Vốn huy động bằng tiền đồng và ngoại tệ quy đổi
Tiền gửi doanh nghiệp Tiền gửi dân cư Tiền gửi các đối tượng khác
Vốn huy động bằng tiền đồng và ngoại tệ quy đổi
Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động năm 2009, 2010 và 6 tháng đầu năm2011của SGCTNH
Tính đến ngày 30/06/2011, vốn huy động đã giảm 5,86% so với đầu năm, chủ yếu do sự sụt giảm từ tiền gửi của doanh nghiệp và các đối tượng khác, bao gồm cả tiền gửi từ các tổ chức tín dụng và kỳ phiếu.
SGCTNH theo dõi chặt chẽ biến động lãi suất huy động trên thị trường và thực hiện các giải pháp linh hoạt trong công tác huy động vốn, đặc biệt là đối với tiền gửi bằng VND Điều này nhằm đảm bảo phù hợp với tình hình thị trường và nhu cầu sử dụng vốn của SGCTNH, theo chủ trương của Hội đồng quản trị.
Trong 6 tháng đầu năm 2011, hệ thống đã đạt được thành công đáng kể trong việc huy động vốn, với sự tăng trưởng ổn định, đặc biệt là từ thị trường 1 và tiền gửi của dân cư Điều này đã góp phần quan trọng vào việc đảm bảo thanh khoản cho SGCTNH, mặc dù tình hình lách lãi suất huy động trên thị trường diễn ra phức tạp.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn những tồn tại:
Số dư huy động đến cuối tháng 06/2011 là 12.323,95 tỷ đồng, giảm 5,86% (766,71 tỷ đồng) so với đầu năm, trong khi chỉ tiêu Đại hội đồng cổ đông giao năm
Năm 2011, huy động vốn cần tăng 25% so với năm 2010 do ngân hàng chỉ duy trì ổn định số dư hiện có và không tham gia vào cuộc đua lãi suất không lành mạnh trên thị trường.
Tỷ trọng nguồn vốn trung và dài hạn trong tổng nguồn vốn huy động hiện chỉ đạt 4,04%, trong khi tỷ lệ cho vay trung dài hạn lại chiếm 32,65% tổng dư nợ cho vay và 28,99% trên tổng vốn huy động.
Một số đơn vị trong hệ thống ngân hàng SGCTNH vẫn còn thụ động trong công tác huy động, chưa áp dụng linh hoạt các giải pháp tình thế, trong khi đó, nhiều đơn vị khác đã chủ động thực hiện các giải pháp linh hoạt để ổn định nguồn tiền gửi.
Tổng dư nợ cho vay đến 30/06/2011, toàn hệ thống đạt 10.943 tỷ đồng, chiếm 88,79
So sánh dư nợ cho vay qua các năm 2008, 2009, 2010 và 30/06/2011:
Bảng 3: Cho vay bằng tiền đồng và ngoại tệ quy đổi phân theo Hội sở - Chi nhánh Đơn vị: tỷ đồng
Cho vay bằng tiền đồng và ngoại tệ quy đổi Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 30/06/2011
Nguồn: Báo cáo sao kê tổng nhóm nợ của SGCTNH
Dư nợ cho vay bằng tiền đồng và ngoại tệ quy đổi phân theo Hội sở - Chi nhánh
phân theo Hội sở - Chi nhánh Đơn vị: tỷ đồng
Dư nợ phân theo Hội sở - Chi nhánh
Các chi nhánh Hội sở
Tính đến ngày 30/06/2011, tổng dư nợ toàn hệ thống ngân hàng tăng 4,18%, tương đương 438,69 tỷ đồng so với đầu năm Doanh thu từ hoạt động tín dụng trong 6 tháng đầu năm 2011 đạt 956,93 tỷ đồng, tăng 49,21% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 63,40% tổng doanh thu hoạt động ngân hàng Hội sở luôn giữ tỷ lệ dư nợ lớn trong toàn hệ thống, với dư nợ đạt 23,92% tổng dư nợ vào cuối tháng 6/2011.
Lãi suất cho vay được điều chỉnh linh hoạt theo từng thời điểm, nhằm phù hợp với diễn biến chung của thị trường và đảm bảo hiệu quả hoạt động kinh doanh.
SGCTNH đã thực hiện kiểm soát chặt tốc độ tăng trưởng tín dụng theo chỉ thị
Đến ngày 30/06/2011, dư nợ cho vay của NHNN chỉ tăng 4,18% so với đầu năm, trong khi tỷ lệ cho vay phi sản xuất đã giảm từ 28% đầu năm 2011 xuống còn 13,68%.
Hoạt động thanh toán đối ngoại
Trong 06 tháng đầu năm, doanh số thanh toán đối ngoại đạt 161,13 triệu USD, tương đương 40,28% mục tiêu kế hoạch năm 2011 (400 triệu USD) So với cùng kỳ năm trước, con số này tăng 14,84%, tương đương 20,82 triệu USD.
Doanh số xuất khẩu là 94,16 triệu USD, trong đó: Thanh toán chứng từ xuất khẩu là 37,14 triệu USD, chuyển tiền đến là 57,02 triệu USD
Doanh số nhập khẩu là 69,97 triệu USD, trong đó: Thanh toán chứng từ nhập khẩu là 27,97 triệu USD, chuyển tiền đi là 38,99 triệu USD
Hoạt động nghiệp vụ nhìn chung an toàn, tuy nhiên hoạt động tìm kiếm, phát triển khách hàng mới trong 06 tháng đầu năm vẫn còn hạn chế.
Doanh số thanh toán đối ngoại chỉ tăng 14,84% so với cùng kỳ năm trước, do hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi chính sách quản lý ngoại hối, tỷ giá và quản lý nhập siêu theo Nghị quyết 11 của Chính phủ.
Ngoài các hoạt động huy động, cho vay, thanh toán đối ngoại SGCTNH còn có các hoạt động nổi bật là đầu tư tài chính, kinh doanh thẻ.
Về kết quả kinh doanh
Bảng 4: Kết quả kinh doanh Đơn vị: triệu đồng
Thu nhập lãi và các khoản thu nhập tương tự 1.595.968 1.205.637 390.331 32,38% Chi phí lãi và các khoản chi phí tương tự 1.023.626 694.711 328.915 47,35%
Lãi từ HĐKD ngoại hối 10.861 6.250 4.610 73,76%
Lỗ từ hoạt động KDCK -1.230 22 -1.252 -5.763,91%
Lãi từ hoạt động khác 575.387 17.237 558.150 3.238,01%
TN từ góp vốn mua CP 26.126 21.658 4.468 20,63%
LN thuần từ HĐKD trước dự phòng 935.657 358.734 576.923 160,82%
Tổng lợi nhuận trước thuế 870.616 274.731 595.885 216,90%
Lãi cơ bản trên cổ phiếu 5.101 1.549 3.552 229,31%
Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2010 của SGCTNH
− Hoạt động ngân hàng luôn đem lại nguồn lãi lớn, cuối năm 2010 đạt 795,02 tỷ đồng, tăng 587,883 tỷ đồng (283,81%) so với cuối năm 2009
Saigon Bank không chỉ thu lợi từ hoạt động ngân hàng mà còn có nguồn thu từ công ty con chuyên quản lý nợ và khai thác tài sản, cũng như khách sạn Riverside Đặc biệt, thu nhập từ hoạt động tín dụng chiếm đến 84,56% tổng thu nhập của ngân hàng.
Trong 6 tháng đầu năm 2011, SGCTNH ghi nhận doanh thu đạt 1.509,37 tỷ đồng, trong đó thu nhập bất thường là 3,73 tỷ đồng Chi phí của công ty là 1.279,83 tỷ đồng, bao gồm dự phòng rủi ro quý I/2011 là 13,48 tỷ đồng và quý II/2011 là 23,973 tỷ đồng, cùng với bảo hiểm tiền gửi 4,62 tỷ đồng Lợi nhuận trước thuế đạt 229,497 tỷ đồng, chưa bao gồm trích bảo hiểm tiền gửi quý II/2011 Nếu tính gộp lợi nhuận từ Công ty Quản Lý Khai Thác Riverside, lợi nhuận trước thuế của SGCTNH trong 6 tháng đầu năm 2011 đạt 229,497 tỷ đồng, tương ứng 65% chỉ tiêu lợi nhuận năm 2011 là 350 tỷ đồng.
2.2 THỰC TRẠNG PHÒNG NGỪA VÀ HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG TMCP SÀI GÒN CÔNG THƯƠNG
2.2.1 Xây dựng chính sách tín dụng và quy trình cấp tín dụng
Chính sách tín dụng là tập hợp các định hướng và quy định điều chỉnh hoạt động tín dụng, do Hội đồng Quản trị của SGCTNH ban hành, nhằm tối ưu hóa việc sử dụng nguồn vốn để hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp, hộ gia đình và cá nhân, trong khuôn khổ quy định của NHNN Việt Nam.
Mục đích của chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng đóng vai trò quan trọng trong việc xác định các giới hạn cho hoạt động tín dụng, đồng thời tạo ra môi trường giúp giảm thiểu rủi ro trong quá trình này.
Chính sách tín dụng được thiết lập để đảm bảo quyết định tín dụng khách quan và tuân thủ quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Mọi tổ chức và cá nhân không được phép can thiệp trái pháp luật vào quyền tự chủ của Sở Giao dịch Ngân hàng trong quá trình cho vay và thu hồi nợ.
2.2.1.2 Quy trình nghiệp vụ tín dụng
Quy trình tín dụng bắt đầu khi nhân viên tín dụng tiếp nhận hồ sơ của khách hàng và kết thúc khi khách hàng hoàn tất nghĩa vụ thanh toán cho SGCTNH Quy trình này bao gồm nhiều giai đoạn quan trọng.
- Thẩm định trước khi cho vay,
- Kiểm tra, giám sát trong khi cho vay,
- Kiểm tra, giám sát, tổ chức thu hồi nợ sau khi cho vay
Tùy theo từng mục đích mà NVTD phân tích và thẩm định khách hàng vay vốn theo những nội dung sau:
Nhân viên tín dụng sẽ tiếp nhận và hướng dẫn khách hàng về điều kiện tín dụng cùng hồ sơ vay vốn Đối với những khách hàng lần đầu quan hệ tín dụng, nhân viên sẽ hỗ trợ đăng ký thông tin cá nhân, giải thích các điều kiện vay vốn và hướng dẫn lập hồ sơ vay.
Trong quá trình thẩm định khách hàng vay, tiêu chuẩn 5C mà cán bộ tín dụng cần quan tâm là:
Tư cách của công ty, bao gồm tiếng tăm, thiện chí trả nợ và lịch sử tín dụng, là những yếu tố quan trọng cần xem xét Mặc dù tuổi đời của công ty có thể là một chỉ số tốt để đánh giá, nhưng không nên hoàn toàn dựa vào nó khi đưa ra quyết định.
- Vốn (Capital): Đóng góp của các chủ sở hữu và các tỷsố nợ
- Năng lực (Capacity): Năng lực trả nợ.
- Tài sản thế chấp (Collateral): Giá trị của tài sản thế chấp là bao nhiêu trong trường hợp không trả được nợ
- Chu kỳ hoặc các điều kiện kinh tế (Cycle): Trạng thái của chu kỳ kinh doanh
Đối với khách hàng đã có quan hệ tín dụng, nhân viên tín dụng sẽ thực hiện kiểm tra sơ bộ các điều kiện vay và bộ hồ sơ vay Sau đó, họ sẽ hướng dẫn khách hàng hoàn thiện hồ sơ để đảm bảo quy trình vay diễn ra thuận lợi.
Kiểm tra hồ sơ và mục đích vay vốn
- Kiểm tra hồ sơ vay vốn: NVTD kiểm tra tính hợp lệ của các giấy tờ văn bản trong danh mục hồ sơ pháp lý.
- Kiểm tra mục đích vay vốn: NVTD kiểm tra tính hợp lệ của từng loại hồ sơ khoản vay và hồ sơ bảo đảm tiền vay.
Điều tra, thu thập, tổng hợp thông tin về khách hàng và phương án vay vốn
Kiểm tra, xác minh thông tin
Quá trình kiểm tra và xác minh những thông tin về khách hàng được thực hiện qua các nguồn sau:
- Hồ sơ vay vốn trước đây của khách hàng.
- Thông qua Trung tâm Thông tin Tín dụng (CIC)
- Các bạn hàng/đối tác, bao gồm các nhà cung cấp nguyên vật liệu, thiết bị và những khách hàng tiêu thụ sản phẩm
- Các cơ quan quản lý trực tiếp khách hàng xin vay (cơ quan thuế, v.v )
- Các Ngân hàng mà khách hàng hiện đang vay vốn/ trước đó vay vốn
- Phân tích, thẩm định khách hàng vay vốn
Phân tích khách hàng là bước quan trọng để hiểu rõ tư cách và năng lực pháp luật của họ Năng lực hành vi dân sự, năng lực điều hành quản lý, và năng lực sản xuất kinh doanh cũng cần được xem xét kỹ lưỡng Bên cạnh đó, việc xác định mô hình tổ chức và bố trí lao động hợp lý sẽ giúp tối ưu hóa hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Lập tờ trình thẩm định cho vay
Xác định phương thức cho vay
Dư nợ cho vay phân theo đối tượng vay vốn
Dư nợ cho vay phân theo đối tượng vay vốn
Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh năm 2009, 2010 và sơ kết tình hình hoạt động 6 tháng đầu năm 2011 của SGCTNH
Tiếp theo là dư nợ cho vay trong hạn phân theo thời hạn vay vốn:
Bảng 6: Dư nợ cho vay phân theo thời hạn vay vốn Đơn vị: tỷ đồng
Cho vay bằng tiền đồng và ngoại tệ quy đổi Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 30/06/2011
Nguồn: Báo cáo dư cho tiền vay theo thời hạn vay vốn qua các thời điểm
Bảng 6 cho thấy tỷ lệ nợ trung dài hạn luôn thấp hơn nợ ngắn hạn trong tổng dư nợ, với tỷ lệ cho vay trung dài hạn lần lượt là 37,38% vào năm 2009, 35,17% vào năm 2010 và 32,56% vào giữa năm 2011 Để đảm bảo an toàn và khả năng thanh khoản, SGCTNH nỗ lực duy trì tỷ lệ cho vay trung dài hạn phù hợp với nguồn vốn huy động trung dài hạn, đồng thời tuân thủ quy định của NHNN về tỷ lệ cho vay tối đa từ nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn là 30% đối với ngân hàng thương mại.
Dư nợ cho vay phân theo thời hạn vay vốn
Dư nợ phân theo thời hạn vay vốn
Trung dài hạn Ngắn hạn
Nguồn: Báo cáo dư nợ cho vay theo thời hạn vay vốn qua các thời điểm
Để giảm thiểu rủi ro trong quyết định cho vay, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001, quy định rõ về quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng.
Tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng, ngoại trừ các khoản cho vay từ nguồn vốn ủy thác của Chính phủ và các tổ chức, cá nhân Nếu nhu cầu vốn của khách hàng vượt quá giới hạn này hoặc cần huy động vốn từ nhiều nguồn, các tổ chức tín dụng sẽ thực hiện cho vay hợp vốn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Thông tư 13/2010/TT-NHNN quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn của TCTD như sau:
Dư nợ cho vay của tổ chức tín dụng bao gồm tổng số dư nợ theo hợp đồng tín dụng, số dư nợ được ủy thác cho tổ chức tín dụng khác cho vay, và số dư các khoản mà tổ chức tín dụng đã trả thay cho khách hàng do thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
Tổng dư nợ cho vay của tổ chức tín dụng đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng.
Tổng dư nợ cho vay và số dư bảo lãnh của tổ chức tín dụng đối với mỗi khách hàng không được vượt quá 25% vốn tự có của tổ chức Trong đó, tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng phải đảm bảo không vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng.
Tổng dư nợ cho vay của tổ chức tín dụng đối với một nhóm khách hàng liên quan không được vượt quá 50% vốn tự có của tổ chức tín dụng Đồng thời, tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng đơn lẻ cũng phải tuân thủ giới hạn không vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng.
Tổng dư nợ cho vay và số dư bảo lãnh của tổ chức tín dụng đối với một nhóm khách hàng liên quan không được vượt quá 60% vốn tự có của tổ chức Đồng thời, tổng dư nợ cho vay và số dư bảo lãnh đối với một khách hàng đơn lẻ cũng phải tuân thủ giới hạn không vượt quá 25% vốn tự có của tổ chức tín dụng.
2.2.4 Thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm đúng quy định
Nghị định mới được xây dựng dựa trên việc kế thừa và phát triển các quy định hiện hành về đăng ký giao dịch bảo đảm, đã được thực tiễn kiểm nghiệm tính đúng đắn Nó bao gồm những quy định mới, được tổng kết từ thực tiễn và tham khảo kinh nghiệm quốc tế, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội tại Việt Nam Nghị định đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ và khả thi, phù hợp với các quy định của Luật Hàng không dân dụng, Bộ luật Hàng hải, Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Bộ luật Dân sự và các pháp luật liên quan.
Nghị định số 83/2010/NĐ-CP quy định thời hạn có hiệu lực của đăng ký giao dịch bảo đảm tính từ thời điểm đăng ký đến khi xóa đăng ký theo yêu cầu Quy định này đã khắc phục hạn chế của Nghị định số 08/2000/NĐ-CP, trong đó đăng ký giao dịch bảo đảm chỉ có giá trị trong 05 năm, trừ khi có yêu cầu xóa hoặc gia hạn Điều này giúp các bên tham gia giao dịch chủ động hơn trong việc xóa đăng ký mà không cần thực hiện thủ tục gia hạn.
Hệ thống hóa các trường hợp phải đăng ký dựa trên quy định của Bộ luật dân sự năm 2005, Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Bộ luật Hàng hải Việt Nam, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam và các nghị định liên quan, nhằm đảm bảo tính thống nhất của pháp luật Nghị định đã liệt kê các trường hợp đăng ký bắt buộc như thế chấp quyền sử dụng đất, thế chấp rừng sản xuất, thế chấp tàu bay, thế chấp tàu biển và các trường hợp khác theo quy định Đồng thời, cũng quy định về việc đăng ký tự nguyện đối với các giao dịch bảo đảm không thuộc diện bắt buộc.
Tình hình dư nợ cho vay tại SGCTNH được phân loại thành ba nhóm: cho vay có tài sản đảm bảo, cho vay không có tài sản đảm bảo, và cho vay với tài sản bảo đảm hình thành từ vốn vay.
Bảng 7 trình bày dư nợ cho vay chia thành ba loại: có tài sản bảo đảm, không có tài sản bảo đảm và tài sản bảo đảm hình thành từ vốn vay, được thống kê qua các thời điểm khác nhau Đơn vị tính là tỷ đồng, giúp người đọc dễ dàng theo dõi và so sánh sự biến động của các loại dư nợ này.
Cho vay bằng tiền đồng và ngoại tệ quy đổi Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 30/06/2011
Tài sản hình thành từ vốn vay 507,05 622,84 334,49 557,2
Nguồn: Báo cáo dư nợ cho vay có tài sản bảo đảm, không có tài sản bảo đảm và tài sản bảo đảm hình thành từ vốn vay.
Dư nợ cho vay có tài sản bảo đảm, không có tài sản bảo đảm và tài sản bảo đảm hình thành từ vốn vay qua các thời điểm 5 1 Biểu 6: Dư nợ cho vay từ nhóm 2 đến nhóm 4
bảo đảm hình thành từ vốn vay qua các thời điểm Đơn vị: tỷ đồng
Có tài sản Không tài sản
Tài sản hình thành từ vốn vay
Nguồn: Báo cáo dư nợ cho vay có tài sản bảo đảm, không có tài sản bảo đảm và tài sản bảo đảm hình thành từ vốn vay
Tính đến ngày 30/06/2011, tổng dư nợ của toàn hệ thống đạt 10.943,36 tỷ đồng, trong đó dư nợ cho vay có tài sản bảo đảm chiếm 90,29%, với tài sản bảo đảm chủ yếu là bất động sản, máy móc thiết bị, xe, hàng hóa và giấy tờ có giá Dư nợ cho vay không có tài sản bảo đảm chỉ chiếm 4,62%, trong khi dư nợ cho vay có tài sản bảo đảm hình thành từ vốn vay chiếm 5,09% tổng dư nợ của toàn hệ thống.
Tỷ lệ cho vay có tài sản bảo đảm ngày càng tăng trong bối cảnh kinh tế khó khăn, với lãi suất cao và chi phí sản xuất gia tăng Ngân hàng cần đảm bảo an toàn hoạt động bằng cách yêu cầu tài sản bảo đảm, đặc biệt là bất động sản đủ điều kiện thế chấp, với tỷ lệ cho vay thường chỉ đạt 85% giá trị tài sản Điều này nhằm giảm thiểu rủi ro do sự khó khăn trong việc thu hồi các khoản phải thu của doanh nghiệp và tăng cường niềm tin vào khả năng trả nợ của khách hàng.
Ngân hàng Sài Gòn Công Thương cung cấp dịch vụ cho vay không cần tài sản bảo đảm, đồng thời cho phép tài sản bảo đảm được hình thành từ vốn vay với tỷ lệ nhất định, nhằm đảm bảo an toàn cho ngân hàng trong quá trình cho vay.
2.2.5 Phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro
Theo quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN ngày 03/02/2005, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều quyết định và chỉ thị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng và kiểm soát rủi ro Trong số đó, Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 quy định về việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng.
Mục đích của việc sử dụng dự phòng rủi ro là bù đắp tổn thất cho các khoản nợ của tổ chức tín dụng Dự phòng rủi ro được tính dựa trên dư nợ gốc của khách hàng và được ghi nhận vào chi phí hoạt động của tổ chức tín dụng.
Quyết định 493 yêu cầu tổ chức tín dụng nâng cao quản lý nợ và kiểm soát rủi ro, nhằm đánh giá chính xác bản chất và chất lượng tín dụng của các tổ chức này.
Ngày 25/4/2007, NHNNVN đã ban hành nghị định số 18/2007/QĐ-NHNN, sửa đổi và bổ sung một số điều trong Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng nhằm xử lý rủi ro tín dụng Quy định này nhằm mục tiêu nâng cao khả năng quản lý chất lượng tín dụng tại các tổ chức ngân hàng, đảm bảo an toàn và hiệu quả trong hoạt động tín dụng.
Để xử lý rủi ro tín dụng hiệu quả, cần thực hiện phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng theo đúng quy trình của Ngân hàng Nhà nước Tất cả các chi nhánh trong hệ thống phải triển khai xếp hạng tín dụng cho khách hàng vay, đồng thời nâng cấp và đảm bảo tính chính xác, kịp thời của hệ thống thông tin báo cáo và quản trị rủi ro.
− Để có thể hiểu rõ hơn về tình hình từng nhóm nợ của các nhóm nợ ta có thể xem bảng dưới đây:
Bảng 8: Dư nợ phân theo nhóm qua các năm
Chỉ tiêu Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 30/06/2011
Nguồn: Báo cáo trích lập dự phòng rủi ro hàng quý
Tỷ lệ nợ nhóm 1, tức nợ đủ tiêu chuẩn, luôn chiếm trên 90% tổng dư nợ qua các thời điểm, với đỉnh điểm năm 2009 đạt 98,42% Điều này cho thấy chất lượng tín dụng của các khoản nợ tại SGCTNH là tương đối tốt.
Trong các nhóm nợ từ 2 đến 5, nợ nhóm 2 - nợ cần chú ý vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất, với 1,8% tổng dư nợ năm 2008, giảm xuống 0,34% năm 2009, nhưng tăng lên 1,27% năm 2010 và đạt 4,32% vào 30/06/2011 Nguyên nhân là do khi một khách hàng có nợ chuyển sang nhóm 2, toàn bộ dư nợ của họ tại SGCTNH cũng bị chuyển theo, đặc biệt là với các khách hàng lớn, điều này gây lo ngại cho tỷ lệ nợ nhóm 2 Mặc dù tổng dư nợ tăng, nợ quá hạn cũng tăng theo, và phần lớn các khoản nợ nhóm 2 là những khoản điều chỉnh kỳ hạn nợ gốc hoặc lãi, hoặc một số khách hàng quá hạn trên 10 ngày tại thời điểm chốt số liệu, nhưng sau đó họ thường thanh toán ngay để dứt điểm khoản nợ quá hạn.
Nợ từ nhóm 3 đến nhóm 4 mặc dù chiếm tỷ lệ rất thấp trong tổng dư nợ nhưng lại là những khoản nợ thực sự quá hạn và gặp khó khăn trong việc trả nợ Để giải quyết vấn đề này, phòng tín dụng đã triển khai nhiều biện pháp thu hồi nợ, bao gồm khởi kiện tại tòa án và theo dõi sát sao quá trình thu hồi Ngoài ra, quỹ dự phòng rủi ro cũng được sử dụng để bù đắp cho một số trường hợp do tiến trình xử lý tài sản bị kéo dài, chủ yếu là do nguyên nhân từ các cơ quan công quyền.
Cuối năm 2009, không có nợ nhóm 5, nhưng đến năm 2010, tỷ lệ nợ nhóm 5 đã tăng lên 1,40%, và đến 30/06/2011, tỷ lệ này đạt 1,49% trên tổng dư nợ cho vay Phần lớn các khoản nợ này đã quá hạn từ 360 ngày trở lên, khiến việc thu hồi nợ trở nên khó khăn và mất nhiều thời gian, đặc biệt đối với các khoản có tài sản đảm bảo đầy đủ, chưa kể đến các khoản vay không có tài sản bảo đảm hoặc tài sản hình thành từ vốn vay mà chưa có giấy tờ pháp lý đầy đủ để thế chấp.
Diễn biến dư nợ từ nhóm 2 đến nhóm 4 của toàn hệ thống SGCTNH:
Ngân hàng nào cũng phải đối mặt với rủi ro tín dụng, và Saigon Bank cũng không phải là ngoại lệ trong vấn đề này.
Bảng 9: Dư nợ cho vay từ nhóm 2 đến nhóm 4 Đơn vị: tỷ đồng
Nguồn: Báo cáo trích lập dự phòng rủi ro hàng quý.
Biểu 6: Dư nợ cho vay từ nhóm 2 đến nhóm 4 Đơn vị: tỷ đồng
Nhóm 2 (trích 5%) Nhóm 3 (trích 20%) Nhóm 4 (trích 50%)
Nguồn: Báo cáo trích lập dự phòng rủi ro hàng quý
Tính đến ngày 30/06/2011, dư nợ nhóm 2 đã tăng 334,89 tỷ đồng, tương đương với 243,82% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu do một khách hàng với dư nợ khoảng 230 tỷ đồng bị chuyển sang nhóm 2 do không thanh toán được lãi hàng tháng Dư nợ thuộc nhóm 3 cũng ghi nhận sự gia tăng 42,8 tỷ đồng, tương ứng với 117,45% so với 30/06/2010, chủ yếu là các khoản nợ đã quá hạn từ 91 đến 180 ngày được chuyển từ nhóm 2 Ngược lại, dư nợ nhóm 4 giảm 65,3 tỷ đồng, tương đương 59,12%, do một phần nợ quá hạn đã được thu hồi hoặc đã chuyển sang nhóm nợ có rủi ro cao hơn - nhóm 5 Như vậy, dư nợ nhóm 2 vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng dư nợ từ nhóm 2 đến nhóm 4.
Cụ thể, diễn biến dư nợ nhóm 2 từ năm 2008đến 30/06/2011
Dư nợ cho vay nhóm 2 qua các thời điểm
Nguồn: Báo cáo trích lập dự phòng rủi ro hàng quý
Dư nợ nhóm 2, được phân loại là nhóm nợ cần chú ý, đã tăng liên tục qua các năm, đặc biệt là vào ngày 30/06/2011 khi ghi nhận sự gia tăng mạnh mẽ Tình hình kinh tế khó khăn đã tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, dẫn đến sự gia tăng nợ quá hạn.
Mặc dù dư nợ nhóm 2 đã tăng đáng kể, nhưng điều này không gây lo ngại vì sự gia tăng tổng dư nợ của toàn hệ thống là điều tự nhiên.
Tính đến ngày 30/06/2011, nợ nhóm 2 chỉ chiếm 4,32% tổng dư nợ của toàn hệ thống Đa số các khoản nợ này là những khoản quá hạn từ 10 đến 90 ngày và các khoản nợ đã được cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu.
Diễn biến dư nợ nhóm 3 - nhóm 4 từ năm 2008đến 30/06/2011:
Bảng 10: Dư nợ từ nhóm 3 đến nhóm 4 qua các thời điểm Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 30/06/2011
Nguồn: Báo cáo trích lập dự phòng rủi ro hàng quý
Dư nợ từ nhóm 3 đến nhóm 4 qua các thời điểm 57 Biểu 9: Dư nợ nhóm 5 qua các thời điểm 5 8
Tính cấp thiết của đề tài
Lợi nhuận và rủi ro luôn song hành, với lợi nhuận cao đồng nghĩa với rủi ro cao hơn Trong môi trường kinh doanh hiện nay, các doanh nhân như những chiến binh, sẵn sàng đối mặt với nguy hiểm để đạt được thành công Nếu chỉ tập trung vào lợi nhuận mà không nhận thức được rủi ro, họ sẽ dễ dàng rơi vào tình huống bất ngờ và không kịp ứng phó.
Nếu chỉ tập trung vào rủi ro mà bỏ qua lợi nhuận, doanh nghiệp sẽ bỏ lỡ cơ hội phát triển và khó có thể trở thành lớn mạnh Khi đã nhận thức được rủi ro, việc giảm thiểu nó đến mức thấp nhất là vô cùng cần thiết Rủi ro có thể ảnh hưởng tiêu cực đến doanh nghiệp, thậm chí dẫn đến phá sản Đối với ngân hàng thương mại, rủi ro liên quan đến tiền tệ - hàng hóa nhạy cảm, có khả năng lây lan giữa các ngân hàng Chỉ cần một số khách hàng gặp rủi ro mà không có biện pháp quản trị tốt, điều này không chỉ ảnh hưởng đến hình ảnh ngân hàng mà còn gây tổn hại cho toàn bộ hệ thống ngân hàng.
Từ xưa, người cho vay luôn yêu cầu bảo đảm chắc chắn cho việc hoàn trả nợ Dù ngân hàng có quyền thương lượng lớn trước khi ký hợp đồng vay, nhưng sau khi giải ngân, người vay lại có lợi thế hơn Khoản lỗ tiềm tàng phát sinh khi ngân hàng cấp tín dụng, dẫn đến rủi ro thiệt hại nếu người vay không trả nợ đúng hạn hoặc không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng vì bất kỳ lý do nào.
Hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại phụ thuộc vào khả năng quản trị rủi ro, đặc biệt là rủi ro tín dụng, do hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng lớn nhất từ 60-70% trong danh mục tài sản của hầu hết các ngân hàng thương mại ở Việt Nam, đồng thời là nguồn thu nhập chính cho các ngân hàng Nguồn tín dụng này cũng đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp vốn cho các doanh nghiệp.
Phát sinh nợ xấu là điều không thể tránh khỏi trong hoạt động của ngành ngân hàng, khiến các ngân hàng thương mại luôn phải đối mặt với những khoản nợ khó đòi Do đó, việc quản lý nợ xấu trở thành một nhiệm vụ quan trọng để đảm bảo sự ổn định và phát triển bền vững của hệ thống tài chính.
Vũ Viết Ngoạn, Tổng Giám đốc Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam (VCB), đã cảnh báo rằng nợ xấu đang trở thành mối lo ngại lớn đối với hầu hết các ngân hàng tại Châu Á, trong đó có các ngân hàng Việt Nam Ông Mike Smith, Tổng Giám đốc ANZ, ngân hàng lớn thứ tư của Australia, đã so sánh nợ khó đòi với những dư chấn tàn phá nghiêm trọng sau một trận động đất mạnh.
Để giảm thiểu hậu quả từ rủi ro tín dụng, các ngân hàng cần thực hiện các biện pháp phòng ngừa hiệu quả Nhận thức được tầm quan trọng này, tác giả đã chọn nghiên cứu đề tài "Phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Công Thương" nhằm tìm ra các giải pháp khả thi.
Mục đích nghiên cứu
Rủi ro tín dụng là một vấn đề lý luận quan trọng cần được hệ thống hóa, bao gồm sự cần thiết phải chú trọng đến nó và những hậu quả mà nó gây ra Từ đó, việc xây dựng chương trình quản trị rủi ro tín dụng trở nên cấp bách, đồng thời cần phân tích các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng để có biện pháp phòng ngừa hiệu quả.
Bài viết phân tích thực trạng hoạt động cho vay tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn Công Thương, tập trung vào chính sách và quy trình tín dụng hiện hành Nghiên cứu tình hình dư nợ cho vay từ năm 2008 đến giữa năm 2011, đánh giá những thành tựu và tồn tại trong hoạt động cho vay Đề xuất các giải pháp nhằm giảm thiểu rủi ro tín dụng, bao gồm việc đào tạo và tuyển chọn cán bộ có năng lực, thiết lập chế độ khen thưởng và kỷ luật rõ ràng, thực hiện bảo đảm tín dụng chặt chẽ, và khuyến khích cán bộ tín dụng nâng cao trình độ để phân tích xu hướng ngành và kiểm tra tính chính xác của báo cáo tài chính, đồng thời nâng cao nhận thức của người vay.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Những vấn đề cơ bản về tín dụng và rủi ro tín dụng, hậu quả của rủi ro tín dụng.
Tình hình hoạt động tín dụng tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn Công Thương trong giai đoạn từ năm 2008 đến nửa đầu năm 2011 cho thấy sự chú trọng vào dư nợ cho vay Đặc biệt, diễn biến nợ quá hạn trong thời gian này đã có những thay đổi đáng kể, phản ánh thực trạng và thách thức mà ngân hàng đang đối mặt trong việc quản lý rủi ro tín dụng.
Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu tác giảsử dụng các phương pháp sau:
Phương pháp tổng hợp số liệu được thực hiện dựa trên các báo cáo từ các cơ quan chức năng, ngân hàng thương mại, và tài liệu từ các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, tạp chí chuyên ngành và Internet.
- Phương pháp thống kê chọn mẫu, so sánh: theo thời gian, theo chỉ tiêu,…
Kết cấu luận văn
Chương 1: Cở sở lý luận về phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng
Chương 2: Thực trạng về phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng
TMCP Sài Gòn Công Thương
Chương 3: Giải pháp nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng
TMCP Sài Gòn Công Thương.
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1 Khái niệm rủi ro tín dụng
Ngân hàng đóng vai trò trung gian trong thị trường tài chính với chức năng "đi vay để cho vay", do đó, họ phải đối mặt với rủi ro từ cả người đi vay và người cho vay Rủi ro tín dụng xuất hiện khi người gửi tiền rút tiền trước hạn từ góc độ người đi vay, trong khi từ góc độ người cho vay, rủi ro xảy ra khi người vay không hoàn trả đúng hạn theo hợp đồng tín dụng đã ký với ngân hàng.
Rủi ro tín dụng là khả năng khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ thanh toán khoản vay đối với ngân hàng, dẫn đến tổn thất cho ngân hàng Điều này bao gồm việc khách hàng không trả nợ, không thanh toán đầy đủ hoặc không đúng hạn cả gốc lẫn lãi.
Rủi ro tín dụng phản ánh khả năng vỡ nợ của khách hàng, vì vậy ngân hàng cần phân tích kỹ lưỡng tình hình tài chính của họ Các dấu hiệu như phá sản, lừa đảo, hoặc chây ỳ trong việc thanh toán nợ là những biểu hiện rõ ràng nhất của rủi ro Ngoài ra, các khoản nợ đến hạn không được thanh toán cũng cho thấy khả năng vỡ nợ Nhiều ngân hàng coi các khoản nợ chưa đến hạn là rủi ro nếu một khoản nợ đã đến hạn không được thanh toán Thậm chí, trong trường hợp khách hàng vẫn có khả năng trả nợ nhưng tình hình tài chính yếu kém hoặc môi trường kinh doanh không thuận lợi, các khoản nợ cũng được xem là có rủi ro.
Hiện nay, nhiều tổ chức tín dụng đang chú trọng đến công tác cho vay, mở rộng phạm vi cho vay và tăng trưởng tín dụng, đồng thời vẫn đảm bảo khả năng thu hồi nợ đúng hạn và giảm thiểu rủi ro Tuy nhiên, vẫn còn một số tổ chức gặp khó khăn, với nợ quá hạn cũ chưa thu hồi và nợ quá hạn mới phát sinh ngày càng nhiều, ảnh hưởng đến khả năng hoạt động của họ.
Rủi ro có thể được định nghĩa là những sự kiện không lường trước, dẫn đến thiệt hại về tài sản và giảm sút thu nhập của ngân hàng trong quá trình hoạt động.
1.1.2 Hậu quả rủi ro tín dụng
1.1.2.1 Đối với bản thân ngân hàng
Rủi ro tín dụng gây ra hậu quả nghiêm trọng cho ngân hàng, khi không thu hồi được nợ gốc và lãi, dẫn đến suy giảm doanh thu Trong khi ngân hàng vẫn phải trả lãi cho khách hàng, chi phí tăng lên do các vụ kiện tụng, khiến lợi nhuận giảm dần và có thể dẫn đến thua lỗ Nợ quá hạn trở thành gánh nặng lớn, làm gián đoạn vòng quay vốn tín dụng và hạn chế khả năng đảm bảo vốn lưu động, từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến chức năng kinh doanh tín dụng của ngân hàng.
Chất lượng tín dụng yếu kém không chỉ dẫn đến thất thoát vốn mà còn tạo ra tổn thất lớn cho các địa phương nghèo do nhiều dự án kém chất lượng được thực hiện Nhiều cán bộ đã lợi dụng tình hình này để làm giàu nhanh chóng Tình trạng khó khăn tài chính của các ngân hàng thường xuất phát từ những khoản vay khó đòi, dẫn đến việc hàng loạt quỹ tín dụng và ngân hàng chính sách bị đổ vỡ, trong khi một số khác phải nằm trong diện giám sát đặc biệt.
Khi tổn thất do rủi ro tín dụng nằm trong mức kiểm soát, việc xử lý trở nên dễ dàng nhờ quỹ dự phòng của tổ chức tín dụng Tuy nhiên, nếu tổn thất vượt quá khả năng xử lý, vấn đề sẽ trở nên nghiêm trọng, ảnh hưởng không chỉ đến tổ chức tín dụng mà còn đến các tổ chức và doanh nghiệp khác, đe dọa quyền lợi của người gửi tiền và toàn bộ nền kinh tế, tạo ra nguy cơ tiềm ẩn cho khủng hoảng tài chính.
Kinh doanh ngân hàng là một lĩnh vực dựa trên chữ tín, đòi hỏi ngân hàng phải nỗ lực trong nhiều năm để xây dựng uy tín Tuy nhiên, khi xảy ra rủi ro cao, việc phục hồi lợi thế trên thị trường trở nên rất khó khăn, vì một ngân hàng bị sụp đổ có thể làm giảm lòng tin của công chúng vào toàn hệ thống ngân hàng Điều này dẫn đến khả năng thanh toán của ngân hàng bị suy giảm, lợi nhuận giảm và thậm chí có thể dẫn đến phá sản cho các ngân hàng thương mại Hơn nữa, sự rò rỉ chất xám do mức lương thấp khiến ngân hàng mất nhân viên, đồng thời làm thu hẹp mối liên kết kinh doanh với các ngân hàng trong nước và quốc tế.
1.1.2.2 Đối với nền kinh tế quốc dân
Hoạt động kinh doanh của ngân hàng là một lĩnh vực đặc biệt, có ảnh hưởng sâu rộng đến nền kinh tế xã hội Khi một ngân hàng gặp khó khăn, nó có thể tạo ra phản ứng dây chuyền đối với các ngân hàng và định chế tài chính khác, chủ yếu do rủi ro tín dụng dẫn đến rủi ro thanh khoản, làm giảm lòng tin của người dân Hệ quả là có thể xảy ra khủng hoảng tài chính nghiêm trọng, ảnh hưởng đến các doanh nghiệp và kìm hãm sự phát triển kinh tế, gây suy thoái nền kinh tế.
1.1.3 Những nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
Trong quan hệ tín dụng, có hai bên chính là ngân hàng cho vay và người đi vay Người đi vay sử dụng số tiền vay trong một khoảng thời gian nhất định, tuân theo các điều kiện cụ thể của môi trường kinh doanh Môi trường kinh doanh này được xem là yếu tố thứ ba trong quan hệ tín dụng Rủi ro tín dụng phát sinh từ môi trường kinh doanh được gọi là rủi ro do nguyên nhân khách quan.
Rủi ro do môi trường kinh tế không thuận lợi
Sự biến động nhanh chóng và khó lường của thị trường thế giới đang ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của người vay tại Việt Nam Nền kinh tế quốc gia vẫn phụ thuộc nhiều vào nông nghiệp và ngành công nghiệp liên quan, như nuôi trồng và chế biến thực phẩm, khiến cho doanh nghiệp dễ bị tổn thương trước rủi ro thời tiết và biến động giá cả toàn cầu Các khó khăn như hạn ngạch trong ngành dệt may và kiện bán phá giá trong ngành thủy sản đã tác động trực tiếp đến hoạt động của doanh nghiệp và các ngân hàng cho vay Không chỉ xuất khẩu, mà cả hàng hóa nhập khẩu cũng phải đối mặt với nhiều rủi ro tương tự.
Quá trình tự do hóa tài chính và hội nhập quốc tế đã dẫn đến sự gia tăng nợ xấu do môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến nhiều doanh nghiệp và khách hàng ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại trong nước và quốc tế cũng tạo ra rủi ro nợ xấu tăng cao cho các ngân hàng nội địa, khi khách hàng tiềm lực tài chính lớn bị thu hút bởi các sản phẩm và dịch vụ mới từ ngân hàng nước ngoài.
Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi
Trong những năm gần đây, Nhà nước đã ban hành nhiều luật và văn bản hướng dẫn thi hành liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng Tuy nhiên, việc triển khai vẫn chậm và gặp nhiều vướng mắc, đặc biệt trong việc cưỡng chế tài sản thu hồi nợ Dù các quy định pháp luật cho phép ngân hàng thương mại xử lý tài sản bảo đảm khi khách hàng không trả được nợ, nhưng thực tế cho thấy các ngân hàng không thể thực hiện điều này do không có quyền lực nhà nước để buộc khách hàng bàn giao tài sản bảo đảm.
Hoạt động thanh tra ngân hàng cần được cải thiện để nâng cao chất lượng và bắt kịp công nghệ mới của các ngân hàng thương mại Nếu thanh tra chỉ hoạt động thụ động và không có biện pháp cảnh báo, rủi ro sẽ gia tăng và có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng cho sự an toàn của hệ thống ngân hàng.
PHÒNG NGỪA VÀ HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1 Khái niệm về phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là yếu tố không thể tránh khỏi trong quản lý ngân hàng, tuy nhiên có thể được phòng ngừa và hạn chế Vì vậy, việc tìm kiếm các giải pháp để giảm thiểu rủi ro tín dụng luôn là vấn đề quan trọng và cần thiết, thu hút sự chú ý hàng đầu của mọi ngân hàng hiện nay.
Vậy thế nào là phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng?
Trước khi khám phá các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng, chúng ta cần hiểu rõ khái niệm về rủi ro và rủi ro tín dụng là gì.
Rủi ro được định nghĩa là sự không may mắn, tổn thất hay nguy hiểm, thường liên quan đến những bất trắc ngoài ý muốn trong quá trình kinh doanh Nó có thể dẫn đến tổn thất tài sản hoặc giảm sút lợi nhuận thực tế so với dự kiến, ảnh hưởng tiêu cực đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp Tuy nhiên, nếu được nghiên cứu một cách tích cực, rủi ro có thể trở thành cơ hội để tìm ra các biện pháp phòng ngừa và hạn chế hiệu quả nhất.
Rủi ro tín dụng là khả năng khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ đối với ngân hàng, dẫn đến tổn thất cho ngân hàng Điều này bao gồm việc khách hàng không trả hoặc trả không đúng hạn cả gốc lẫn lãi.
Hiện nay, các ngân hàng thương mại đang đối mặt với nhiều rủi ro trong hoạt động cho vay, đặc biệt là tình trạng nợ quá hạn ngày càng gia tăng Những rủi ro này không chỉ ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của các ngân hàng mà còn tác động tiêu cực đến sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng là việc nghiên cứu và đề ra các giải pháp nhằm ngăn chặn tối đa việc phát sinh rủi ro, như khách hàng vay vốn nhưng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ với ngân hàng, gây tổn thất cho ngân hàng Điều này ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân hàng, thể hiện qua các chỉ tiêu như tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ, tỷ lệ nợ đã xóa và xử lý trên tổng dư nợ, cùng với chi phí dự phòng tín dụng và số dư dự phòng rủi ro tín dụng trên tổng dư nợ.
Sự phát triển kinh tế kéo theo nhu cầu vốn ngày càng gia tăng, dẫn đến mức độ tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng thương mại (NHTM) cũng tăng theo Tăng trưởng tín dụng này phản ánh sự phát triển chung của nền kinh tế quốc gia và kinh tế thành phố Tuy nhiên, sự gia tăng tín dụng cũng đồng nghĩa với việc gia tăng rủi ro tín dụng, ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả sử dụng vốn và hạn chế khả năng mở rộng tín dụng của các NHTM.
Do đó việc phát triển tín dụng phải đi đôi với chất lượng tín dụng
Các ngân hàng hiện nay đang chú trọng đến việc áp dụng các giải pháp hiệu quả trong quản lý rủi ro tín dụng để đảm bảo sự tăng trưởng tín dụng ổn định và bền vững.
1.2.2 Xây dựng chương trình quản trị rủi ro nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro tại ngân hàng thương mại
Hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại (NHTM) luôn tiềm ẩn rủi ro, tuy nhiên, ngân hàng có thể hoạt động hiệu quả nếu mức rủi ro được kiểm soát hợp lý Do đó, quản trị rủi ro là yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng hoạt động của NHTM Các nhà quản trị cần được trang bị kiến thức về quản trị rủi ro, thông tin kinh tế cập nhật, và đội ngũ chuyên nghiệp để kiểm soát, phòng ngừa rủi ro, từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh Nhiều ý kiến cho rằng quản trị rủi ro chính là nghiệp vụ chủ đạo, quyết định khả năng "sống" hay "chết" của một NHTM.
Một chương trình quản trị rủi ro toàn diện bao gồm bốn yếu tố quan trọng: xác định hạn mức rủi ro để thiết lập mức rủi ro chấp nhận được, đánh giá rủi ro để nhận diện và phân tích các mối đe dọa, theo dõi tổng thể rủi ro để đảm bảo sự kiểm soát liên tục, và quy trình quản trị rủi ro nhằm thực hiện các biện pháp giảm thiểu hiệu quả.
Xác định hạn mức rủi ro
Các bộ phận quản trị rủi ro cần xác định hạn mức rủi ro chấp nhận được để tối ưu hóa lợi nhuận, dựa trên khả năng chịu đựng rủi ro và sức mạnh tài chính của TCTD Hội đồng quản trị có trách nhiệm định kỳ xem xét và phê duyệt các hạn mức này, sau đó thông báo đến toàn bộ nhân viên và ban điều hành Ban điều hành đảm bảo các bộ phận tuân thủ hạn mức đã được thiết lập, với các chế độ thưởng phạt áp dụng cho những trường hợp vượt quá hoặc không đạt yêu cầu.
Đánh giá rủi ro trong tổ chức tín dụng (TCTD) yêu cầu xác định các rủi ro lớn liên quan đến sản phẩm, dịch vụ và hoạt động Cần thiết lập các chốt kiểm tra trong quy trình nghiệp vụ để kiểm soát rủi ro trong các hạn mức đã đề ra, cùng với biện pháp theo dõi các trường hợp ngoại lệ vượt quá hạn mức rủi ro.
Quy trình đánh giá rủi ro tín dụng có 4 yếu tố: nhận biết rủi ro, đo lường rủi ro, theo dõi rủi ro và kiểm soát rủi ro
Nhận biết rủi ro là bước đầu tiên quan trọng trong việc xây dựng chương trình quản trị rủi ro hiệu quả Để thực hiện điều này, các tổ chức tín dụng cần xác định và phân tích các loại rủi ro tiềm ẩn thông qua việc xem xét đặc thù của sản phẩm, dịch vụ và quy trình hoạt động của mình.
Dấu hiệu liên quan đến ngân hàng:
Giảm sút mạnh số dư tiền gửi.
Mức độ vay thường xuyên.
Yêu cầu khoản vay vượt quá nhu cầu dự kiến
Chấp nhận sử dụng nguồn tài trợ lãi suất cao.
Chậm thanh toán nợ gốc và lãi cho ngân hàng.
Dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý với KH:
Xuất hiện sự bất đồng trong hệ thống điều hành.
Ít kinh nghiệm, xuất hiện nhiều hành độngnhất thời.
Thuyên chuyển nhân viên quá thường xuyên.
Tranh chấp trong quá trình quản lý.
Chi phí quản lý bất hợp pháp
Quản lý có tính gia đình.
Dấu hiệu vấn đề kỹ thuật và thương mại:
Khó khăn trong phát triển sản phẩm mới, hoặc không có sản phẩm thay thế
Những thay đổi chính sách của nhà nước
Sản phẩm có tính thời vụ cao.
Có biểu hiện cắt giảm chi phí.
Thay đổi trên thị trường về lãi suất, tỷ giá, mất KH lớn, vấn đề thị hiếu
Dấu hiệu về xử lý thông tin tài chính:
Sự gia tăng tỷ lệ không cân đối nợ
Chuẩn bị số liệu tài chính không đủ, trì hoãn nộp báo cáo.
Khả năng tiền mặt giảm
Phải thu tăng nhanh và thời hạn thanh toán nợ kéo dài.
Kết quả kinh doanh lỗ.
Cố tình làm đẹp Bảng cân đối tài sản bằng tài sản vô hình
Dấu hiệu phi tài chính khác:
Có sự xuống cấp của cơ sở kinh doanh
Hàng tồn kho tăng do không bán được, hư hỏng, lạc hậu.
Đo lường rủi ro là yếu tố quan trọng mà các nhà quản lý ngân hàng cần chú trọng, vì nó giúp việc phòng ngừa rủi ro trở nên hiệu quả hơn Trong hoạt động ngân hàng, việc đo lường rủi ro được thể hiện qua hai phương diện chính.
Đo lường thiệt hại do rủi ro là việc xác định hậu quả khi rủi ro xảy ra, có thể được thể hiện dưới dạng số tuyệt đối hoặc số tương đối Các tiêu thức để đánh giá thiệt hại bao gồm giá trị thiệt hại, số lần xảy ra rủi ro và tỷ lệ tài sản bị ảnh hưởng.