶC ĐIỂM CỦA NHÀ QUẢN LÝ

  • PHẦN B: THÔNG TIN TÀI CHÍNH

  • PHẦN C: THÔNG TIN CHUNG

Nội dung

Tính cấp thiết, ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Các lý thuyết truyền thống cho rằng quyết định cấu trúc vốn ảnh hưởng đến giá trị công ty Lý thuyết đánh đổi của Kraus & Litzenberger (1973) chỉ ra rằng doanh nghiệp cân nhắc giữa lợi ích từ tấm chắn thuế do vay nợ và chi phí phá sản Lý thuyết đại diện của Jensen & Meckling (1976) nhấn mạnh mối liên hệ giữa cổ đông và nhà quản lý, cho rằng chi phí đại diện giúp tối ưu hóa nợ và vốn chủ sở hữu Ngoài ra, lý thuyết trật tự phân hạng của Myers (1984) cho rằng công ty ưu tiên tài trợ từ nguồn nội hơn nguồn ngoại Mặc dù các lý thuyết này cho thấy tầm quan trọng của cấu trúc vốn tối ưu cho sự thành công của doanh nghiệp, nhưng chúng cũng có hạn chế trong việc giải thích một số trường hợp cụ thể, dẫn đến những tranh luận tiếp tục trong giới nghiên cứu.

Lý thuyết tài chính hành vi đã thay thế các giả định nghiêm ngặt của lý thuyết truyền thống bằng những giả định thực tế và linh hoạt hơn, nhằm giải thích những vấn đề mà lý thuyết cũ chưa giải quyết được Nghiên cứu của Hambrick và Mason (1984) chỉ ra rằng hành vi của nhà quản lý có ảnh hưởng đáng kể đến giá trị hoạt động của công ty Nhiều tác giả, như Bertrand, đã nghiên cứu phong cách quản lý và tác động của nhà quản lý đối với chính sách tài chính của công ty, nhấn mạnh sự quan trọng của hành vi cá nhân trong các quyết định tài chính.

Nghiên cứu về sự tự tin của giám đốc điều hành và chính sách đầu tư của công ty đã được nhiều tác giả thực hiện, bao gồm Schoar (2003), Malmendier và Tate (2004) với bài viết về sự tự tin của nhà quản lý, cùng với Ben-David, Harvey và Graham (2007) nghiên cứu về sự tự tin trong quyết định công ty Graham, Harvey và Puri (2009) cũng đã phân tích hành vi của nhà quản lý và quyết định công ty Thêm vào đó, Daskalakis cùng các cộng sự đã khám phá vai trò của hành vi cá nhân trong cấu trúc vốn và quyết định tài chính của công ty.

Năm 2011, nghiên cứu của Tatjana Berg về "Ảnh hưởng của hành vi cá nhân đối với quyết định cấu trúc vốn" đã đóng góp quan trọng vào lý thuyết thực nghiệm về cấu trúc vốn toàn cầu Do đó, cần thiết phải tiến hành các nghiên cứu thực nghiệm về tài chính hành vi tại Việt Nam, đặc biệt là ở thành phố Hồ Chí Minh Từ đó, tác giả đã chọn đề tài "Tác động hành vi nhà quản lý đến quyết định cấu trúc vốn của doanh nghiệp" cho luận văn nghiên cứu của mình.

Mục đích nghiên cứu

Luận văn "Tác động hành vi nhà quản lý đến quyết định cấu trúc vốn của doanh nghiệp" nghiên cứu mối quan hệ giữa các đặc điểm của nhà quản lý và quyết định cấu trúc vốn của doanh nghiệp Nghiên cứu cũng xem xét mức độ tác động của những đặc điểm này đối với quyết định cấu trúc vốn, nhằm trả lời các câu hỏi liên quan đến ảnh hưởng của hành vi nhà quản lý trong bối cảnh quản trị tài chính doanh nghiệp.

1 Có hay không sự tồn tại giữa mối quan hệ hành vi nhà quản lý và quyết định cấu trúc vốn ở Việt Nam?

2 Nếu có, mức độ ảnh hưởng của hành vi nhà quản lý đến quyết định cấu trúc vốn như thế nào?

Luận văn nghiên cứu tác động của hành vi nhà quản lý, bao gồm sự lạc quan, khẩu vị rủi ro, sự chinh phục và tính bất định, đến quyết định sử dụng đòn bẩy tài chính và lựa chọn nguồn tài trợ Ngoài ra, các yếu tố như độ tuổi, giới tính, học vấn, chức vụ của nhà quản lý, cũng như ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh, quy mô và yếu tố xuất khẩu của công ty cũng được xem xét một cách hợp lý.

Phương pháp nghiên cứu

Để trả lời các câu hỏi nghiên cứu, tác giả đã áp dụng phương pháp điều tra bằng bảng hỏi để thu thập dữ liệu cần thiết Tiếp theo, tác giả sử dụng phân tích tương quan và phân tích hồi quy để đánh giá mối quan hệ và đo lường tác động của hành vi nhà quản lý đối với quyết định cấu trúc vốn.

Tất cả các phân tích trên đều được thực hiện qua phần mềm SPSS và Excel.

Kết cấu luận văn

Luận văn được cấu trúc thành ba chương chính Chương 1 cung cấp cơ sở lý luận về cấu trúc vốn và hành vi cá nhân, đồng thời trình bày các nghiên cứu nổi bật liên quan đến đề tài tại Việt Nam và trên thế giới Chương 2 mô tả phương pháp thu thập dữ liệu và các phương pháp nghiên cứu được áp dụng, cùng với việc phân tích chi tiết các biến phụ thuộc và độc lập Cuối cùng, Chương 3 trình bày kết quả nghiên cứu, thảo luận về những phát hiện đạt được, đưa ra gợi ý chính sách và nêu rõ giới hạn của đề tài, từ đó mở ra hướng nghiên cứu mới trong tương lai.

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẤU TRÚC VỐN VÀ HÀNH VI CÁ NHÂN

Lý thuyết tài chính hành vi

Tài chính hành vi, mặc dù đã được nghiên cứu từ cuối thế kỷ 19, chỉ thực sự đạt được những thành tựu đáng kể vào những năm cuối thế kỷ 20 Các nghiên cứu của nhà tâm lý học Jean-Gabriel De Tarde được coi là nền tảng trong việc áp dụng tâm lý học vào lĩnh vực kinh tế Đến cuối thế kỷ 20, tài chính hành vi đã có những bước tiến quan trọng, đáng chú ý nhất là việc nhận giải Nobel kinh tế.

Năm 2002, giải Nobel Kinh tế lần đầu tiên được trao cho Daniel Kahneman, một nhà tâm lý học nổi bật với những đóng góp quan trọng trong việc áp dụng tâm lý học vào kinh tế Ông cùng với Amos Tversky đã thực hiện nhiều nghiên cứu đáng chú ý, bao gồm "Judgment under Uncertainty: Heuristics and Biases" (1974) và "Prospect Theory: An Analysis of Decision under Risk", góp phần làm sáng tỏ cách thức con người ra quyết định trong điều kiện không chắc chắn và rủi ro.

In 1979, the work "Rationality in Psychology: The Contrast with Economics Rational Choice and the Framing of Decisions" laid the groundwork for understanding decision-making processes This was followed by the 1986 publication "Advances in Prospect Theory: Cumulative Presentation of Uncertainty," which further explored how people perceive risk Robert Shiller's influential book "Irrational Exuberance," released in 2000, predicted the global stock market crash and became a bestseller, later updated to include the 2005 U.S housing bubble Additionally, researchers such as Baker, Wurgler, Bertrand, Schoar, Delong, Shleifer, Summers, Waldmann, Graham, Hackbarth, Landier, and Thesmas have contributed significantly to the field.

Nghiên cứu của Baker và các đồng nghiệp vào năm 2004 trong tác phẩm “Behavioral Corporate Finance: A Survey” chỉ ra rằng hành vi trong lĩnh vực tài chính được phát triển theo hai hướng: từ nhà đầu tư bất hợp lý và nhà quản lý bất hợp lý Hướng thứ nhất giả định rằng các nhà quản lý luôn đưa ra quyết định hợp lý, trong khi hướng thứ hai lại cho rằng các nhà quản lý có thiên lệch nhận thức về tốc độ tăng trưởng và rủi ro dòng thu nhập tương lai của công ty Những nhà quản lý này thường đánh giá cao tốc độ tăng trưởng dòng thu nhập tương lai và đánh giá thấp rủi ro, dẫn đến việc họ tin rằng thị trường định giá thấp giá trị công ty Do đó, họ cho rằng việc phát hành cổ phiếu tốn kém hơn, từ đó ưu tiên sử dụng nguồn tài trợ nội bộ hoặc phát hành nợ vay ở mức cao hơn để tài trợ cho các dự án đầu tư dài hạn.

Nghiên cứu thực nghiệm về tác động của hành vi nhà quản lý đến quyết định cấu trúc vốn

Nhiều nghiên cứu của các nhà kinh tế học đã chỉ ra rằng hành vi của nhà quản lý ảnh hưởng đến quyết định cấu trúc vốn, tập trung vào các đặc tính như khẩu vị rủi ro, sự lạc quan, sự chinh phục và tính bất định Các nghiên cứu được chia thành hai nhóm: nhóm thứ nhất cho rằng nhà quản lý lạc quan và ưa thích rủi ro thường sử dụng đòn bẩy tài chính cao hơn và phát hành nợ nhiều hơn, trong khi nhóm thứ hai cho thấy nhà quản lý lạc quan có xu hướng phát hành cổ phần mới hoặc trái phiếu chuyển đổi để giảm thiểu rủi ro Bài viết sẽ trình bày một số nghiên cứu tiêu biểu về tác động của hành vi nhà quản lý đến cấu trúc vốn, đặc biệt là tại các doanh nghiệp ở Tp.HCM.

1.2.1 Sự lạc quan (Optimism) và cấu trúc vốn

Trong nghiên cứu "Managerial Optimism and Corporate Finance," Heaton (2002) phân tích thiên lệch nhận thức của nhà quản lý trong việc lựa chọn nguồn tài trợ và dự đoán dòng tiền tương lai của công ty Thiên lệch nhận thức xảy ra khi nhà quản lý quá lạc quan, đánh giá cao khả năng đạt lợi nhuận tốt và thấp xác suất gặp phải lợi nhuận xấu, trong khi thị trường hoạt động hiệu quả với các nhà đầu tư lý trí (Gilson 1989) Nghiên cứu cho thấy nhà quản lý lạc quan tin rằng công ty sẽ đạt lợi nhuận tốt hơn dự đoán của thị trường, dẫn đến việc họ cho rằng thị trường định giá thấp chứng khoán rủi ro, làm tăng chi phí phát hành chứng khoán rủi ro Do đó, họ ưu tiên lựa chọn nguồn tài trợ nội bộ để tối thiểu hóa chi phí, từ chối các dự án đầu tư tốt vì cho rằng nguồn tài trợ bên ngoài sẽ đắt đỏ hơn Ngoài ra, nhà quản lý lạc quan thường đánh giá cao cơ hội đầu tư và có thể đầu tư vào các dự án có NPV âm nếu họ tin rằng dự án đó là tốt Họ sử dụng dòng tiền nhàn rỗi để thực hiện các dự án đầu tư, nhưng điều này có thể gây bất lợi và khiến việc phát hành nợ trở nên hợp lý hơn, giúp giảm mâu thuẫn giữa nhà quản lý và cổ đông hiện hữu.

Hacbarth (2008) đã mở rộng mô hình lý thuyết trật tự phân hạng cơ bản để phân tích tác động của hành vi nhà quản lý đối với quyết định cấu trúc vốn trong nghiên cứu "Managerial Traits and Capital Structure Decision" Tác giả giả định rằng nhà đầu tư và nhà quản lý đều là những người duy lý, nhưng nhà quản lý có thiên lệch nhận thức về tăng trưởng và rủi ro Cụ thể, nhà quản lý lạc quan thường đánh giá cao tỷ lệ tăng trưởng trong khi nhà quản lý quá tự tin lại đánh giá thấp rủi ro Những thiên lệch này ảnh hưởng đến quyết định cấu trúc vốn, dẫn đến sự khác biệt giữa đánh giá của họ và thị trường Nghiên cứu cho thấy, nhà quản lý có thiên lệch nhận thức về tăng trưởng thường chọn mức vay nợ cao hơn, trong khi nhà quản lý thiên lệch nhận thức về rủi ro ưu tiên phát hành cổ phần Nếu nhà quản lý có thiên lệch vừa phải và nhà đầu tư duy lý, giá trị công ty có thể gia tăng nhờ việc giảm mâu thuẫn lợi ích và cải thiện hiệu quả đầu tư Tuy nhiên, thiên lệch quá mức có thể dẫn đến việc sử dụng vay nợ cao, gây hại cho hoạt động công ty.

Năm 2009, Graham và Puri đã tiến hành nghiên cứu mang tên “Managerial Attitudes and Corporate Actions”, tập trung vào tác động của hành vi nhà quản lý đối với hoạt động công ty Nghiên cứu xem xét các yếu tố như sự lạc quan, khẩu vị rủi ro và ưa thích thời gian thông qua khảo sát Kết quả cho thấy, nhà quản lý lạc quan hơn về hoạt động công ty so với thị trường có xu hướng chọn cấu trúc vốn thiên về nợ, đặc biệt là nợ ngắn hạn Ngoài ra, những nhà quản lý có khẩu vị rủi ro cao hơn cũng có xu hướng ưa thích tài trợ cho cơ hội đầu tư mới bằng việc phát hành nợ vay hơn so với những người có ác cảm với rủi ro.

Berg (2011) đã mở rộng nghiên cứu về sự thiên lệch hành vi của các nhà quản lý lạc quan đối với cấu trúc vốn, tiếp nối các nghiên cứu trước đó trong luận văn của mình.

Nghiên cứu về "Tác động của các đặc điểm tính cách đến quyết định cấu trúc vốn" cho thấy rằng những nhà quản lý có tính cách lạc quan thường có thiên lệch nhận thức về tăng trưởng, tin rằng tỷ lệ tăng trưởng của công ty sẽ cao hơn so với dự đoán của thị trường Họ cho rằng thị trường định giá thấp giá trị chứng khoán, dẫn đến việc phát hành cổ phần mới trở nên tốn kém hơn so với phát hành nợ Mặc dù tác giả Hackbarth (2008) cho rằng các nhà quản lý này sẽ ưa chuộng phát hành nợ hơn vốn chủ sở hữu, kết quả nghiên cứu lại cho thấy họ lại thích phát hành cổ phần hơn và nếu phát hành nợ, họ sẽ chọn trái phiếu chuyển đổi Kết quả này trái ngược với kỳ vọng ban đầu và các nghiên cứu trước đó, nhưng cần được xem xét lại do thời gian nghiên cứu rơi vào giai đoạn khủng hoảng nợ Châu Âu và quy mô mẫu chỉ có 94 người, không đủ lớn để khẳng định độ tin cậy của kết quả.

Hà Lan có 13 người và Hy Lạp có 34 người)

1.2.2 Khẩu vị rủi ro (Risk Tolerance) và cấu trúc vốn

Khẩu vị rủi ro là một khái niệm quan trọng trong kinh tế và tài chính, dùng để đo lường mức độ chấp nhận rủi ro của cá nhân trong các tình huống khác nhau Khẩu vị rủi ro được chia thành ba nhóm chính: (1) sợ rủi ro, (2) bàng quan với rủi ro, và (3) ưa thích rủi ro Những người ưa thích rủi ro sẵn lòng chấp nhận rủi ro cao hơn để có cơ hội đạt được lợi nhuận lớn hơn, trong khi những người sợ rủi ro thường chọn những lựa chọn an toàn để tránh rủi ro Người bàng quan với rủi ro đưa ra quyết định dựa trên kinh nghiệm từ những tình huống tương tự trước đó, thay vì chấp nhận những thay đổi lớn.

Nghiên cứu "Agency Costs, Balance Sheets and The Business Cycle" của Lowe và Rohling (1993) phân tích tác động của chu kỳ kinh doanh đến sự thay đổi vốn cổ phần của các công ty Mỹ Nghiên cứu chỉ ra rằng nhà quản lý có xu hướng e ngại rủi ro sẽ đưa ra quyết định đầu tư dựa trên điều kiện tài chính của công ty Khi nhà quản lý ưa thích rủi ro, họ thường sử dụng đòn bẩy tài chính cao hơn, tạo ra nhiều cơ hội và tăng nguồn thu nhập cho bản thân Tuy nhiên, việc vay nợ quá mức cũng làm gia tăng rủi ro về biến động dòng tiền và có thể dẫn đến kiệt quệ tài chính, đe dọa đến vị trí công việc của nhà quản lý Ngược lại, cấu trúc vốn với đòn bẩy tài chính thấp hơn có thể giảm nguy cơ kiệt quệ tài chính, nhưng lại bỏ lỡ các cơ hội đầu tư hấp dẫn và lợi ích từ việc tận dụng tấm chắn thuế.

Berg (2011) đã tiếp tục nghiên cứu sự thiên lệch hành vi của nhà quản lý đối với cấu trúc vốn trong bài viết "The Impact of Personality Traits on Capital Structure Decisions" Nghiên cứu chỉ ra rằng những nhà quản lý ưa thích rủi ro thường chọn sử dụng nợ để tài trợ cho các dự án đầu tư, nhờ vào lợi ích từ tấm chắn thuế lãi vay, qua đó gia tăng giá trị công ty và mang lại phần thưởng cho họ Ngược lại, những người e sợ rủi ro ưu tiên phát hành vốn cổ phần để tránh khủng hoảng tài chính, mặc dù điều này có thể dẫn đến giá trị cổ đông thấp hơn Kết quả nghiên cứu khẳng định các nghiên cứu trước đó và cho thấy rằng nhà quản lý ưa thích rủi ro có xu hướng sử dụng đòn bẩy tài chính cao hơn cho các dự án đầu tư dài hạn.

1.2.3 Tính bất định (Intolerance to Ambiguity) và cấu trúc vốn

Trong cuộc sống, những tình huống không rõ ràng thường xảy ra khi thông tin không được truyền tải và tiếp nhận một cách chính xác Cá nhân có thể đối mặt với sự bất định này bằng cách từ chối hoặc đương đầu với nó Nhà kinh tế Frant Knight định nghĩa tính bất định là những tình huống có nhiều kết cục khác nhau nhưng không thể xác định xác suất xảy ra của chúng Những người e ngại sự bất định thường cảm thấy lo lắng và không an toàn khi gặp phải những tình huống mơ hồ, khác biệt so với những gì họ đã biết Nhiều nhà nghiên cứu tâm lý đã chỉ ra rằng cảm giác này có thể ảnh hưởng đến hành vi và quyết định của cá nhân.

Năm 1983 và 1993, McLain đã phát triển thang đo để đánh giá mức độ chấp nhận của cá nhân đối với các tình huống không rõ ràng, ứng dụng trong phân tích văn hóa, xã hội và kinh tế Các nhà tâm lý học nhận thấy rằng tính bất định gia tăng từ ba yếu tố cơ bản: tính mới, sự phức tạp và sự khó khăn Tính mới được đánh giá qua khả năng thích ứng của cá nhân với các tình huống lạ, trong khi sự phức tạp liên quan đến cách cá nhân xử lý thông tin trái chiều Cuối cùng, sự khó khăn phản ánh khả năng đối phó với các vấn đề phức tạp khi thiếu thông tin và hỗ trợ.

Khác với rủi ro, mà chúng ta có thể tính toán xác suất xảy ra cho từng tình huống, việc ước lượng xác suất cho những tình huống không rõ ràng là điều không khả thi Do đó, nhiều cá nhân thường chọn đối mặt với rủi ro hơn là những điều bất định và không thể dự đoán Khi các nhà quản lý gặp phải những tình huống không rõ ràng, họ có thể có những nhận định khác nhau, và những nhận định này đôi khi không chính xác so với kết quả thực tế Nếu nhà quản lý quá lo ngại về những tổn thất có thể xảy ra từ những yếu tố không chắc chắn, họ có thể từ chối các cơ hội đầu tư, bao gồm cả những cơ hội tốt Việc tài trợ bằng nợ vay có thể dẫn đến khủng hoảng tài chính, do đó, phát hành vốn cổ phần trở thành lựa chọn ưu tiên Hệ quả là nguồn lực tài chính của công ty không được sử dụng hiệu quả, dẫn đến giá trị công ty không được tối ưu hóa.

Nghiên cứu “Evidence of Choice Avoidance in Capital Investment Judgment” của tác giả Sawers (2005) chỉ ra rằng trong bối cảnh khó khăn, nhà quản lý thường có xu hướng né tránh việc ra quyết định đầu tư Họ có thể lựa chọn giữa nhiều hình thức tài trợ như lợi nhuận giữ lại, vay nợ, phát hành trái phiếu hoặc cổ phần Những quyết định tài trợ này dẫn đến các cấu trúc vốn khác nhau, gây ra những vấn đề phức tạp không lường trước Sự e ngại về bất định khiến nhà quản lý ưa chuộng tài trợ nội bộ hơn nợ vay, mặc dù nợ có thể mang lại lợi ích thuế Ngay cả khi nợ là lựa chọn duy nhất, họ vẫn chọn các khoản vay ngắn hạn Những lựa chọn này ảnh hưởng tiêu cực đến giá trị công ty, bởi nếu nhà quản lý tiếp tục lo sợ rủi ro từ việc sử dụng nguồn tài trợ, họ sẽ từ chối các cơ hội đầu tư, dẫn đến hệ quả tiêu cực cho doanh nghiệp.

Nghiên cứu của Berg (2011) cho thấy rằng các nhà quản lý có sự thiên lệch nhận thức do e ngại tính bất định thường ưu tiên phát hành trái phiếu chuyển đổi thay vì các lựa chọn nợ hoặc vốn cổ phần Họ tìm kiếm một giải pháp an toàn để chuyển đổi nợ thành vốn chủ sở hữu, nhằm giảm gánh nặng tài chính trong tương lai đối với dòng tiền Tuy nhiên, sự lo sợ về những yếu tố mơ hồ có thể ảnh hưởng tiêu cực đến quyết định đầu tư, dẫn đến giảm hiệu quả hoạt động và giá trị công ty.

1.2.4 Sự chinh phục (Sensation Seeking) và cấu trúc vốn

Sự chinh phục thể hiện việc chấp nhận rủi ro trong nhiều lĩnh vực khác nhau Thực tế, nó là yếu tố quan trọng trong việc hình thành các mối quan hệ liên quan đến sự chấp nhận rủi ro.

In fact, the sensation seeking trait may be the common factor that accounts for the relationships among different kinds of risk taking.” – Psychologist Marvin Zuckerman (2007, p.65))

DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Phương pháp nghiên cứu

Luận văn này được thực hiện dựa theo bài nghiên cứu gốc có tựa đề

The article "Managerial Attitudes and Corporate Actions" by John R Graham, Campbell R Harvey, and Manju Puri explores the influence of managerial perspectives on corporate decision-making Additionally, it incorporates insights from Tatjana Berg's research, "The Impact of Personality Traits on Capital Structure Decisions," to enhance its findings The authors outline a systematic approach to conducting their study, emphasizing the interplay between managerial attitudes and corporate strategies.

Bước đầu tiên trong quá trình phân tích là nhận diện các biến cần thiết và xây dựng bảng câu hỏi Việc lựa chọn các biến này dựa trên các mô hình lý thuyết cùng với các nghiên cứu thực nghiệm trong lĩnh vực tài chính hành vi Sau khi hoàn thiện bảng câu hỏi với sự góp ý từ các chuyên gia, tác giả tiến hành khảo sát sơ bộ để hiệu chỉnh và hoàn tất bảng câu hỏi trước khi tiến hành khảo sát chính thức.

Bước 2: Gửi phiếu khảo sát cho các nhà quản lý và thu thập kết quả từ người được phỏng vấn Tác giả sẽ chọn lọc các phiếu trả lời theo từng nhóm đối tượng khảo sát phù hợp với yêu cầu của đề tài để tiến hành phân tích tiếp theo.

Bước 3 trong quy trình nghiên cứu là xử lý dữ liệu thu thập bằng công cụ phân tích SPSS, trong đó tác giả áp dụng các phương pháp phân tích thống kê mô tả, phân tích tương quan và phân tích hồi quy Những phương pháp này giúp xác định khuynh hướng, quy luật phân phối, cũng như mối quan hệ và mức độ ảnh hưởng của các biến độc lập đối với biến phụ thuộc.

2.1.1.1 Biến đại diện cho tính cách nhà quản lý

Nghiên cứu này phân tích tác động của hành vi nhà quản lý đến quyết định cấu trúc vốn, với bốn biến đại diện cho hành vi của họ, bao gồm khẩu vị rủi ro, sự lạc quan, sự chinh phục và tính bất định Các yếu tố này ảnh hưởng đáng kể đến cách thức mà nhà quản lý đưa ra quyết định tài chính và cấu trúc vốn trong tổ chức.

Khẩu vị rủi ro (Risk tolerance) là thước đo mức độ ưa thích rủi ro của nhà quản lý trong việc lựa chọn nguồn tài trợ cho các dự án đầu tư Nó phản ánh sự khác biệt trong đánh giá rủi ro của nhà quản lý so với thị trường chứng khoán, với mức độ ưa thích rủi ro càng cao thì sai lệch càng lớn Rủi ro trong hoạt động của công ty được phân loại thành ba khía cạnh: rủi ro từ quyết định đầu tư vào các dự án (Investment Risk), rủi ro từ hoạt động đầu cơ và kỳ vọng vào giá trị thu được lớn hơn giá trị chắc chắn hiện tại (Speculative Risk), và rủi ro phát sinh từ sự tin tưởng vào trải nghiệm cá nhân hoặc từ những người quen (Risk Comfort & Experience).

Khi lựa chọn biến này trong mô hình nghiên cứu, tác giả mong muốn rằng những nhà quản lý ưa thích rủi ro sẽ có xu hướng sử dụng đòn bẩy tài chính nhiều hơn, ưu tiên phát hành nợ thay vì vốn cổ phần để tài trợ cho các dự án mới.

Sự lạc quan là một tính cách quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến cuộc sống cá nhân, đặc biệt trong lĩnh vực thể chất và tâm lý Nghiên cứu của Scheier và các đồng nghiệp (1989) cho thấy những người đàn ông lạc quan trải qua phẫu thuật động mạch vành hồi phục tốt hơn so với những người bi quan trong vòng sáu tháng Kết quả tương tự cũng được ghi nhận trong nghiên cứu y học dành cho phụ nữ của Litt, Tennen và Affleck.

Theo nghiên cứu của Klock (1992), phụ nữ lạc quan có tỷ lệ thất bại trong thụ tinh ống nghiệm thấp hơn so với những người bi quan, cho thấy rằng lạc quan giúp họ có cái nhìn tích cực về tương lai và cải thiện chất lượng cuộc sống Ngược lại, những người bi quan thường cảm thấy lo lắng và mệt mỏi, làm cho cuộc sống trở nên căng thẳng hơn Cheryl Mathynssens trong bài viết về tính cách thành công của doanh nhân đã nhấn mạnh rằng lạc quan là yếu tố quan trọng đối với một nhà quản lý thành công, giúp họ tìm ra cách cải thiện mọi thứ xung quanh Một khảo sát gần đây từ vnexpress.net cho thấy Việt Nam đứng đầu về niềm tin lạc quan vào triển vọng kinh tế năm 2011, với 63.000 người từ 53 quốc gia tham gia khảo sát do BVA và Gallup thực hiện.

Trong nghiên cứu này, các nhà quản lý lạc quan tin rằng công ty sẽ có sự tăng trưởng vượt trội trong tương lai, dẫn đến niềm tin rằng thị trường chứng khoán đang định giá thấp giá trị công ty của họ Do đó, việc phát hành nợ trở nên ít tốn kém hơn so với phát hành cổ phiếu Mức độ thiên lệch về nhận thức này phụ thuộc vào mức độ lạc quan của các nhà quản lý.

Khi lựa chọn biến trong mô hình nghiên cứu, tác giả kỳ vọng rằng các nhà quản lý lạc quan sẽ ưu tiên sử dụng đòn bẩy tài chính, cụ thể là phát hành nợ thay vì vốn cổ phần để tài trợ cho các dự án mới.

Sự chinh phục (Sensation seeking) là hành động tìm kiếm những trải nghiệm mới mẻ và khác biệt so với truyền thống Nó có thể được thể hiện qua hai khía cạnh chính: (1) tìm kiếm những trải nghiệm độc đáo và mới lạ (experience seeking); (2)

- tìm kiếm những cảm giác phiêu lưu, mạo hiểm (thrill and adventure seeking); (3)

Sự nổi loạn và sự nhàm chán có thể ảnh hưởng đến cách mà nhà quản lý đánh giá rủi ro trong hoạt động của công ty Khi nhà quản lý có sự tự tin cao, họ thường đánh giá thấp khả năng rủi ro tương lai so với những gì thị trường chứng khoán dự đoán Mức độ sai lệch trong đánh giá này phụ thuộc vào mức độ ưa thích sự chinh phục của nhà quản lý.

Khi lựa chọn biến trong mô hình nghiên cứu, tác giả kỳ vọng rằng những nhà quản lý ưa thích sự chinh phục sẽ có xu hướng sử dụng đòn bẩy tài chính nhiều hơn, ưu tiên phát hành nợ thay vì vốn cổ phần để tài trợ cho các dự án mới.

Tính bất định (Intolerance to Ambiguity) là nỗi lo của các nhà quản lý đối với những sự kiện tương lai không thể dự đoán, khác với rủi ro mà có thể tính toán xác suất Tính bất định thể hiện qua ba yếu tố chính: tính mới (novelty), sự phức tạp (complexity) và sự khó khăn (insolubility) của tình huống Những người e ngại bất định thường đánh giá cao rủi ro có thể xảy ra đối với hoạt động công ty, dẫn đến việc họ chọn nguồn tài trợ an toàn hơn, như phát hành vốn cổ phần, nhằm tránh kiệt quệ tài chính và bảo vệ danh tiếng cá nhân trong tương lai.

Dữ liệu

Để thực hiện nghiên cứu này, tác giả đã thu thập dữ liệu từ hai khía cạnh chính: thông tin cá nhân của nhà quản lý và dữ liệu tài chính của công ty.

Quyết định về chính sách tài chính và cấu trúc vốn thường do các nhà quản lý cấp trung trở lên thực hiện Dữ liệu thu thập từ các nhà quản lý này tại các công ty cổ phần niêm yết trên sàn chứng khoán TP.HCM (HOSE) cung cấp cái nhìn sâu sắc về quy trình ra quyết định trong lĩnh vực tài chính.

Có nhiều phương thức khảo sát cho cuộc điều tra như phỏng vấn trực tiếp, gọi điện thoại và gửi email, nhưng chúng thường gặp khó khăn trong việc thu thập thông tin chính xác từ người trả lời Để khắc phục vấn đề này, tác giả đã sử dụng bảng câu hỏi phát phiếu điều tra và gửi đến người tham gia Bên cạnh đó, tác giả còn đăng bảng hỏi lên một số trang web, giúp người trả lời dễ dàng hơn Phương pháp này mang lại lợi ích về thời gian và không gian, đồng thời đảm bảo tính bảo mật thông tin cá nhân của người tham gia khảo sát.

Phiếu khảo sát được phát cho bốn nhóm đối tượng: Nhóm 1 là các nhà quản lý tham gia các buổi tập huấn về thuế do Cục thuế TP.HCM và các chi cục thuế tổ chức Nhóm 2 bao gồm các học viên đang theo học các chứng chỉ Giám đốc tài chính và Giám đốc điều hành Nhóm 3 là các học viên học các lớp về chứng khoán như Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán, Môi giới và tư vấn đầu tư chứng khoán, cùng với Phân tích và đầu tư chứng khoán Cuối cùng, Nhóm 4 là các học viên đang theo học các lớp cao học tại Trường Đại Học Kinh Tế TP.Hồ Chí Minh.

2.2.3 Cấu trúc bảng hỏi & Thang đo

Xây dựng bảng hỏi gặp khó khăn trong việc đưa ra câu trả lời phù hợp, buộc cá nhân phải chọn một trong các đáp án Nghiên cứu này sử dụng các câu hỏi phản ánh hành vi của nhà quản lý, bao gồm sự lạc quan, khẩu vị rủi ro, sự chinh phục và tính bất định, dựa trên các nghiên cứu của các nhà tâm lý học và kinh tế như Graham, Campbell, Puri (2010) và Berg (2011) Phiếu khảo sát được chia thành ba phần: Phần A tập trung vào đặc điểm của nhà quản lý; Phần B liên quan đến thông tin tài chính, bao gồm tỷ số nợ và nguồn tài trợ; và Phần C thu thập thông tin chung về các yếu tố hỗ trợ quyết định của nhà quản lý như ngành nghề, quy mô công ty, và đặc điểm cá nhân như giới tính, tuổi tác, trình độ học vấn và chức vụ.

Sau khi thu thập và chỉnh sửa câu hỏi dựa trên ý kiến của các chuyên gia, tác giả đã tiến hành phát phiếu thử cho 30 người được chọn ngẫu nhiên Mục đích là để kiểm tra độ rõ ràng của bảng hỏi và ghi nhận ý kiến ban đầu từ những người tham gia khảo sát, từ đó hoàn thiện bảng hỏi trước khi phát hành chính thức.

2.2.3.2 Thang đo liên quan tới hành vi nhà quản lý Khẩu vị rủi ro (Risk Tolerance): Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện để xây dựng thang đo về khẩu vị rủi ro của mỗi cá nhân Khởi đầu từ thang đo của Babbie (1993) với 100 câu hỏi ban đầu, sau khi trải qua nhiều nỗ lực của các nhà nghiên cứu nhằm hoàn thiện hơn nữa một thang đo với độ tin cậy cao, hợp lý và dễ dàng sử dụng cho người dùng, Grable và Lytton (1999) đã phát triển và rút gọn thang đo và tập trung vào 3 khía cạnh chính có khả năng xảy ra rủi ro cho mỗi cá nhân Các câu hỏi 4, 7 và 8 đo lường mức độ chấp nhận rủi ro có thể phát sinh từ các quyết định đầu tư (Investment Risk) Các câu hỏi 1, 5 và 6 đo lường mức độ chấp nhận rủi ro từ sự kỳ vọng giá trị thu được trong tương lai (Speculative Risk) và các câu còn lại 2, 3 và 9 được sử dụng để đo lường mức độ chấp nhận rủi ro từ sự trải nghiệm của bản thân và những người quen biết (Risk Comfort & Experience) Người trả lời phiếu khảo sát sẽ phải lựa chọn một trong nhiều phương án trả lời được liệt kê sẵn Có 6 câu hỏi với 4 lựa chọn trả lời khác nhau, 1 câu hỏi với 3 lựa chọn trả lời khác nhau và 2 câu hỏi còn lại với hai lựa chọn trả lời Điểm số được tính cho các phương án trả lời được sắp xếp theo trình tự từ 1 tới 4 tương ứng với các lựa chọn “a”, “b”, “c” và “d” Tuy nhiên, đối với các câu hỏi có 2 phương án trả lời thì lựa chọn “b” được tính là 3 điểm Nội dung câu hỏi được trình bày chi tiết trong phần phụ lục, Phần A (chi tiết A1) của Bảng khảo sát

Sự lạc quan được đo lường thông qua thang đo Revised Life Orientation Test (LOT-R), được phát triển bởi các nhà tâm lý học Scheier và Carver vào năm 1985 Thang đo này đã được ứng dụng trong lĩnh vực tâm lý học bởi Scheier, Carver và Bridges vào năm 1995, cũng như trong lĩnh vực kinh tế bởi Graham và các đồng sự vào năm 2009 và Berg.

Bảng khảo sát năm 2011 bao gồm 6 câu hỏi nhằm đánh giá mức độ lạc quan của người trả lời về các sự kiện trong quá khứ, hiện tại và tương lai Nội dung chi tiết của các câu hỏi được trình bày trong phần phụ lục, cụ thể là Phần A (chi tiết A2).

Tác giả áp dụng thang đo Likert để đánh giá mức độ đồng ý của nhà quản lý với các tình huống được đưa ra, với 5 mức từ "hoàn toàn không đồng ý" đến "hoàn toàn đồng ý," tương ứng với điểm số từ 1 đến 5 Đặc biệt, các câu hỏi số 2, 4 và 5 có cách tính điểm ngược lại Người trả lời cần chọn thái độ đồng tình cho từng câu hỏi, phản ánh mức độ lạc quan của họ Nếu điểm trung bình của các câu trả lời đạt từ 3 trở lên, người đó được coi là lạc quan (Graham và các đồng sự, 2009; Berg, 2011).

Tính bất định, hay còn gọi là Intolerance to Ambiguity, được đo lường thông qua một bài kiểm tra tâm lý do Budner phát triển vào năm 1992 Thang đo này bao gồm nhiều yếu tố nhằm đánh giá khả năng chấp nhận sự không rõ ràng trong các tình huống khác nhau.

Bài viết đề cập đến 9 câu hỏi quan trọng trong ba tình huống cơ bản, được sử dụng trong phân tích tài chính hành vi theo tác giả Berg (2011) Các câu hỏi 1, 3 và 8 tập trung vào mức độ đồng ý của người trả lời về những khó khăn trong việc dự đoán Trong khi đó, câu hỏi 2, 6 và 7 khám phá khả năng chấp nhận các tình huống mới mẻ chưa từng gặp Các câu hỏi còn lại yêu cầu người trả lời xem xét các sự kiện trong bối cảnh phức tạp Tác giả sử dụng thang đo Likert với 5 mức độ từ "hoàn toàn không đồng ý" đến "hoàn toàn đồng ý" để đánh giá ý kiến người tham gia.

“đồng ý” và “hoàn toàn đồng ý” tương ứng với thang điểm được cho từ “1” tới

Trong thang đo gồm 9 câu hỏi, cần lưu ý rằng các câu hỏi 2, 4, 8 và 9 có cách tính điểm ngược lại so với các câu hỏi khác Khi tổng hợp điểm số, những người có điểm từ 2,88 trở lên cho thấy họ có sự e ngại lớn đối với sự bất định (Budner, 1962) Thông tin chi tiết về nội dung các câu hỏi được trình bày trong phần phụ lục.

A (chi tiết A3) của Bảng khảo sát

Sự chinh phục (Sensation Seeking): Để đo lường mức độ ưa thích sự chinh phục của một cá nhân, Zuckerman, Eysenck (1978) đã xây dựng một thang đo gồm

Sau nhiều nỗ lực phát triển thang đo, tác giả Hoyle và các đồng sự (2002) đã thành công trong việc điều chỉnh và rút gọn thang đo sự chinh phục xuống còn 8 câu hỏi Bộ câu hỏi này được chia thành 4 phần, trong đó phần đầu tiên bao gồm câu số 1 và số 5, thể hiện mức độ chấp nhận của người trả lời trong việc tìm kiếm những trải nghiệm mới lạ và độc đáo (experience seeking).

Số 2 và 6 đại diện cho việc tìm kiếm cảm giác phiêu lưu và mạo hiểm, trong khi câu 3 và 7 thể hiện sự nổi loạn Hai câu còn lại phản ánh sự nhàm chán Tác giả áp dụng thang đo Likert để đánh giá mức độ chấp nhận của người tham gia đối với từng tình huống, từ "hoàn toàn không đồng ý" đến các mức độ tăng dần.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH

Ngày đăng: 18/08/2021, 10:49

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Nguyễn Chiểu, (2011), “Nghiên cứu ứng dụng tâm lý học vào tài chính” , http://updatebook.net/tai-chinh-thue-19/nghien-cuu-ung-dung-tam-ly-hoc-vao-tai-chinh-15420/ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu ứng dụng tâm lý học vào tài chính
Tác giả: Nguyễn Chiểu
Năm: 2011
2. Nguyễn Thị Thu Hà, (2010), “Các lý thuyết cấu trúc vốn”, http://www.saga.vn/Taichinh/Cautrucvon/19522.saga Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các lý thuyết cấu trúc vốn
Tác giả: Nguyễn Thị Thu Hà
Năm: 2010
5. Lý Ngọc Phượng (2012), “Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nhân”, Luận văn Thạc sĩ kinh tế trường Đại Học Kinh Tế Tp.HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nhân
Tác giả: Lý Ngọc Phượng
Năm: 2012
6. Trần Ngọc Thơ (2006), Tài Chính Doanh Nghiệp Hiện Đại, Nhà Xuất Bản Thống KêTài liệu nước ngoài Khác
1. Baker, M., Ruback, R., and Wurgler, J. (2004). Behavioral Corporate Finance: A Survey. NBER Working Paper, No. W10863 Khác
2. Ben-David, I., Harvey C. R., and Graham J.R. (2007). Managerial Overconfidence and Corporate Policies. NBER Working Paper No. W13711 Khác
3. Berg (2011). The Impact of Personality Traits on Capital Structure Decisions Khác
4. Bertrand, M., and Schoar A. (2003). Managing with Style: The Effects of Managers on Firm Policies. Quarterly Journal of Economics, 118 , 1169- 1208 Khác
5. Blackburn, R. (1969). Sensation Seeking, Impulsivity and Psychopathic Personality. Journal of Consulting and Clinical Psychology, 33(5) , 571-574 Khác
6. Budner, N. (1962). Intolerance of Ambiguity as a Personality Variable. Journal of Personality, 30(1) , 29-50 Khác
7. Cain, M.D., and McKeon, S.B. (2010). Sensation Seeking and Firm Risk: Evidence from ECO Pilots. Working Paper Khác
8. Camerer, C., and Weber, M. (1992). Recent Developments in Modelling Preferences: Uncertainty and Ambiguity. Journal of Risk and Uncertainty, 5 , 325-370 Khác
9. Chen, C.J., and Yu, C.M. (2010). FDI, Export, and Capital Structure: An Agency Theory Perspective. Working Paper Khác
10. Chrysikopoulou, E. (2011, March 25). The Impact of Personality Traits on Capital Structure Decisions. Maastricht Khác
11. Daskalakis, N., Kokkinaki, F., Kalogeras, N., Hoffmann, A., and Chrysikopoulou, E. (2011). What Drives Capital Structure Decisions? The Role of Personality Traits in Corporate Financial Decisions Making Khác
12. Gilson, S. C. (1997). Transactions Costs and Capital Structure Choice: Evidence from Financially Distressed Firms. The Journal of Finance, 52(1) , 161-196 Khác
13. Grable, J. (2000). Financial Risk Tolerance and Additional Factors that Affect Risk Taking in Every Day Money Matters. Journal of Business Psychology, 14(4), 625-630 Khác
14. Grable, J.E., and Lytton, R.H. (1999). Financial Risk Tolerance Revisited: The Development of a Risk Assessment Instrument. Financial Services Review, 8 , 163-181 Khác
15. Graham, J.R., Harvey, C.R., and Puri, M. (2009). Managerial Attitudes and Corporate Actions. SSRN eLibrary Khác
16. Grinblatt, M. a. (2009). Sensation Seeking, Overconfidence, and Trading Activity. Journal of Finance, 64(2) , 549-578. Page !|!56&#34 Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w