1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Các nhân tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn chính sách kế toán của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh bình định

118 19 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 118
Dung lượng 1,95 MB

Cấu trúc

  • 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu (11)
  • 2. Tổng quan về các đề tài đã nghiên cứu có liên quan (12)
  • 3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài (20)
  • 4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu (21)
  • 5. Phương pháp nghiên cứu (21)
  • 6. Ý nghĩa khoa học của đề tài (22)
  • 7. Kết cấu của đề tài (22)
  • CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU (23)
    • 1.1 Cơ sở lý thuyết về lựa chọn chính sách kế toán (23)
      • 1.1.1 Khái niệm chính sách kế toán (23)
      • 1.1.2 Vai trò của chính sách kế toán (23)
      • 1.1.3 Lựa chọn chính sách kế toán (25)
      • 1.1.4 Mục tiêu của việc lựa chọn chính sách kế toán (25)
    • 1.2 Các văn bản liên quan quy định đến chính sách kế toán hiện hành Việt Nam hiện nay (26)
    • 1.3 Khái quát về doanh nghiệp nhỏ và vừa và đặc điểm doanh nghiệp nhỏ và vừa ảnh hưởng đến lựa chọn chính sách kế toán (27)
      • 1.3.1 Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa (27)
      • 1.3.2 Đặc điểm doanh nghiệp nhỏ và vừa ảnh hưởng đến lựa chọn chính sách kế toán (29)
    • 1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến lựa chọn chính sách kế toán (31)
      • 1.4.1 Sự tin cậy của các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp (31)
      • 1.4.2 Mức vay nợ (31)
      • 1.4.3 Khả năng vi phạm hợp đồng vay nợ (32)
      • 1.4.4 Thuế (33)
      • 1.4.5 Mục tiêu của doanh nghiệp (34)
      • 1.4.6 Trình độ người làm kế toán (34)
    • 1.5 Lý thuyết nền (35)
      • 1.5.1. Lý thuyết bất cân xứng thông tin (35)
      • 1.5.2. Lý thuyết ủy nhiệm (Agency theory) (36)
    • 1.6 Mô hình nghiên cứu đề xuất (38)
  • CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (41)
    • 2.1 Quy trình nghiên cứu (41)
    • 2.2 Phương pháp nghiên cứu định tính (43)
    • 2.3 Phương pháp nghiên cứu định lượng (46)
      • 2.3.1 Thiết kế và mã hóa thang đo (46)
      • 2.3.2 Phương pháp chọn mẫu (50)
    • 2.4 Phương pháp phân tích dữ liệu (50)
      • 2.4.1 Phương pháp thống kê mô tả (50)
      • 2.4.2 Đánh giá độ tin cậy thang đo (50)
      • 2.4.3 Phân tích nhân tố khám phá EFA (51)
      • 2.4.4 Phân tích hồi quy đa biến (52)
    • 3.5 Mô tả mẫu khảo sát (53)
  • CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU (58)
    • 3.1. Đánh giá thang đo (58)
      • 3.1.2. Cronbach’s alpha của thang đo nhân tố Mức vay nợ (59)
      • 3.1.3. Cronbach’s alpha của thang đo nhân tố Khả năng vi phạm hợp đồng (60)
      • 3.1.4. Cronbach’s alpha của thang đo nhân tố Thuế (61)
      • 3.1.5. Cronbach’s alpha của thang đo nhân tố Mục tiêu của doanh nghiệp 51 (61)
      • 3.1.6 Cronbach’s alpha của thang đo Trình độ người làm kế toán (63)
      • 3.1.7. Cronbach’s alpha của thang đo Lựa chọn chính sách kế toán ở các (63)
    • 3.2 Phân tích nhân tố khám phá (EFA) các nhân tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn chính sách kế toán ở các DNNVV trên địa bàn tỉnh Bình Định 54 .1. Phân tích nhân tố khám phá (EFA) (64)
      • 3.2.2 Kết luận phân tích nhân tố khám phá mô hình đo lường (68)
    • 3.3 Kiểm định độ phù hợp của mô hình nghiên cứu (69)
      • 3.3.1 Phương pháp nhập các biến thành phần trong mô hình hồi quy bội (69)
      • 3.3.2 Đánh giá mức độ phù hợp của mô hình hồi quy tuyến tính bội (70)
      • 3.3.3 Kiểm định độ phù hợp của mô hình hồi qui tuyến tính bội (71)
      • 3.3.4 Kiểm định giả thuyết về ý nghĩa của các hệ số hồi quy (72)
      • 3.4.1 Kiểm định giả định phương sai của sai số (phần dư) không đổi (73)
      • 3.4.2 Kiểm tra giả định các phần dư có phân phối chuẩn (74)
      • 3.4.3 Kiểm tra giả định không có mối tương quan giữa các biến độc lập (Hiện tượng đa cộng tuyến) (75)
    • 3.5 Mô hình hồi quy của các nhân tố ảnh hưởng đến lựa chọn chính sách kế toán ở các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Bình Định (76)
    • 3.6 Bàn luận về kết quả nghiên cứu (77)
  • CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ (81)
    • 4.1 Kết luận (81)
    • 4.2 Kiến nghị (82)
      • 4.2.1 Sự tin cậy của các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp (82)
      • 4.2.2 Mức vay nợ (83)
      • 4.2.3 Khả năng vi phạm hợp đồng vay nợ (84)
      • 4.2.4 Thuế (84)
      • 4.2.5 Mục tiêu của doanh nghiệp (86)
      • 4.2.6 Trình độ người làm kế toán (86)
    • 4.3 Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo của đề tài (87)
  • PHỤ LỤC (93)

Nội dung

Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Chính sách kế toán đóng vai trò quan trọng trong doanh nghiệp, bao gồm các nguyên tắc, cơ sở và phương pháp kế toán cụ thể mà doanh nghiệp áp dụng Những chính sách này được trình bày rõ ràng trong quá trình lập báo cáo tài chính, giúp đảm bảo tính minh bạch và chính xác trong thông tin tài chính.

Báo cáo tài chính là sản phẩm cuối cùng của kế toán, nhằm cung cấp thông tin tài chính cho các bên liên quan trong và ngoài doanh nghiệp Với sự đa dạng trong đối tượng sử dụng, nội dung, độ chính xác và chi tiết của thông tin trong báo cáo tài chính luôn thu hút sự quan tâm của người đọc.

Mỗi chính sách kế toán mà doanh nghiệp áp dụng sẽ dẫn đến sự khác biệt trong thông tin báo cáo tài chính Sự lựa chọn chính sách kế toán phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nhận thức của chủ sở hữu, chiến lược né tránh thuế, thu hút vốn đầu tư mới và kỳ vọng tăng lợi nhuận Những yếu tố này, bên cạnh việc tuân thủ các chuẩn mực kế toán, có thể ảnh hưởng đến hành vi tối đa hóa giá trị doanh nghiệp, từ đó làm giảm độ tin cậy của thông tin báo cáo tài chính Do đó, nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn chính sách kế toán là rất cần thiết, đặc biệt trong bối cảnh chất lượng báo cáo tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam đang gặp nhiều vấn đề.

Hiện nay, các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam, đặc biệt là ở tỉnh Bình Định, vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc lựa chọn và áp dụng chính sách kế toán phù hợp Việc thiếu quan tâm và nghiên cứu về các chính sách kế toán làm hạn chế khả năng phát triển của doanh nghiệp Hơn nữa, hệ thống pháp lý không ổn định và các quy định về chế độ, chính sách kế toán thường xuyên thay đổi, tạo ra nhiều thách thức cho các doanh nghiệp trong việc đưa ra quyết định đúng đắn về kế toán.

Hiện nay, nhiều nghiên cứu về lựa chọn chính sách kế toán đã được thực hiện, nhưng hầu hết đều có phạm vi khảo sát quá rộng, chưa tập trung vào đặc điểm ngành nghề và loại hình doanh nghiệp cụ thể Đặc biệt, chưa có nghiên cứu nào tập trung vào doanh nghiệp nhỏ và vừa tại tỉnh Bình Định Nhận thấy tầm quan trọng của việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến lựa chọn chính sách kế toán, tác giả đã chọn đề tài “Các nhân tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn chính sách kế toán của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Bình Định” để tiến hành nghiên cứu.

Tổng quan về các đề tài đã nghiên cứu có liên quan

2.1 Các nghiên cứu nước ngoài

Nghiên cứu của Steven Young (1998) mang tên “Các yếu tố quyết định sự lựa chọn chính sách kế toán quản trị: Bằng chứng thêm cho Vương quốc Anh” nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn chính sách kế toán tại các công ty trong ngành công nghiệp và thương mại ở Anh Nghiên cứu dựa trên các giả thuyết kế thừa từ Watts và Zimmerman, sử dụng lý thuyết chi phí ký kết hợp đồng, lý thuyết ổn định lợi nhuận và lý thuyết tín hiệu thông tin Lý thuyết chi phí ký kết hợp đồng liên quan đến giả thuyết nợ và kế hoạch tiền thưởng dựa trên lợi nhuận có tác động tích cực đến sự lựa chọn kế toán Kết quả cho thấy rằng sự lựa chọn chính sách kế toán ổn định lợi nhuận tuân theo nguyên tắc kế toán thận trọng, giúp các nhà quản lý nhận diện dòng tiền mong muốn trong tương lai và giảm thiểu khả năng vi phạm hợp đồng nợ Mối quan hệ giữa tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu và chính sách kế toán có thể phản ánh sự thay đổi trong khả năng vi phạm hợp đồng nợ theo từng thời kỳ.

Doanh nghiệp có thể chọn cơ sở kinh doanh tối ưu nhất cho mình, nhưng nhiều yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định quản lý vẫn chưa được xem xét trong nghiên cứu này.

Nghiên cứu của Charles P Cullinan (1999) mang tên “International Trade and Accounting Policy Choice: Theory and Canadian Evidence” khám phá ảnh hưởng của hoạt động thương mại quốc tế đến sự lựa chọn chính sách kế toán Ông chỉ ra rằng, các doanh nghiệp xuất khẩu có xu hướng lựa chọn phương pháp trích khấu hao nhằm tối ưu hóa lợi nhuận Kết quả kiểm tra thực tế từ các doanh nghiệp ở Canada chứng minh rằng, hoạt động thương mại quốc tế đóng vai trò quan trọng trong việc định hình các quyết định kế toán.

Nghiên cứu cho thấy rằng các doanh nghiệp (DN) nhập khẩu có xu hướng lựa chọn cơ sở khoa học và công nghệ (CSKT) nhằm tối đa hóa lợi nhuận, hơn hẳn so với các DN không xuất khẩu Điều này cho thấy rằng DN nhập khẩu thường có lợi nhuận tăng trưởng hơn so với DN không nhập khẩu Điểm mới trong nghiên cứu của Charles là việc xem xét các bên liên quan khác như khách hàng và nhà cung cấp nước ngoài, điều mà các nghiên cứu trước đây chưa đề cập Các bên liên quan này có thể đánh giá sức mạnh tài chính của các đối tác thương mại, từ đó giúp DN có hoạt động thương mại quốc tế lựa chọn CSKT hiệu quả hơn Tuy nhiên, nghiên cứu cũng có một số hạn chế về dữ liệu và khả năng khái quát, với kết quả chỉ áp dụng cho các DN có hoạt động thương mại công khai.

Nghiên cứu của Bosnyák (2003) với tiêu đề “Tác động của các phương pháp đánh giá đến vị thế tài chính, hiệu suất và dòng tiền của các thực thể” đã chỉ ra rằng các lựa chọn chính sách kế toán của các tập đoàn lớn và doanh nghiệp vừa và nhỏ bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố Các nhân tố này bao gồm chi phí thuế, hình ảnh doanh nghiệp, nhu cầu thông tin kế toán, tính nghề nghiệp và cách ghi nhận nghiệp vụ kế toán Kết quả khảo sát cho thấy chi phí thuế là yếu tố ảnh hưởng mạnh nhất đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ, với 26,17% kế toán viên chọn chính sách kế toán dựa vào yếu tố này Ngược lại, thông tin là yếu tố quyết định chính trong việc lựa chọn chính sách kế toán của các tập đoàn lớn Nghiên cứu này không chỉ đưa ra mô hình và các biến quan sát cụ thể mà còn tạo nền tảng cho các nghiên cứu tiếp theo về sự lựa chọn chính sách kế toán.

Nghiên cứu của Christos Tzovas (2006) về "Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chính sách kế toán của doanh nghiệp khi kế toán thuế và kế toán tài chính trùng khớp" chỉ ra rằng việc áp dụng chính sách kế toán tiết kiệm thuế có thể cải thiện dòng tiền nhưng cũng đồng nghĩa với việc công bố lợi nhuận thấp, ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên sử dụng thông tin Qua khảo sát 200 nhà quản lý của các doanh nghiệp lớn nhất Hy Lạp, tác giả cho thấy sự lựa chọn chính sách kế toán chịu tác động từ các yếu tố như mục tiêu lợi nhuận, tối thiểu hóa nghĩa vụ thuế và nhận thức của các bên liên quan Sự mâu thuẫn giữa việc giảm thuế và lợi nhuận báo cáo có thể làm gia tăng chi phí vay vốn và ảnh hưởng đến quyết định đầu tư, giá cổ phiếu và cam kết vốn vay Nghiên cứu đã cung cấp bằng chứng về mức độ lợi nhuận giảm do những tác động này.

Doanh nghiệp mong muốn giảm thuế và tăng lợi nhuận để dễ dàng vay vốn, nâng cao giá cổ phiếu và tránh vi phạm cam kết về vốn vay Nghiên cứu này không chỉ áp dụng cho Hy Lạp mà còn cho các quốc gia châu Âu có môi trường kế toán tương tự, nơi mà nguồn vốn chủ yếu dựa vào vay nợ ngân hàng Việc hiểu rõ mối quan hệ giữa các yếu tố trong lựa chọn kế toán không chỉ hỗ trợ nghiên cứu học thuật mà còn là nền tảng cho phân tích kế toán và tài chính quốc tế, đóng vai trò quan trọng trong các quyết định đầu tư.

Nghiên cứu của Szilveszter Fekete và các cộng sự (2010) về "Giải thích các lựa chọn chính sách kế toán của DN vừa và nhỏ" đã chỉ ra rằng có 6 nhân tố chính ảnh hưởng đến sự lựa chọn chính sách kế toán (CSKT) của các doanh nghiệp này tại Rumani, bao gồm thuế, nhu cầu thông tin của người sử dụng báo cáo tài chính (BCTC), hình ảnh doanh nghiệp bên ngoài và bên trong, cùng với tính trung thực và hợp lý của báo cáo tài chính Dữ liệu được thu thập từ các giám đốc tài chính và kế toán trưởng của các DN vừa và nhỏ, với 20 biến đo lường được xây dựng dựa trên mô hình của Bosnyák (2003) Kết quả cho thấy nhu cầu thông tin của người sử dụng BCTC là yếu tố có ảnh hưởng lớn nhất đến sự lựa chọn CSKT, tiếp theo là thuế, hình ảnh doanh nghiệp, tính trung thực và hợp lý của BCTC, và cuối cùng là yếu tố kinh tế của DN.

Marina Gurau (2014) trong nghiên cứu “Ba loại báo cáo tài chính: nghiên cứu trường hợp tại Romania” cho rằng việc lựa chọn cơ sở kế toán trong từng tình huống cụ thể sẽ ảnh hưởng đến báo cáo tài chính, phản ánh tình hình tài chính và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, từ đó cung cấp thông tin cho người sử dụng đưa ra quyết định kinh tế Tác giả nhấn mạnh rằng việc lựa chọn cơ sở kế toán là sự kết hợp giữa mong muốn của nhà quản trị và yêu cầu tuân thủ các chuẩn mực đã ban hành Do đó, thông tin trên báo cáo tài chính không hoàn toàn trung thực và hợp lý Gurau đề xuất ba mục tiêu cho việc lựa chọn cơ sở kế toán: điều chỉnh lợi nhuận kế toán trong kỳ, bảo toàn vốn dài hạn, và tuân thủ các quy tắc kế toán cũng như quy định luật thuế Nghiên cứu của Marina Gurau cung cấp những phương pháp và hướng dẫn cụ thể cho việc lựa chọn cơ sở kế toán nhằm đạt được các mục tiêu của doanh nghiệp.

Nghiên cứu của Okpala, Kenneth Enoch (2016) mang tên “Factors influencing accounting policy choices under IFRS in Airline-GSA companies” nhằm đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn chính sách kế toán trong các công ty Đại lý bán hàng hàng không Với mẫu nghiên cứu gồm 101 nhân viên cấp cao từ 10 công ty GSA, kết quả cho thấy quy mô doanh nghiệp không ảnh hưởng đến việc lựa chọn chính sách kế toán, trong khi mục tiêu thuế của công ty có mối quan hệ đáng kể với sự lựa chọn này Nghiên cứu khuyến nghị rằng các công ty nên tập trung vào việc nâng cao chất lượng thông tin báo cáo tài chính thay vì chỉ chú trọng vào mục tiêu thuế khi lựa chọn chính sách kế toán.

2.2 Các nghiên cứu trong nước

Nghiên cứu của Phạm Thị Bích Vân (2012) về “Ảnh hưởng của thuế thu nhập doanh nghiệp đến sự lựa chọn các chính sách kế toán của các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” phân tích tác động của thuế đến các quyết định kế toán của doanh nghiệp Mục tiêu chính là giúp doanh nghiệp nhận thức rõ hơn về mối quan hệ giữa kế toán và thuế, từ đó thay đổi cách nhìn về ảnh hưởng của thuế đối với công tác kế toán Tác giả đã khảo sát 190 doanh nghiệp, bao gồm 15 doanh nghiệp nhà nước, 39 công ty cổ phần, 114 công ty trách nhiệm hữu hạn và 22 doanh nghiệp tư nhân Kết quả cho thấy rằng ưu tiên trong việc lập báo cáo tài chính để cung cấp thông tin kế toán cho các bên liên quan khác nhau giữa các loại hình doanh nghiệp có sự khác biệt, nhưng nhìn chung, doanh nghiệp có xu hướng ưu tiên cung cấp báo cáo cho cơ quan thuế và chính doanh nghiệp Những yếu tố như quy mô doanh nghiệp, trình độ nhân viên kế toán, sự tồn tại của hai hệ thống sổ sách và sự thờ ơ với các quy định pháp luật đã ảnh hưởng đến quyết định này.

Nghiên cứu cho thấy thuế có ảnh hưởng đến sự lựa chọn cơ sở kinh doanh của doanh nghiệp, nhưng cần lưu ý rằng thuế không phải là yếu tố duy nhất quyết định Đây là một trong những hạn chế lớn nhất của nghiên cứu.

Nghiên cứu của Huỳnh Thị Cẩm Nhung (2015) về các nhân tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn chính sách kế toán của các doanh nghiệp xây lắp tại Đà Nẵng đã chỉ ra rằng có 8 yếu tố chính, bao gồm thuế, mức vay nợ, khả năng vi phạm hợp đồng, chính sách thưởng cho nhà quản trị, tình trạng niêm yết, mức độ sử dụng hợp đồng liên quan, các chỉ tiêu kế toán, quy mô doanh nghiệp và trình độ kế toán viên Tuy nhiên, nghiên cứu xác định 4 yếu tố quan trọng nhất là chi phí thuế, mức vay nợ, tình trạng niêm yết và trình độ kế toán viên có ảnh hưởng lớn đến quyết định lựa chọn chính sách kế toán Bên cạnh đó, tác giả cũng đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong việc lựa chọn chính sách kế toán cho các doanh nghiệp xây lắp tại Đà Nẵng.

Hoàng Tâm Vân Anh (2016) trong luận văn Thạc sĩ “Các nhân tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn chính sách kế toán của các doanh nghiệp sản xuất phần mềm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh” đã áp dụng phương pháp nghiên cứu hỗn hợp, khảo sát 100 kế toán viên và kiểm toán viên để thu thập thông tin khách quan Nghiên cứu xây dựng mô hình với một biến phụ thuộc là sự lựa chọn chính sách kế toán và bốn biến độc lập: nhu cầu thông tin, hình ảnh doanh nghiệp, sự ghi nhận kế toán và đặc điểm doanh nghiệp phần mềm Kết quả cho thấy, sự ghi nhận kế toán có tác động lớn nhất đến sự lựa chọn chính sách kế toán, tiếp theo là nhu cầu thông tin, hình ảnh doanh nghiệp và đặc điểm doanh nghiệp phần mềm Tác giả cũng đưa ra các kiến nghị cho doanh nghiệp khi lựa chọn chính sách kế toán và đề xuất giải pháp cho cơ quan Nhà nước, đặc biệt là cơ quan thuế, nhằm nâng cao chất lượng thông tin trên báo cáo tài chính cho ngành phần mềm.

Bùi Thị Thu Lan (2016) trong luận văn Thạc sĩ của mình đã nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn cơ sở kinh tế (CSKT) của các doanh nghiệp thủy sản tại tỉnh Bạc Liêu Nghiên cứu sử dụng phương pháp định tính để khám phá và điều chỉnh thang đo lựa chọn CSKT, kết hợp với phương pháp định lượng qua mô hình hồi quy bội nhằm phân tích mức độ ảnh hưởng của các yếu tố Kết quả cho thấy có 6 nhân tố chính ảnh hưởng đến lựa chọn CSKT, bao gồm kế hoạch tiền thưởng cho nhà quản lý, thuế, mức vay nợ, trình độ kế toán viên, khả năng vi phạm hợp đồng vay nợ, và nhu cầu thông tin của người sử dụng Nghiên cứu cũng đề xuất một số kiến nghị nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực từ việc điều chỉnh thông tin trên báo cáo tài chính, qua đó nâng cao hiệu quả lựa chọn CSKT cho các doanh nghiệp thủy sản tại Bạc Liêu.

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

Mục tiêu của nghiên cứu này là phân tích các yếu tố tác động đến việc lựa chọn chính sách kế toán tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở tỉnh Bình Định Từ đó, nghiên cứu sẽ đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả trong việc áp dụng chính sách kế toán cho các doanh nghiệp này.

- Mục tiêu cụ thể: Để giải quyết mục tiêu chung vừa nêu, nghiên cứu đặt ra các mục tiêu cụ thể như:

+ Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn chính sách kế toán tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Bình Định

Đo lường mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến việc lựa chọn chính sách kế toán tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở tỉnh Bình Định là một nhiệm vụ quan trọng Việc nghiên cứu này giúp xác định các yếu tố quyết định trong việc áp dụng các chính sách kế toán, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Các doanh nghiệp nhỏ và vừa cần hiểu rõ các yếu tố này để đưa ra quyết định phù hợp, đảm bảo sự phát triển bền vững trong môi trường kinh doanh cạnh tranh hiện nay.

Để nâng cao hiệu quả trong việc lựa chọn chính sách kế toán tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở tỉnh Bình Định, cần đưa ra các kiến nghị thiết thực cho cả doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước Các doanh nghiệp nên chủ động tìm hiểu và áp dụng các chính sách kế toán phù hợp với quy mô và lĩnh vực hoạt động của mình, trong khi cơ quan quản lý nhà nước cần cung cấp hướng dẫn rõ ràng và hỗ trợ đào tạo để doanh nghiệp có thể thực hiện tốt các quy định kế toán Sự hợp tác chặt chẽ giữa hai bên sẽ góp phần nâng cao tính minh bạch và hiệu quả trong quản lý tài chính của các doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Các câu hỏi nghiên cứu của đề tài gồm:

+ Nhân tố nào ảnh hưởng đến việc lựa chọn chính sách kế toán tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Bình Định?

Mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến việc lựa chọn chính sách kế toán tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở tỉnh Bình Định là rất quan trọng Các yếu tố như quy mô doanh nghiệp, ngành nghề hoạt động, và yêu cầu của các cơ quan chức năng tác động trực tiếp đến quyết định này Doanh nghiệp cần cân nhắc kỹ lưỡng các chính sách kế toán phù hợp để đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả trong quản lý tài chính Sự phù hợp của các chính sách kế toán không chỉ giúp doanh nghiệp tuân thủ quy định pháp luật mà còn nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường.

Để nâng cao hiệu quả trong việc lựa chọn chính sách kế toán cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại tỉnh Bình Định, cần đề xuất một số kiến nghị quan trọng Trước hết, cần tăng cường đào tạo và nâng cao nhận thức về chính sách kế toán cho chủ doanh nghiệp Thứ hai, chính quyền địa phương nên hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tiếp cận thông tin và tư vấn về chính sách kế toán phù hợp Cuối cùng, cần xây dựng một hệ thống giám sát và đánh giá hiệu quả thực thi chính sách kế toán nhằm đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả trong hoạt động của các doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu hỗn hợp, trong đó kết hợp 2 phương pháp nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng

Phương pháp định tính được sử dụng để tổng hợp lý thuyết về chính sách kế toán và lựa chọn chính sách kế toán, đồng thời xem xét các lý thuyết nền liên quan đến việc lựa chọn này Nghiên cứu cũng sẽ phân tích các nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan, đồng thời tìm hiểu đặc điểm của các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại tỉnh Bình Định, ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn chính sách kế toán Kết hợp với ý kiến chuyên gia, nghiên cứu sẽ xây dựng mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến lựa chọn chính sách kế toán tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Bình Định và phát triển thang đo cho các nhân tố này.

Phương pháp nghiên cứu định lượng được thực hiện với sự hỗ trợ của phần mềm SPSS 20.0 để xử lý dữ liệu Độ tin cậy của thang đo được kiểm định thông qua hệ số Cronbach’s Alpha Ngoài ra, nghiên cứu cũng áp dụng kỹ thuật phân tích nhân tố khám phá (EFA) và phân tích mô hình hồi quy nhằm đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến lựa chọn cơ sở kinh tế của các doanh nghiệp.

Ý nghĩa khoa học của đề tài

Luận văn tổng hợp các lý thuyết liên quan đến các yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn cơ sở kinh doanh (CSKT) của doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhằm cung cấp cho người đọc cái nhìn khách quan và rõ ràng hơn về mối quan hệ giữa CSKT và doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Nghiên cứu này xác định các nhân tố ảnh hưởng và đo lường mức độ tác động của chúng đến lựa chọn chính sách kế toán của doanh nghiệp nhỏ và vừa tại tỉnh Bình Định Đồng thời, nghiên cứu cũng đưa ra các kiến nghị cụ thể liên quan đến từng nhân tố, nhằm gợi ý cho các nhà quản lý doanh nghiệp cải thiện hiệu quả lựa chọn chính sách kế toán, góp phần phát triển bền vững cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Bình Định.

Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận chung, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu bao gồm 4 chương như sau:

Chương 1: Cơ sở lý luận về đề tài nghiên cứu

Chương 2: Phương pháp nghiên cứu

Chương 3: Kết quả nghiên cứu

Chương 4: Kết luận và kiến nghị

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

Cơ sở lý thuyết về lựa chọn chính sách kế toán

1.1.1 Khái niệm chính sách kế toán Để hiểu về chính sách kế toán, trước hết tác giả trình bày khái niệm về chính sách:

Chính sách được định nghĩa là những chuẩn tắc cụ thể nhằm thực hiện đường lối và nhiệm vụ trong một khoảng thời gian nhất định và trên những lĩnh vực cụ thể Bản chất của chính sách phụ thuộc vào tính chất của các đường lối chính trị, kinh tế, văn hóa Các chính sách có thể được thiết lập và thực hiện ở nhiều cấp độ khác nhau, từ tổ chức quốc tế đến từng quốc gia, bao gồm cả nhà nước, các đơn vị chính trị xã hội và doanh nghiệp, nhằm giải quyết các vấn đề cụ thể của từng tổ chức và chỉ có hiệu lực trong phạm vi tổ chức đó.

Theo chuẩn mực kế toán quốc tế (IFRS), các chính sách kế toán quy định nguyên tắc lựa chọn và nội dung chi tiết cần thiết để người sử dụng hiểu rõ về các chính sách kế toán áp dụng, cũng như cách thức mà các công ty thực hiện những chính sách này.

Chuẩn mực kế toán quốc tế định nghĩa chính sách kế toán là các nguyên tắc, quy tắc và thực tiễn mà doanh nghiệp áp dụng để xác định ảnh hưởng của giao dịch và sự kiện đến báo cáo tài chính.

Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số 29 (2005), chính sách kế toán được định nghĩa là các nguyên tắc, cơ sở và phương pháp cụ thể mà doanh nghiệp sử dụng trong việc lập và trình bày báo cáo tài chính (BCTC).

1.1.2 Vai trò của chính sách kế toán

Kế toán là công cụ quan trọng giúp cung cấp thông tin về tình hình kinh tế - tài chính và quản lý các hoạt động kinh tế của tổ chức Thông tin từ kế toán trở nên hữu ích khi đáp ứng đầy đủ yêu cầu quản lý.

Chính sách kế toán (CSKT) đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, được lựa chọn dựa trên chuẩn mực kế toán phù hợp với loại hình kinh doanh Việc áp dụng CSKT khác nhau sẽ dẫn đến thông tin báo cáo tài chính khác nhau, do đó doanh nghiệp cần chọn chính sách phù hợp để quản trị lợi nhuận hiệu quả Đối với kế toán viên và kiểm toán viên, CSKT là cơ sở để đo lường và công bố thông tin kế toán, đảm bảo tuân thủ quy định pháp luật Kiểm toán viên sử dụng CSKT để phân tích và đánh giá tính hợp lệ của thông tin trên báo cáo tài chính Đối với nhà quản lý, CSKT là công cụ quan trọng trong việc kiểm soát hoạt động sản xuất kinh doanh và điều chỉnh lợi nhuận Chủ sở hữu và cổ đông sử dụng CSKT để so sánh kết quả hoạt động kinh doanh, trong khi cơ quan thuế dựa vào CSKT để kiểm tra tính hợp pháp của thông tin tài chính Đối với nhà đầu tư và các tổ chức tín dụng, CSKT là cơ sở để đánh giá khả năng và tình hình hoạt động của doanh nghiệp, từ đó đưa ra quyết định đầu tư và cho vay.

1.1.3 Lựa chọn chính sách kế toán

Theo Szilveszter Fekete (2010), sự lựa chọn chính sách kế toán là quá trình lựa chọn có cân nhắc trong khuôn khổ chuẩn mực kế toán, liên quan đến các nguyên tắc, cơ sở và phương pháp kế toán mà doanh nghiệp có thể áp dụng để lập và trình bày báo cáo tài chính (BCTC) nhằm đạt được những mục tiêu cụ thể.

Lựa chọn chính sách kế toán là quá trình mà doanh nghiệp xác định và áp dụng các chính sách phù hợp để lập và trình bày báo cáo tài chính, tuân thủ quy định của các chuẩn mực kế toán Trong trường hợp chưa có quy định cụ thể, doanh nghiệp cần dựa vào chuẩn mực chung để phát triển các phương pháp kế toán hợp lý, đảm bảo rằng báo cáo tài chính cung cấp thông tin đáp ứng nhu cầu quyết định kinh tế của người sử dụng (VAS 21, 2003).

1.1.4 Mục tiêu của việc lựa chọn chính sách kế toán

Theo nghiên cứu của Mariana Gurau (2014), mỗi cá nhân có những quan điểm khác nhau về tình hình tài chính của doanh nghiệp, do đó, việc lựa chọn chính sách kế toán (CSKT) cần dựa trên từng trường hợp cụ thể Có ba mục đích chính trong việc lựa chọn CSKT phù hợp với nhu cầu và đặc thù của từng doanh nghiệp.

Mục tiêu chính của chính sách kế toán là tối đa hóa lợi nhuận, khiến các doanh nghiệp có động lực mạnh mẽ trong việc lựa chọn chính sách kế toán nhằm giảm chi phí trong báo cáo thu nhập Điều này xuất phát từ các quy định nghiêm ngặt liên quan đến việc ghi nhận doanh thu trong báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.

Mục tiêu chính của chính sách tài chính (CSKT) là bảo toàn vốn và giảm thiểu chi phí, giúp doanh nghiệp ổn định trong hoạt động liên tục và phát triển bền vững Các doanh nghiệp sẽ áp dụng CSKT để cân bằng lợi nhuận giữa các kỳ kế toán, từ đó đảm bảo xu hướng lợi nhuận ổn định và bền vững trong dài hạn, phục vụ cho việc hoạch định tài chính hiệu quả.

Mục đích chính của CSKT là đảm bảo tuân thủ các quy định về thuế, giúp doanh nghiệp lựa chọn chiến lược tối ưu để giảm thiểu số thuế thu nhập phải nộp trong suốt chu kỳ hoạt động Điều này bao gồm việc giảm thiểu thuế thu nhập doanh nghiệp cũng như thuế thu nhập cá nhân của chủ doanh nghiệp và cổ đông.

Mục tiêu chính của doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận, và kế toán đóng vai trò quan trọng trong việc giúp nhà quản lý kiểm tra và giám sát hoạt động hiệu quả Kế toán sẽ lựa chọn chính sách phù hợp để điều chỉnh lợi nhuận theo yêu cầu của nhà quản lý Khi cần cung cấp thông tin ra bên ngoài, kế toán cũng phải đảm bảo lựa chọn hợp lý để mang lại lợi ích tối đa cho doanh nghiệp.

Các văn bản liên quan quy định đến chính sách kế toán hiện hành Việt Nam hiện nay

Hiện nay, Bộ Tài Chính là cơ quan quản lý nhà nước tại Việt Nam, có trách nhiệm lập quy và ban hành các văn bản pháp lý liên quan đến chính sách kế toán Hoạt động kế toán doanh nghiệp được điều chỉnh theo khung pháp lý bao gồm Luật kế toán, Nghị định hướng dẫn thi hành luật, Hệ thống chuẩn mực kế toán, cùng với các thông tư hướng dẫn chuẩn mực và chế độ kế toán để thực hành công tác kế toán.

Luật kế toán hiện hành là Luật số 88/2015/QH13, có hiệu lực từ ngày 01/01/2017, quy định các vấn đề chung để xây dựng chuẩn mực và chế độ kế toán Chuẩn mực kế toán bao gồm các quy định và hướng dẫn cần tuân thủ trong công tác kế toán, nhằm đảm bảo tính minh bạch trong báo cáo tài chính.

Bộ Tài chính đã ban hành 26 chuẩn mực kế toán cho doanh nghiệp cùng các thông tư hướng dẫn chi tiết về chính sách kế toán, giúp doanh nghiệp áp dụng hiệu quả vào thực tiễn Chế độ kế toán là văn bản pháp lý hướng dẫn cụ thể về kế toán, quy định về tài khoản, chứng từ, sổ sách và báo cáo Các doanh nghiệp lớn, hoạt động đa ngành, tuân thủ Thông tư 200/2014/TT-BTC, thay thế Quyết định 15/2006/QĐ-BTC, trong khi doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động theo Thông tư 133/2016/TT-BTC, thay thế Quyết định 48/2006/QĐ-BTC.

Hiện nay, tại Việt Nam, việc áp dụng chính sách kế toán phải tuân theo nhiều văn bản pháp lý khác nhau do cơ quan quản lý nhà nước ban hành Do đó, các doanh nghiệp cần căn cứ vào các quy định pháp lý hiện hành để lựa chọn chính sách kế toán phù hợp cho hoạt động của mình.

Khái quát về doanh nghiệp nhỏ và vừa và đặc điểm doanh nghiệp nhỏ và vừa ảnh hưởng đến lựa chọn chính sách kế toán

và vừa ảnh hưởng đến lựa chọn chính sách kế toán

1.3.1 Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa

Doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa, thường được gọi là doanh nghiệp vừa và nhỏ, là những doanh nghiệp có quy mô hạn chế về vốn, lao động và doanh thu Chúng được phân loại thành ba nhóm: doanh nghiệp siêu nhỏ (dưới 10 lao động), doanh nghiệp nhỏ (từ 10 đến dưới 200 lao động, vốn dưới 20 tỷ đồng) và doanh nghiệp vừa (từ 200 đến 300 lao động, vốn từ 20 đến 100 tỷ đồng) Tiêu chí phân loại này có thể khác nhau ở từng quốc gia, và tại Việt Nam, theo Nghị định số 39/2018/NĐ-CP, có quy định cụ thể về doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Doanh nghiệp siêu nhỏ trong nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, công nghiệp và xây dựng có dưới 10 lao động tham gia bảo hiểm xã hội và doanh thu hoặc tổng nguồn vốn không vượt quá 3 tỷ đồng mỗi năm.

Doanh nghiệp siêu nhỏ trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ được xác định có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội trung bình không vượt quá 10 người, với tổng doanh thu hàng năm không quá 10 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 3 tỷ đồng.

Doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, công nghiệp và xây dựng có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội trung bình không vượt quá 100 người, tổng doanh thu hàng năm không quá 50 tỷ đồng, hoặc tổng nguồn vốn không quá 20 tỷ đồng, nhưng không được coi là doanh nghiệp siêu nhỏ theo quy định hiện hành.

Doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân hàng năm không vượt quá 50 người, tổng doanh thu không quá 100 tỷ đồng, hoặc tổng nguồn vốn không quá 50 tỷ đồng, nhưng không được xếp vào loại doanh nghiệp siêu nhỏ theo quy định hiện hành.

Doanh nghiệp vừa trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, công nghiệp và xây dựng có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội trung bình không quá 200 người, tổng doanh thu hàng năm không vượt quá 200 tỷ đồng, hoặc tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng, nhưng không được xếp vào loại doanh nghiệp nhỏ hay siêu nhỏ theo quy định hiện hành.

Doanh nghiệp vừa trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ có quy mô lao động bình quân hàng năm không vượt quá 100 người, với tổng doanh thu hàng năm không quá 300 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng Tuy nhiên, doanh nghiệp này không được xếp vào loại doanh nghiệp siêu nhỏ hay doanh nghiệp nhỏ theo các quy định hiện hành.

1.3.2 Đặc điểm doanh nghiệp nhỏ và vừa ảnh hưởng đến lựa chọn chính sách kế toán

Những đặc điểm doanh nghiệp nhỏ và vừa ảnh hưởng đến lựa chọn chính sách kế toán có thể kể đến như:

- Về đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừa :

Doanh nghiệp vừa và nhỏ thường tập trung ở các khu vực chế biến và dịch vụ, gần gũi với người tiêu dùng Chúng đóng vai trò là vệ tinh, cung cấp các bộ phận chi tiết cho các doanh nghiệp lớn, tham gia vào chuỗi sản xuất sản phẩm đầu tư.

Doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, cung cấp nhiều dịch vụ đa dạng như phân phối và thương mại hóa, dịch vụ sinh hoạt và giải trí, cùng với các dịch vụ tư vấn và hỗ trợ.

+ Trực tiếp tham gia chế biến các sản phẩm cho người tiêu dùng cuối cùng với tư cách là nhà sản xuất toàn bộ

Tính linh hoạt là đặc điểm nổi bật của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, giúp họ dễ dàng thay đổi mặt hàng, điều chỉnh chiến lược kinh doanh và thậm chí là chuyển địa điểm hoạt động Nhờ vào cấu trúc và quy mô nhỏ, những doanh nghiệp này có lợi thế lớn trong việc thích ứng với thị trường, từ đó gia tăng khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững.

- Về nguồn lực vật chất :

Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường gặp khó khăn do hạn chế về nguồn vốn, tài nguyên, đất đai và công nghệ, dẫn đến năng lực cạnh tranh yếu Những hạn chế này xuất phát từ tôn chỉ và nguồn gốc hình thành doanh nghiệp, cùng với sự hạn hẹp trong quan hệ với thị trường tài chính – tiền tệ Quá trình tự tích lũy cũng đóng vai trò quyết định trong sự phát triển của từng doanh nghiệp.

Do hạn chế về nguồn lực vật chất, nhiều doanh nghiệp thường chỉ sử dụng nhân viên kế toán có trình độ trung bình hoặc thấp, thậm chí chỉ có một nhân viên kiêm nhiều chức vụ khác Họ cũng có thể chọn dịch vụ kế toán thuê ngoài, dẫn đến việc áp dụng phương thức kế toán đơn giản, quen thuộc và dễ thực hiện Điều này làm cho báo cáo tài chính không phản ánh được tính đa dạng của các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, ảnh hưởng đến độ chính xác của số liệu kế toán và quyết định của người sử dụng báo cáo tài chính.

- Về năng lực quản lý điều hành :

Các nhà quản trị doanh nghiệp vừa và nhỏ thường có kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm trong ngành, nhưng kỹ năng quản lý, đặc biệt là trong kế toán và quản lý tài chính, còn hạn chế Điều này dẫn đến việc lựa chọn chính sách kế toán không đáp ứng được yêu cầu thông tin của người sử dụng, ảnh hưởng đến khả năng ra quyết định và đạt được các mục tiêu của doanh nghiệp, cũng như thể hiện hình ảnh doanh nghiệp một cách hiệu quả.

- Đặc điểm chính sách kế toán của doanh nghiệp nhỏ và vừa :

Doanh nghiệp nhỏ và vừa phải thực hiện chế độ kế toán theo Thông tư 133/2016/TT-BTC cùng với các chuẩn mực kế toán Việt Nam liên quan Với quy mô đặc thù, các doanh nghiệp này cần chú trọng đến việc tổ chức và thực hiện công tác kế toán, đồng thời lựa chọn chính sách kế toán phù hợp Họ cũng phải tuân thủ các quy định pháp lý và đáp ứng yêu cầu từ các cơ quan quản lý nhà nước.

Các nhân tố ảnh hưởng đến lựa chọn chính sách kế toán

1.4.1 Sự tin cậy của các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp

Các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp sử dụng thông tin từ sổ sách và báo cáo tài chính (BCTC) để hỗ trợ quyết định của họ Nhà đầu tư phân tích số liệu để đánh giá khả năng sinh lời và đưa ra quyết định đầu tư Ngân hàng và chủ nợ dựa vào báo cáo tài chính để đánh giá tình hình tài chính, nhu cầu vốn và khả năng trả nợ của doanh nghiệp trước khi quyết định cho vay Ngoài ra, nhà nước và cơ quan thuế cũng sử dụng các số liệu kế toán để đánh giá hoạt động và mức độ tuân thủ nghĩa vụ nộp thuế của doanh nghiệp.

Theo nghiên cứu của Szilveszter Fekete và các cộng sự (2010) cùng với Nguyễn Hồng Hà (2015), các bên ngoài doanh nghiệp như chủ nợ, nhà đầu tư và ngân hàng (trừ cơ quan thuế) sử dụng thông tin từ báo cáo tài chính (BCTC) để đưa ra quyết định kinh tế Do đó, doanh nghiệp thường áp dụng chính sách kế toán nhằm cung cấp thông tin đáng tin cậy và đáp ứng nhu cầu của các bên sử dụng, như việc gia tăng lợi nhuận.

Theo nghiên cứu của Watts và Zimmerman (1990), mức vay nợ có mối liên hệ chặt chẽ với việc các nhà quản trị lựa chọn chính sách kế toán nhằm tăng lợi nhuận; cụ thể, khi mức vay nợ cao, doanh nghiệp có xu hướng áp dụng các chính sách này, tùy thuộc vào mức độ giám sát của chủ nợ Bên cạnh đó, Holthausen và Leftwich (1983) chỉ ra rằng động cơ thúc đẩy việc áp dụng chính sách kế toán tăng lợi nhuận phụ thuộc vào chi phí vi phạm hợp đồng vay nợ và tác động tiêu cực của mức vay nợ đến nguồn tài chính trong tương lai của doanh nghiệp.

Nghiên cứu của Colin R Dey và cộng sự (2007) cho thấy rằng doanh nghiệp ở Ai Cập có xu hướng chọn các chính sách kế toán, đặc biệt là phương pháp khấu hao, để tăng lợi nhuận khi mức sử dụng nợ cao Tương tự, Godfrey (1994) cũng xác nhận mối liên hệ giữa quyết định chính sách kế toán và tỷ lệ nợ của doanh nghiệp, cho thấy rằng nợ ảnh hưởng đáng kể đến các lựa chọn kế toán.

1.4.3 Khả năng vi phạm hợp đồng vay nợ

Các đối tượng sử dụng thông tin bên ngoài doanh nghiệp như nhà đầu tư, ngân hàng, chủ nợ và cơ quan nhà nước đều dựa vào số liệu và báo cáo tài chính để ra quyết định Nhà đầu tư phân tích thông tin để đánh giá khả năng sinh lời và quyết định đầu tư Ngân hàng và chủ nợ xem xét tình hình tài chính, nhu cầu vốn và khả năng trả nợ để quyết định cho vay Cơ quan thuế và nhà nước sử dụng báo cáo kế toán để đánh giá hoạt động và mức độ chấp hành nghĩa vụ nộp thuế của doanh nghiệp.

Theo nghiên cứu của Szilveszter Fekete và các cộng sự (2010) cùng Nguyễn Hồng Hà (2015), các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp như chủ nợ, nhà đầu tư và ngân hàng (trừ cơ quan thuế) sử dụng thông tin từ báo cáo tài chính (BCTC) để đưa ra quyết định kinh tế Do đó, doanh nghiệp thường áp dụng chính sách kế toán nhằm cung cấp thông tin đáng tin cậy và thỏa mãn nhu cầu của các bên liên quan, như việc tăng lợi nhuận.

Lợi nhuận kế toán và thu nhập chịu thuế có sự khác biệt do quy định về đo lường, ghi nhận doanh thu, thu nhập và chi phí khác nhau Ở Việt Nam, luật thuế ảnh hưởng mạnh mẽ đến kế toán, quy định cách đánh giá và nguyên tắc lập báo cáo tài chính Các nguyên tắc kế toán được áp dụng để xác định lợi nhuận chịu thuế, trong đó lợi nhuận chịu thuế là lợi nhuận kế toán đã điều chỉnh một số chi phí không hợp lý Mối quan hệ này cho thấy hành động quản trị lợi nhuận kế toán của nhà quản trị cũng ảnh hưởng đến lợi nhuận chịu thuế, cho phép họ tiết kiệm thuế thu nhập khi có cơ hội.

Christos Tzovas (2006) cho rằng chính sách kế toán tiết kiệm thuế có thể cải thiện dòng tiền của doanh nghiệp, nhưng việc này thường dẫn đến việc công bố thu nhập chịu thuế thấp hơn, gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng Điều này ảnh hưởng đến khả năng tuân thủ hợp đồng và quyền lợi của nhà quản trị cũng như các bên liên quan, tạo ra chi phí phi thuế Doanh nghiệp phải lựa chọn giữa chi phí thuế và chi phí phi thuế, và quyết định này sẽ tác động đến chính sách kế toán Tzovas cũng chứng minh rằng áp lực vay nợ ảnh hưởng đến tầm quan trọng của chi phí thuế, khiến các doanh nghiệp có độ bẩy tài chính cao có xu hướng thực hiện chính sách kế toán nhằm tăng lợi nhuận Cloyd và cộng sự (1996), cùng với Szilveszter Fekete và các cộng sự (2010), cũng chỉ ra rằng yếu tố thuế có ảnh hưởng lớn đến lựa chọn chính sách kế toán của doanh nghiệp.

1.4.5 Mục tiêu của doanh nghiệp

Trong sản xuất kinh doanh, hiệu quả là yếu tố không thể thiếu, với năng suất, chất lượng và hiệu quả là mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp Doanh nghiệp, như những tế bào của nền kinh tế, không chỉ tạo ra của cải vật chất phục vụ nhu cầu tiêu dùng mà còn góp phần vào việc đạt được lợi nhuận và tích lũy cho xã hội Lợi nhuận được xem là đòn bẩy kinh tế quan trọng nhất, phản ánh trình độ quản lý trong việc sử dụng vật tư, lao động và vốn, cũng như khả năng sản xuất sản phẩm.

Kế toán đóng vai trò quan trọng như một công cụ giúp người quản lý kiểm tra và giám sát hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Dựa vào mục tiêu điều chỉnh lợi nhuận, kế toán áp dụng các chính sách phù hợp để điều chỉnh lợi nhuận theo yêu cầu của nhà quản trị.

1.4.6 Trình độ người làm kế toán

Trình độ của kế toán viên đóng vai trò quan trọng trong việc lựa chọn các kỹ thuật và chính sách kế toán phù hợp nhằm tối đa hóa lợi ích cho doanh nghiệp Kế toán viên có khả năng vận dụng linh hoạt các chính sách kế toán sẽ hỗ trợ nhà quản trị đạt được các mục tiêu cần thiết Tuy nhiên, do quy mô doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhiều chủ doanh nghiệp thường chọn nhân viên kế toán có trình độ trung bình hoặc thấp để tiết kiệm chi phí Hệ quả là nhiều kế toán chỉ áp dụng các chính sách kế toán theo thói quen, thiếu đổi mới trong phương thức làm việc, dẫn đến việc không đáp ứng đầy đủ nhu cầu của nhà quản trị trong quản lý lợi nhuận và điều chỉnh thông tin trên báo cáo tài chính.

Năng lực chuyên môn của người làm kế toán là yếu tố quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng thông tin kế toán Sự đánh giá và xét đoán nghề nghiệp là then chốt trong việc đảm bảo tính chính xác của thông tin Nếu người làm kế toán có hạn chế về chuyên môn và nhận thức kém, họ có thể hiểu sai và áp dụng không đầy đủ các quy định pháp lý, dẫn đến việc triển khai và thực hiện chính sách kế toán không hiệu quả Điều này gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc lựa chọn chính sách kế toán phù hợp.

Lý thuyết nền

1.5.1 Lý thuyết bất cân xứng thông tin

Lý thuyết bất cân xứng thông tin lần đầu tiên xuất hiện vào những năm

Năm 1970, George Akerlof đã chỉ ra rằng thông tin bất cân xứng xảy ra khi một bên trong giao dịch sở hữu ít thông tin hơn bên còn lại hoặc có thông tin không chính xác Tình trạng này dẫn đến việc bên có ít thông tin đưa ra quyết định sai lầm trong giao dịch, trong khi bên nắm giữ nhiều thông tin có thể thực hiện những hành vi gây bất lợi cho bên kia.

Nghiên cứu của Myers và Majluf (1984) chỉ ra rằng bất cân xứng thông tin ảnh hưởng đến quyết định đầu tư và tài trợ của doanh nghiệp Các nhà quản lý thường nắm giữ thông tin chi tiết hơn về tình hình hoạt động và triển vọng tương lai so với các nhà đầu tư bên ngoài.

Mối quan hệ giữa tình trạng thông tin bất cân xứng và hành vi quản trị lợi nhuận đã được nghiên cứu bởi Richardson (1998), cho thấy sự thiếu thông tin giữa nhà quản lý và cổ đông tạo điều kiện cho việc bóp méo thông tin trên báo cáo tài chính (BCTC) Trong bối cảnh này, cổ đông và người sử dụng thông tin bên ngoài thường rơi vào trạng thái thiếu thông tin, giúp nhà quản lý thực hiện hành vi điều chỉnh lợi nhuận Do đó, nhà quản lý có thể xây dựng các chính sách kế toán nhằm tăng lợi nhuận và giá trị cổ phiếu, mặc dù kết quả kinh doanh thực tế không phản ánh điều đó, với mục tiêu gia tăng tiền thưởng, vay nợ dễ dàng hơn và tạo lòng tin với các bên thứ ba.

Nghiên cứu này chỉ ra rằng sự tin cậy của các bên bên ngoài doanh nghiệp, mức vay nợ, khả năng vi phạm hợp đồng vay nợ, thuế và mục tiêu của doanh nghiệp đều là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến lựa chọn cấu trúc vốn của doanh nghiệp.

1.5.2 Lý thuyết ủy nhiệm (Agency theory)

Lý thuyết ủy nhiệm, được phát triển bởi Jensen và Meckling vào năm 1976, nghiên cứu mối quan hệ giữa bên ủy nhiệm và bên được ủy nhiệm thông qua hợp đồng, trong đó bên được ủy nhiệm thực hiện công việc đại diện cho bên ủy nhiệm Lý thuyết này cho rằng cả hai bên đều cố gắng tối đa hóa lợi ích của mình, nhưng vấn đề nảy sinh là làm sao để bên được ủy nhiệm hành xử theo hướng tối đa hóa lợi ích cho bên ủy nhiệm Điều này dẫn đến chi phí ủy nhiệm, tức là số tiền mà bên ủy nhiệm mất do sự tách rời giữa lợi ích của họ và lợi ích của bên được ủy nhiệm Jensen và Meckling phân loại chi phí ủy nhiệm thành ba loại: chi phí giám sát, chi phí liên kết và chi phí khác.

Quan hệ giữa nhà quản lý và cổ đông phát sinh khi quyền sở hữu tách rời khỏi chức năng quản lý Theo lý thuyết ủy nhiệm, cả cổ đông (bên ủy nhiệm) và nhà quản lý (bên được ủy nhiệm) đều có xu hướng tối đa hóa lợi ích cá nhân, dẫn đến khả năng nhà quản lý không hành xử hoàn toàn vì lợi ích của cổ đông Sự khác biệt trong lợi ích giữa hai bên tạo ra nhiều vấn đề cần được xem xét.

Nhà quản lý thường có xu hướng né tránh rủi ro, dẫn đến việc họ ưu tiên các phương án kinh doanh ít rủi ro hơn, điều này có thể làm giảm lợi ích của cổ đông Hơn nữa, nhà quản lý có thể quyết định chia cổ tức thấp hơn mong muốn của cổ đông, vì họ muốn giữ lại nguồn vốn để chi trả lương thưởng cho bản thân và mở rộng quy mô công ty nhằm nâng cao giá trị cá nhân.

Cổ đông thường kỳ vọng vào sự phát triển bền vững và kết quả hoạt động lâu dài, trong khi nhà quản lý lại có xu hướng tập trung vào việc gia tăng lợi nhuận ngắn hạn trong thời gian họ còn làm việc tại công ty Quan điểm ngắn hạn này có thể dẫn đến việc giảm thiểu lợi ích của cổ đông.

Để giảm chi phí ủy nhiệm, cần thiết lập hợp đồng giữa cổ đông và nhà quản lý nhằm khuyến khích nhà quản lý tối đa hóa giá trị thị trường và lợi nhuận công ty Tuy nhiên, nhiều kế hoạch khen thưởng dựa vào số liệu kế toán, dẫn đến việc nhà quản lý có thể điều chỉnh báo cáo tài chính thông qua chính sách kế toán để phục vụ lợi ích cá nhân.

Quan hệ giữa cổ đông và chủ nợ trong hợp đồng vay được lý thuyết ủy nhiệm mô tả như một mối quan hệ ủy nhiệm giữa doanh nghiệp (DN) và chủ nợ, trong đó chủ nợ là bên ủy nhiệm và DN là bên được ủy nhiệm Người quản lý của DN, đại diện cho cổ đông, có trách nhiệm hành xử vì lợi ích của các cổ đông Do đó, mối quan hệ này thúc đẩy cả hai bên tìm cách tối đa hóa lợi ích của mình Smith và các cộng sự (1979) đã chỉ ra các phương pháp chuyển lợi ích từ chủ nợ sang cổ đông.

Khi chia cổ tức nhiều hơn, lợi ích của chủ nợ trong công ty giảm do tài sản bảo đảm cho nợ giảm và rủi ro tăng lên Điều này khiến chủ nợ phải đối mặt với rủi ro khi công ty gặp khó khăn tài chính, trong khi các cổ đông đã thu hồi vốn qua cổ tức và chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi vốn đầu tư của họ.

Đầu tư vào các dự án có rủi ro cao thường mang lại mức sinh lợi lớn hơn Trong trường hợp này, lợi nhuận thuộc về chủ sở hữu, trong khi rủi ro chủ yếu do chủ nợ gánh chịu.

Trong bối cảnh tài chính khó khăn, doanh nghiệp sẽ giảm thiểu đầu tư vào các dự án có lợi nhuận thấp, do dòng tiền lúc này chủ yếu phải được sử dụng để thanh toán cho chủ nợ.

Pha loãng nợ bằng cách sử dụng nợ nhiều hơn có thể làm tăng đòn cân nợ của doanh nghiệp, mang lại lợi ích cho cổ đông nhưng cũng làm gia tăng rủi ro cho chủ nợ Để giảm chi phí ủy nhiệm, chủ nợ thường đưa vào hợp đồng các điều khoản hạn chế, và việc áp dụng các điều khoản này cần dựa trên số liệu kế toán của doanh nghiệp Do đó, các nhà quản lý có xu hướng điều chỉnh chính sách kế toán khi lập báo cáo tài chính nhằm bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp, đặc biệt khi doanh nghiệp đang đối mặt với nguy cơ vi phạm hợp đồng vay.

Lý thuyết này giải thích tác động của các yếu tố như mức vay nợ và khả năng vi phạm hợp đồng vay nợ đến sự lựa chọn cơ cấu vốn tối ưu của doanh nghiệp.

Mô hình nghiên cứu đề xuất

Bài viết hệ thống hóa các nghiên cứu liên quan đến sự lựa chọn CSKT của doanh nghiệp, kết hợp với lý thuyết nền tảng Tác giả tham khảo ý kiến chuyên gia để xây dựng mô hình các yếu tố ảnh hưởng đến lựa chọn CSKT ở doanh nghiệp nhỏ và vừa tại tỉnh Bình Định, bao gồm: sự tin cậy từ bên ngoài, mức vay nợ, khả năng vi phạm hợp đồng vay, thuế, mục tiêu doanh nghiệp và trình độ kế toán Mô hình nghiên cứu được thể hiện qua bảng dưới đây.

Bảng 1.1: Mô hình nghiên cứu đề xuất STT Nhân tố Kế thừa kết quả nghiên cứu của tác giả

1 Sự tin cậy của các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp

2 Mức vay nợ Bùi Thị Thu Lan (2016)

3 Khả năng vi phạm hợp đồng vay nợ

4 Thuế Szilveszter Fekete và các cộng sự (2010)

5 Mục tiêu của doanh nghiệp Chirstos Tzovas (2006)

6 Trình độ người làm kế toán Huỳnh Thị Cẩm Nhung (2015)

(Nguồn: Tác giả tổng hợp)

Mô hình nghiên cứu đề xuất được thể hiện theo hình dưới đây:

Hình 1.1: Mô hình nghiên cứu đề xuất

Sự tin cậy của các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp

Khả năng vi phạm hợp đồng vay nợ

Trình độ người làm kế toán

Mục tiêu của doanh nghiệp

Lựa chọn chính sách kế toán của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Bình Định

Trong chương 1, tác giả đã trình bày lý thuyết về chính sách kế toán, nhấn mạnh mục tiêu và vai trò của nó, cùng với các yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn chính sách kế toán của doanh nghiệp nhỏ và vừa Chương này cung cấp cơ sở quan trọng cho việc xây dựng mô hình nghiên cứu nhằm xác định các yếu tố tác động đến lựa chọn chính sách kế toán của doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Bình Định.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Ngày đăng: 16/08/2021, 15:23

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
[2] Hoàng Tâm Vân Anh (2016): Các nhân tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn chính sách kế toán của các doanh nghiệp sản xuất phầm mềm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn thạc sĩ. Trường Đại học kinh tế TP.HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các nhân tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn chính sách kế toán của các doanh nghiệp sản xuất phầm mềm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả: Hoàng Tâm Vân Anh
Nhà XB: Trường Đại học kinh tế TP.HCM
Năm: 2016
[3] Nguyễn Hồng Hà (2015): Các nhân tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn chính sách kế toán áp dụng tại các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn thạc sĩ. Trường Đại học kinh tế TP.HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các nhân tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn chính sách kế toán áp dụng tại các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả: Nguyễn Hồng Hà
Nhà XB: Trường Đại học kinh tế TP.HCM
Năm: 2015
[4] Huỳnh Thị Cẩm Nhung (2015): Các nhân tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn chính sách kế toán của các doanh nghiệp xây lắp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Luận văn Thạc sĩ. Trường Đại học kinh tế Đà Nẵng Sách, tạp chí
Tiêu đề: ): Các nhân tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn chính sách kế toán của các doanh nghiệp xây lắp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
Tác giả: Huỳnh Thị Cẩm Nhung
Năm: 2015
[5] Trần Đình Khôi Nguyên (2012) Chính sách kế toán trong doanh nghiệp. Tạp chí Phát triển Kinh tế. Số: 260. Trang: 41-46. Năm 2012 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chính sách kế toán trong doanh nghiệp
[6] Phí Văn Trọng (2017): Các nhân tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn chính sách kế toán và ước tính kế toán trong các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Luận án Tiến sĩ, trường Đại học Kinh tế Quốc dân Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các nhân tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn chính sách kế toán và ước tính kế toán trong các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Tác giả: Phí Văn Trọng
Năm: 2017
[7] Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc, (2008), “Phân tích dữ liệu nghiên cứu với spss - Tập 1 và tập 2”. Nhà xuất bản Hồng Đức Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phân tích dữ liệu nghiên cứu với spss - Tập 1 và tập 2
Tác giả: Hoàng Trọng, Chu Nguyễn Mộng Ngọc
Nhà XB: Nhà xuất bản Hồng Đức
Năm: 2008
[8] Phạm Thị Bích Vân (2012): Ảnh hưởng của thuế thu nhập doanh nghiệp đến sự lựa chọn các chính sách kế toán của các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Luận văn Thạc sĩ quản trị kinh doanh.Trường Đại học kinh tế Đà Nẵng Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ảnh hưởng của thuế thu nhập doanh nghiệp đến sự lựa chọn các chính sách kế toán của các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
Tác giả: Phạm Thị Bích Vân
Nhà XB: Trường Đại học kinh tế Đà Nẵng
Năm: 2012
[1] Bosnyák (2003). The effectof evaluation methods on the financial position, performance and cash flows of entites. Doctoral thesis, Bubdapet Corvius University. Hungary Sách, tạp chí
Tiêu đề: The effect of evaluation methods on the financial position, performance and cash flows of entities
Tác giả: Bosnyák
Nhà XB: Bubdapet Corvius University
Năm: 2003
[2] Christos Tzovas, 2006. Factors influencing a firm’s accounting policy decisions when tax accouting and financial accounting coincide.Managerial AuditingJournal, Vol.2.1 No.4, pp. 372-386 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Factors influencing a firm’s accounting policy decisions when tax accounting and financial accounting coincide
Tác giả: Christos Tzovas
Nhà XB: Managerial Auditing Journal
Năm: 2006
[3] Cullinan, Charles P., (1999). “International Trade and Accounting Policy Choice: Theory and Canadian Evidence”. Accounting Journal Articles. Paper 14 Sách, tạp chí
Tiêu đề: International Trade and Accounting Policy Choice: Theory and Canadian Evidence
Tác giả: Charles P. Cullinan
Nhà XB: Accounting Journal Articles
Năm: 1999
[4] Mariana Gurău, 2014. The types of accounting policies reflected in Finacial Statements. Case study for Romania. Global Economic Observer, vol2, issue1,pp.209-221 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Case study for Romania. Global Economic Observer, vol2, issue1
[5] Miachel j.Aitken and Janice a Loftus, 2009. Determinants of accounting policy choice in the autralian property industry. A portfolio approach, Vol.24, Issue 2, pp.1-20 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Determinants of accounting policy choice in the autralian property industry. A portfolio approach
Tác giả: Miachel j.Aitken, Janice a Loftus
Nhà XB: Vol.24, Issue 2
Năm: 2009
[6] Myers S.C and Mailuf. N,1984. Corporate financing and Investment decisions when firms have information that investors do not have.Journal of financial Economic, pp.13 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Corporate financing and Investment decisions when firms have information that investors do not have
Tác giả: Myers S.C, Mailuf. N
Nhà XB: Journal of financial Economic
Năm: 1984
[7] Okpala, Kenneth Enoch, (2016) với nghiên cứu “Factors influencing accounting policy choices under IFRS in Airline-GSA companies”.Ilorin Journal of Accounting. IJA Sách, tạp chí
Tiêu đề: Factors influencing accounting policy choices under IFRS in Airline-GSA companies
Tác giả: Okpala, Kenneth Enoch
Nhà XB: Ilorin Journal of Accounting
Năm: 2016
[8] Steven Young, (1998). The Determinants of Managerial Accounting Policy Choice: Further Evidence for the UK. Accounting and Business Research, vol.28, No.2: 131-143 Sách, tạp chí
Tiêu đề: The Determinants of Managerial Accounting Policy Choice: Further Evidence for the UK
Tác giả: Steven Young
Nhà XB: Accounting and Business Research
Năm: 1998

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN