TỔNG QUAN
Các khái niệm, lý thuyết dùng trong nghiên cứu
2.1.1.1 Mức độ hoàn thành công việc theo kế hoạch
Howell và cộng sự (2004) đã phát triển một phương pháp đo lường hiệu suất công việc theo kế hoạch thông qua tỷ số giữa khối lượng công việc hoàn thành (𝑊 𝐶) và khối lượng công việc theo kế hoạch (𝑊 𝑃) Cụ thể, sự thực hiện công việc được đánh giá bằng phần trăm hoàn thành (q), hay còn gọi là mức độ hoàn thành công việc, được tính theo Công thức số [1].
Theo kế hoạch, trong tuần tới, toàn bộ khối lượng sơn nước ngoài nhà 20 tầng sẽ được hoàn thành Tuy nhiên, đến ngày cuối cùng của kế hoạch, chỉ có 15 tầng được thực hiện, tương ứng với mức độ hoàn thành công việc đạt 75%.
Kế hoạch tuần là bản tiến độ cho tuần tới, bao gồm các công việc cần hoàn thành và cập nhật những nhiệm vụ còn tồn đọng cần giải quyết.
Người lập kế hoạch tuần nhằm kiểm soát các dòng công việc và đảm bảo tiến độ thực hiện Khi công việc không hoàn thành đúng thời hạn, cần xác định nguyên nhân và xây dựng kế hoạch ứng phó để ngăn chặn ảnh hưởng đến tiến độ trong tương lai Kế hoạch tuần là một yếu tố quan trọng trong phương pháp xây dựng tinh gọn.
2.1.1.3 Mối quan hệ hợp tác thầu phụ trong xây dựng:
"Mối quan hệ hợp tác" được định nghĩa theo từ điển Merriam-Webster là "sự kết nối được hình thành từ sự hài hòa, phù hợp, đồng thuận và sự đồng cảm" Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của sự kết nối và sự hiểu biết lẫn nhau trong một mối quan hệ hợp tác hiệu quả.
Hợp tác được định nghĩa là một phương pháp quản lý giữa hai hoặc nhiều tổ chức nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế cụ thể, tối đa hóa hiệu quả sử dụng nguồn lực của mỗi bên tham gia Phương pháp này dựa trên các mục tiêu chung, cách giải quyết vấn đề đã được thống nhất và nỗ lực cải tiến liên tục (Bennett và Jayes, 1995).
Có 2 mối quan hệ hợp tác liên quan đến các nhà thầu phụ trong dự án xây dựng: theo phương ngang: mối quan hệ giữa các Nhà thầu phụ cùng thực hiện trong 1 dự án; theo phương đứng: mối quan hệ giữa Nhà thầu chính và Nhà thầu phụ, nghiên cứu này tập trung phân tích cải thiện mối quan hệ này
Việc giao thầu phụ trong ngành xây dựng là một thực tiễn phổ biến, được xác nhận qua nhiều nghiên cứu (Hinze và Tracey, 1994; Hsieh, 1998; Edwards, 2003) Chẳng hạn, tỷ lệ công nhân làm thuê cho các nhà thầu phụ tại Anh đã tăng từ 25% vào năm 1983 lên 45% vào năm 1998 (Edwards).
Một nghiên cứu năm 1998-1999 tại Hoa Kỳ cho thấy 90,9% các nhà thầu chính trong lĩnh vực xây dựng thương mại đã giao thầu phụ hơn 75% thời gian (Costantino và Pietroforte, 2002).
Hợp tác giữa các nhà thầu chính và nhà thầu phụ là cần thiết để tránh các lợi ích ngắn hạn và thúc đẩy sự hợp tác hướng tới các mục tiêu chung lâu dài.
Lý thuyết và mô hình dùng trong nghiên cứu
2.2.1 Mạng Bayesian Belief Networks (BBNs)
Mạng niềm tin Bayes (BBNs), còn được biết đến là Mạng Bayes (BNs) hay Mạng Niềm Tin (BNs), được phát triển lần đầu vào cuối những năm 1970 tại Đại học Stanford BBNs là mô hình đồ thị thể hiện mối quan hệ nguyên nhân - kết quả giữa các biến, chủ yếu dựa trên lý thuyết xác suất có điều kiện, hay lý thuyết Bayes.
BBNs, cùng với các lý thuyết như logic mờ, mạng nơ ron nhân tạo và thuật toán gen, là phương pháp dựa trên xác suất có điều kiện để dự đoán hoặc chuẩn đoán các sự kiện và vấn đề đã, đang và sẽ xảy ra.
Trong ngành xây dựng, BBNs (Mạng Bayes) được sử dụng để dự báo và đánh giá rủi ro liên quan đến tiến độ, kinh phí, chất lượng và tai nạn lao động Ngoài ra, BBNs còn có ứng dụng trong y học, công nghệ kỹ thuật, dự báo chất lượng phần mềm máy tính và phân tích rủi ro tai nạn đường sắt.
Trong quản lý dự án xây dựng, một ví dụ điển hình về cấu trúc mạng BBNs đơn giản cho thấy mối quan hệ nguyên nhân giữa việc cung ứng vật tư chậm và kết quả là chậm trễ tiến độ công trình tại công trường xây dựng.
Hình 2.1: Một cấu trúc mạng BBNs đơn giản thể hiện nguyên nhân chậm trể
BBNs, hay mạng Bayesian, được xây dựng dựa trên lý thuyết xác suất có điều kiện của Thomas Bayes, người đã đề xuất quy luật cơ bản của xác suất, dẫn đến việc hình thành công thức Bayes Công thức này được coi là nền tảng trong việc phân tích và dự đoán các sự kiện dựa trên thông tin có sẵn.
+ A và B là hai sự kiện có thể xảy ra và phụ thuộc với nhau
+ P(A) là xác suất của sự kiện A;
+ P(B) là xác suất của sự kiện B;
+ P(B/A) là xác suất có điều kiện của B khi biết trước A đã xảy ra;
+ P(A/B) là xác suất có điều kiện của A khi biết trước B đã xảy ra
Công thức Bayes tổng quát, với mỗi k bất kì (k=1,2,3 n), ta có:
Công thức xác suất đầy đủ:
+ 𝐴 1, 𝐴 2 … 𝐴 𝑛 là nhóm đầy đủ các biến cố ( các biến này đôi một xung khắc và ít nhất một biến trong chúng xảy ra)
+ F là biến cố bất kỳ
Mô hình BBNs (Bayesian Belief Networks) thể hiện mỗi biến dưới dạng một nút, với các mối quan hệ nhân quả giữa các biến được biểu diễn bằng các mũi tên Mũi tên chỉ hướng từ nút nguyên nhân (nút cha) đến nút kết quả (nút con), cho thấy rằng nút kết quả phụ thuộc có điều kiện vào nút nguyên nhân.
Hình 2.2: Một số mô hình minh hoạ mạng BBNs (Charles River, 2004)
Mỗi nút trong mô hình đều liên quan đến một bảng xác suất có điều kiện (CPT), được xây dựng dựa trên thông tin ban đầu, dữ liệu và kinh nghiệm từ quá khứ.
Theo bảng 2.1 ta thấy, nếu yếu tố “ Thiếu vật tư” thì khả năng “Chậm trễ tiến độ” xảy ra là 80%; và không xảy ra là 20%
Hình 2.3: Cấu trúc mạng BBNs tổng quát
Nút nguyên nhân Nút kết quả
Thiếu vật tư Chậm trễ tiến độ
Bảng 2.1 Xác suất có điều kiện của nút kết quả: Chậm trễ tiến độ
Trong BBNs, nút gốc là nút không có nguyên nhân gây ra nó, và CPT của nút này được gọi là xác suất ban đầu Như thể hiện trong cấu trúc hình 2.1, CPT của nút gốc "Thiếu vật tư" được trình bày trong bảng 2.2.
Bảng 2.2: Xác suất có điều kiện của nút gốc: Thiếu vật tư
Các bước xây dựng mô hình BBNs:
Xác định các biến đầu vào của mô hình
Xác định trạng thái của từng biến và mối quan hệ giữa các biến theo suy luận logic hoặc dữ liệu quá khứ
Xây dựng bảng xác suất có điều kiện cho từng biến kết hợp giữa biến nguyên nhân và xác suất ban đầu
Đưa vào phần mềm MSBNX để tính toán mô hình
There are numerous software options available to assist with BBN (Bayesian Belief Network) calculations, including Bnet, Hugin Explorer, and MSBNx.
Kiểm định kết quả tính toán:
Dựa vào các giả thiết xác suất, ta có thể tính toán xác suất ban đầu của biến X thông qua các công thức sau: P(X/AB) = 0.8, P(X/A~B) = 0.6, P(X/~AB) = 0.65 và P(X/~A~B) = 0.5 Từ đó, ta có thể xác định P(X) bằng cách cộng các xác suất: P(X) = P(XAB) + P(X~AB) + P(XA~B) + P(X~A~B).
Tính toán theo phần mềm MSBNX:
Kết luận: Kết quả cho thấy 2 cách tính ra kết quả hoàn toàn giống nhau
2.2.2 Mô hình lý thuyêt trò chơi phân tích lợi ích kinh tế của thầu phụ
Mô hình kinh tế này phân tích hợp tác thầu phụ trong ngành xây dựng, nhấn mạnh mục tiêu tối ưu hóa lợi nhuận của nhà thầu phụ trong khoảng thời gian T Giả thuyết cho rằng nhà thầu phụ nhận thù lao dựa trên khối lượng công việc thực hiện, áp dụng cho cả hợp đồng đơn giá và hợp đồng trọn gói, như được thể hiện trong công thức [05] [06].
+ 𝑃 𝑇 là lợi nhuận trước thuế của thầu phụ trong khoảng thời gian T,
+ 𝐼 𝑖 là thu nhập ròng của dự án i trong khoảng thời gian T
E F là các khoản chi bắt buộc bao gồm lương và chi phí vận hành bộ máy Phần bên phải của công thức [5] phản ánh dòng thu từ các công việc đã thực hiện, bao gồm chi phí vật liệu, chi phí nhân công và chi phí vận hành.
+ 𝑊 𝑖 là khối lượng công việc thực tế mà thầu phụ đã thực hiện ở dự án i trong suốt khoảng thời gian T;
+ 𝑈 𝑖 là đơn giá hợp đồng tại dự án i,
+ 𝐶 𝑀 là đơn giá vật liệu tại dự án i,
+ 𝐶 𝐸 là đơn giá thiết bị trên một đơn vị thời gian tại dự án i,
+ b là hệ số hao hụt vật liệu không được sử dụng tại cuối khoảng thời gian T
+ r là tốc độ làm việc trung bình;
+ 𝐶 𝑠𝑖 là chi phí trên 1 đơn vị thời gian của 1 đơn vị nhân công bởi nhà thầu phụ ở dự án i ( giả thuyết không thay đổi trong suốt thời gian T) và
Chi phí quản lý cho dự án i trong khoảng thời gian T được ký hiệu là 𝐶 𝑜𝑖 Giả định rằng mỗi nhà thầu phụ và đội thi công chỉ chuyên môn hóa một công việc cho tất cả các dự án, với 𝑈 𝑖 và 𝐶 𝑀𝑖 , 𝐶 𝐸𝑖 giữ nguyên cho mọi dự án i Các chi phí cố định, bao gồm tiền lương và chi phí chung, cũng không thay đổi theo thời gian T Dưới những giả định này, chỉ có số lượng công việc thực tế và công việc theo kế hoạch là có sự biến đổi.
Trong nghiên cứu, có giả định rằng năng suất lao động bình quân của các thầu phụ giữ ở mức không đổi, nhưng thực tế mỗi nhà thầu phụ sẽ giám sát và điều chỉnh định kỳ số lượng nguồn lực cho từng dự án Để xác định mức tài nguyên chính xác, cần xem xét số lượng công việc có sẵn, vì công việc tối đa có thể thực hiện trong giai đoạn T của bất kỳ dự án nào luôn bị giới hạn bởi hai yếu tố: (a) nguồn lực có thể thực hiện công việc và (b) công việc thực tế sẵn có do nhà thầu chính cung cấp.
Công việc tối đa có thể được thực hiện, 𝑊 𝑖 , được giới hạn trong khối lượng công việc sẵn có, 𝑊 𝐴𝑖 , tức là 𝑊 𝑖 < 𝑊 𝐴𝑖
Số lượng công việc có sẵn là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến lợi nhuận, vì năng suất phụ thuộc vào khối lượng công việc và không gian làm việc (O'Brien, 2000) Đường cong học tập cũng tác động đến năng suất lao động (Thomas và cộng sự, 1986) Tại đây, chiến lược phân bổ nguồn lực của các nhà thầu phụ được nhấn mạnh; do đó, ảnh hưởng của đường cong học tập, lãng phí tài nguyên và chi phí chung sẽ được bỏ qua Để đơn giản, thu nhập ròng của các nhà thầu phụ trong dự án i trong khoảng thời gian T được tính theo công thức [7].
2.2.2.2 Ứng dụng lý thuyết trò chơi hỗ trợ ra quyết định phân bổ nhân lực
Lý thuyết trò chơi là một nghiên cứu chính thức về mối quan hệ hợp tác và mâu thuẫn
Một số nghiên cứu trước đây
2.3.1 Mô hình lý thuyết trò chơi kinh tế trong việc phân bố nguồn nhân lực
2.3.1.1 Rafael Sack và Michael Harl, “An economic game theory model of subcontractor resource allocation behaviour”, Construction Management and Economics (August 2006) 24, 869-881
Việc đánh giá và điều chỉnh định kỳ phân bố nguồn nhân lực cho các nhà thầu phụ trong dự án xây dựng là rất quan trọng để nâng cao lợi nhuận từ hợp đồng trọn gói và đơn giá GDDA cần kiểm soát các nhà thầu phụ để đảm bảo ngân sách và tiến độ được thực hiện đúng Tuy nhiên, các nhà thầu phụ thường tham gia nhiều dự án cùng lúc, dẫn đến việc họ có xu hướng ưu tiên phân bổ nhân lực cho những dự án có khả năng mang lại lợi nhuận cao hơn.
Nghiên cứu này giới thiệu một mô hình lý thuyết trò chơi kinh tế nhằm phân tích thái độ của các bên NTC và NTP trong việc phân bổ nguồn nhân lực cho dự án xây dựng Mô hình này làm nổi bật ảnh hưởng của độ tin cậy trong kế hoạch của NTC và NTP đối với hợp đồng đơn giá, đồng thời được tác giả ứng dụng để định lượng khả năng hoàn thành công việc theo kế hoạch trong một dự án thực tế.
2.3.1.2 Joseph R Protor Jr “ Golden rule of Contractor-Subcontractor
Relation” Practice Periodical on Structural Design and Construction, Vol 1,
Mối quan hệ giữa NTC và NTP thường căng thẳng do sự cảm nhận không công bằng và hiểu sai nhu cầu của nhau Thiếu kiến thức về điều kiện và kế hoạch của NTC là nguyên nhân chính dẫn đến bất đồng Những NTC nổi tiếng về công bằng và hiểu biết nhu cầu của thầu phụ thường thu hút được NTP chất lượng với giá thi công cạnh tranh Để tránh tranh chấp và tiết kiệm thời gian thương thảo, NTP cần nhận thức rõ tầm quan trọng của việc chuẩn bị các điều khoản hợp đồng cho dự án Các buổi họp giao ban giữa NTC và NTP là cần thiết để kết nối hiệu quả công tác giám sát Cuối cùng, các điều khoản và thời hạn thanh toán rất quan trọng cho cả hai bên, góp phần xây dựng mối quan hệ hợp tác và đảm bảo thành công cho dự án.
2.3.1.3 Frederick D Lazar “ Project Partnering: Improving the likelihood of win/win outcomes” Journal of Management in Engineering, Vol 16, No.2, March/April 2000
Bài báo này phân tích lợi ích từ việc áp dụng các chiến lược phát triển dựa trên sự tin cậy và mối quan hệ hợp tác tin cậy- cạnh tranh, đồng thời đặt ra các câu hỏi về niềm tin trong phát triển mối quan hệ này Nghiên cứu tập trung vào ba loại hình tin tưởng: đường bao khống chế, tự nguyện và dã định sẵn, cùng với hai phạm vi tin tưởng: ngoài và trong tổ chức Bài viết chỉ ra rằng việc phát triển và duy trì lòng tin liên tổ chức là yếu tố then chốt cho hành vi hợp tác thành công giữa chủ sở hữu và nhà thầu Nó cũng nhấn mạnh rằng lòng tin có thể tạo ra lợi ích kinh tế không ngờ trong các mối quan hệ hợp tác Đề xuất cho quản lý bao gồm tăng cường đầu tư vào các mối quan hệ dài hạn, phát triển hệ thống phản hồi thông tin, củng cố khả năng ra quyết định và đầu tư vào việc rèn luyện các hành vi hợp tác.
2.3.1.4 Reihaneh Samsami và Mehdi Tavakolan“ A Game theoretic model for subcontractor’ Partnership in construction: Win-Win game” Construction Research Congress 2016,597-606
Có 2 mối quan hệ trong dự án xây dựng là quan hệ theo phương đứng, Chủ đầu tư với Nhà thầu chính hoặc Nhà thầu chính với Nhà thầu phụ và quan hệ theo phương ngang giữa các Nhà thầu phụ Mối quan hệ dựa trên sự tin cậy là mội dạng của mối quan hệ hợp tác, được tập trung nghiên cứu ở bài báo này
Nghiên cứu này phát triển một mô hình phân tích mối quan hệ giữa hai NTP dựa trên lý thuyết trò chơi, mang lại lợi ích cho cả hai bên Kết quả của mô hình không chỉ cải thiện kết quả chung mà còn xây dựng cơ sở kiến thức cho việc định lượng thành công giữa các NTP Mô hình cung cấp thông tin hữu ích giúp NTP nâng cao lợi ích kỳ vọng cá nhân và tổng thể cho dự án.
2.3.1.5 Rafael Sack, Senior Lecturer, Faculty of Civil and Env Eng., 840
Rabin Building, Technion- Israel Institute of Technology (2004)“ Towards a lean understanding of resource allocation in a multi-project subcontracting environment”
Giao thầu phụ đang trở thành vấn đề nổi cộm trong ngành xây dựng do nhiều lý do Các nhà thầu phụ thường quản lý nhiều dự án cùng lúc và tìm kiếm thêm công việc để duy trì và phát triển đội ngũ Trong khi đó, người quản lý dự án của nhà thầu chính phải kiểm soát hoạt động của các nhà thầu phụ trong giới hạn chi phí và tiến độ Sự thúc đẩy công việc trong giao thầu xây dựng luôn là một thách thức lớn.
Việc các nhà thầu phụ phải điều chỉnh tài nguyên giữa các dự án có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến từng dự án riêng lẻ Nghiên cứu này tập trung vào việc các nhà thầu phụ triển khai nhiều dự án đồng thời, nhằm hiểu rõ hơn về quy trình làm việc từ góc độ của họ và nghiên cứu lý thuyết năng suất trong lĩnh vực xây dựng Để giải quyết vấn đề này, một mô hình lý thuyết trò chơi kinh tế được đề xuất với mục tiêu cải thiện và phát triển mối quan hệ hợp tác giữa nhà thầu chính và nhà thầu phụ, mang lại lợi ích cho cả hai bên.
2.3.2 Các nghiên cứu các yếu tố ảnh hường đến kế hoạch đặt ra ở các công trường xây dựng
Có nhiều nguyên nhân làm ảnh hưởng đã được xem xét và phân tích trong các bài báo và nghiên cứu khoa học
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến sự thực hiện công việc trong dự án xây dựng Borcherding và Garner (1981) xác định 9 yếu tố chính, bao gồm sự có sẵn vật tư, thiết bị, công tác làm lại, không gian đông đúc, hoãn nghiệm thu, năng lực quản lý, bất hoà đội nhóm và sự thay thế đội nhóm Thomas và Yiakaumis (1987) phân loại các yếu tố thành 4 nhóm: môi trường, hoạt động công trường, quản lý và thiết kế Herbsman và Ellis (1990) phân loại thành các yếu tố kỹ thuật như tiêu chuẩn, thiết kế, vật liệu và vị trí dự án, trong khi các yếu tố tổ chức bao gồm sản xuất, xã hội và nhân công Thomas và Sakarcan (1994) đã xác định các yếu tố như tắc nghẽn, thời tiết, tình trạng máy móc, thông tin và phạm vi công việc ảnh hưởng đến năng suất dự án Liberda và cộng sự (2003) nhấn mạnh rằng sự thiếu kế hoạch chi tiết, giám sát công trường và thông tin là những yếu tố chính ảnh hưởng đến năng suất công việc.
2.3.2.1 Brad W Wambeke “ Causes of Variation in Construction Project Task Starting Times and Duration” Journal of Construction Engineering and
Nghiên cứu này xác định các nguyên nhân gây ra sự biến động về thời gian bắt đầu và hoàn thành công việc trong ngành xây dựng, ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất Qua cuộc khảo sát toàn quốc với công nhân, quản lý và giám đốc dự án, 50 nguyên nhân đã được phân loại thành 8 nhóm chính: công tác liên quan, thiết kế chi tiết, công nhân, vật tư, thiết bị, điều kiện mặt bằng, quản lý thông tin và thi công, cùng với yếu tố thời tiết Bài nghiên cứu cũng xem xét sự khác biệt trong đánh giá giữa ba nhóm đối tượng này Kết quả cho thấy có 8 yếu tố ảnh hưởng mạnh đến thời gian bắt đầu và 9 yếu tố chính tác động đến khoảng thời gian thực hiện công việc Nghiên cứu giúp giám đốc dự án và các nhà quản lý nhận diện các yếu tố gốc, từ đó xây dựng kế hoạch kiểm soát và cải thiện năng suất công việc.
2.3.2.2 Võ Văn Tuấn Phát, “ Các nhân tố sai sót và thay đổi thiết kế ảnh hưởng đến tiến độ thi công” Luận văn Thạc sỹ ngành Quản lý xây dựng, Đại học Bách Khoa, 2016
Các dự án xây dựng thường gặp tình trạng chậm tiến độ và vượt chi phí, trong đó sai sót và thay đổi thiết kế là nguyên nhân chính Việc xác định các nguyên nhân này và đề xuất giải pháp hạn chế là rất cần thiết để cải thiện hiệu quả trong thiết kế và xây dựng.
Tác giả đã thực hiện khảo sát bằng bảng câu hỏi tại các công trình ở TP HCM và khu vực lân cận, sử dụng phần mềm SPSS để xác định 8 nhân tố chính Tiếp theo, kỹ thuật phân tích nhân tố khẳng định CFA và SEM được áp dụng để làm rõ ảnh hưởng của 8 nhân tố này đối với tiến độ thi công.
- Tài liệu thiết kế không đầy đủ
- Thay đổi do thiết kế
- Yếu kém trong chuyên môn và kỹ năng giao tiếp
- Thay đổi do công trường
- Thay đổi do yêu cầu của chủ đầu tư
- Công việc áp lực cao
- Tài liệu thiết kế thiếu tính khả thi
- Thiếu năng lực và thông tin dự án
2.3.2.3 Nguyễn Tấn Duy “ Phân tích các nguyên nhân gây chậm trễ tiến độ do nhà thầu thi công và biện pháp khắc phục, hạn chế” Luận văn thạc sỹ ngành quản lý xây dựng Đại học Bách Khoa, 2015
Chậm trễ tiến độ trong xây dựng là vấn đề quan trọng mà các nhà quản lý xây dựng rất quan tâm Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra các yếu tố chính gây ra chậm trễ trong dự án Nghiên cứu này nhằm xác định nguyên nhân chậm trễ do nhà thầu thi công và xây dựng mô hình thể hiện mối quan hệ giữa các yếu tố đó.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Quy trình nghiên cứu
Hình 3.1: Sơ đồ nghiên cứu
Phân tích định tính tìm ra các yếu tố chính ảnh hưởng đến kế hoạch ngắn hạn
3.2.1 Phương pháp thu thập dữ liệu
Khảo sát bảng câu hỏi là phương pháp hiệu quả để thu thập dữ liệu từ một số lượng lớn đối tượng trong thời gian ngắn, hỗ trợ cho công tác nghiên cứu.
Các bước thực hiện khảo sát bảng câu hỏi:
- Nhận dạng các vấn đề cần khảo sát từ việc tổng quan các nghiên cứu trước đây và ý kiến chuyên gia
Khi lựa chọn hình thức câu hỏi và thang đo, thang đo 5 mức độ Rennis Likert (1932) là một trong những công cụ phổ biến nhất Thang đo này đánh giá mức độ ảnh hưởng từ (1) gần như không ảnh hưởng đến (5) ảnh hưởng rất nhiều.
- Xây dựng bảng khảo sát dựa trên các yếu tố và thang đo đã chọn
- Tiến hành khảo sát sơ bộ: để hoàn thiện bảng câu hỏi và thăm dò ý kiến của người được khảo sát
- Tiến hành khảo sát chính thức
Có nhiều cách để tiến hành thu thập dữ liệu sơ cấp khác nhau:
-Khảo sát qua điện thoại
Do tính chất và yêu cầu của bài khảo sát đòi hỏi thời gian đáng kể từ người tham gia, trong khi thời gian tiếp cận đối tượng của học viên là hạn chế, nên phương án gửi thư hỏi được chọn để thu thập dữ liệu Để tối ưu hóa việc phân phối bảng câu hỏi và thu thập phản hồi với số lượng lớn nhất và chi phí thấp nhất, hai phương pháp phổ biến đã được áp dụng trong luận văn này.
Phát bảng câu hỏi trực tiếp cho người được khảo sát là phương pháp hiệu quả, giúp thu thập thông tin đầy đủ từ các câu trả lời Tuy nhiên, phương pháp này tốn nhiều thời gian và chi phí, đồng thời không phải ai cũng có thời gian để trả lời Trong luận văn này, học viên có cơ hội tiếp cận với các kỹ sư và đồng nghiệp từ các dự án nhà cao tầng tại Thành phố Hồ Chí Minh, cùng với các học viên Cao học ngành Quản lý xây dựng tại Đại Học Bách Khoa Do đó, toàn bộ kết quả khảo sát được thu thập thông qua phương pháp phát bảng câu hỏi trực tiếp.
Gửi bảng câu hỏi qua email hoặc bưu điện để phỏng vấn thường có tỷ lệ phản hồi thấp, chỉ đạt từ 5% đến 20% (Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc, 2013).
3.2.2 Nội dung bảng câu hỏi
Bảng câu hỏi khảo sát bao gồm 2 phần:
Phần A của bài viết đánh giá mức độ ảnh hưởng của 40 yếu tố chính đến mức độ hoàn thành công việc, được phân thành 7 nhóm: thiết kế, vật tư, thiết bị, nhân công, không gian làm việc, công tác liên quan và các yếu tố khách quan Các yếu tố này được đánh giá theo 5 mức độ ảnh hưởng, từ (1) gần như không ảnh hưởng đến (5) ảnh hưởng rất đáng kể.
Các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ hoàn thành công việc so với kế hoạch tuần
I Các yếu tố liên quan đến thiết kế
1 Sự đầy đủ và rõ ràng thông tin của các bản vẽ triển khai thi công
2 Sự phối hợp hiệu quả của các bên tham gia dự án trong việc trả lời, làm rõ thông tin về thiết kế
Sự thiếu sót trong việc kiểm tra xung đột giữa các thông tin của Kiến trúc, Kết cấu và Cơ điện có thể dẫn đến những vấn đề nghiêm trọng trong quá trình thi công thực tế, khi các thông tin không trùng khớp không được phát hiện kịp thời.
4 Những thay đổi trong thiết kế do yêu cầu từ các bên tham gia dự án
5 Thiết kế phức tạp, đặc thù
II Các yếu tố liên quan đến vật tư
1 Sự sẵn sàng của vật tư đưa vào sử dụng trên công trường
2 Sự phù hợp của kế hoạch đặt hàng vật tư, thiết bị về công trường
3 Chất lượng vật tư ( Đầy đủ các giấy tờ Hợp chủng hợp quy và đạt yêu cầu chất lượng, kỹ thuật, được Chủ đầu tư phê duyệt)
Các yêu cầu về bảo quản và vận chuyển vật tư rất quan trọng để đảm bảo chất lượng vật liệu Mỗi loại vật liệu đều có những tính chất riêng, do đó cần có biện pháp bảo quản đặc biệt như chống ẩm và xác định tải trọng chịu đựng khi xếp chồng Việc tuân thủ những yêu cầu này sẽ giúp duy trì độ bền và hiệu quả sử dụng của vật tư.
5 Sự hiệu quả của việc bố trí mặt bằng tập kết vật tư
6 Điều kiện vận chuyển, cung ứng vật tư
III Các yếu tố liên quan đến nhân công
1 Sự sẵn sàng về số lượng công nhân trên công trường
2 Sự đáp ứng yêu cầu về tay nghề, kinh nghiệm người công nhân
3 Mức độ biến động lực lượng nhân công trên công trường
4 Chế độ làm việc của công nhân trên công trường
5 Quá trình làm việc của công nhân với Nhà thầu chính ( Tổ đội/ Nhà thầu phụ đã từng hợp tác/Tổ đội mới hợp tác lần đầu )
6 Sự đáp ứng các yêu cầu ATLĐ của người công nhân
IV Các yếu tố liên quan đến máy móc thiết bị
1 Sự sẵn sàng đưa vào sử dụng của thiết bị trên công trường
2 Sự phù hợp về công suất và chức năng của thiết bị
3 Mức độ sử dụng ổn định của thiết bị
4 Nhu cầu sử dụng thiết bị trên công trường cho công việc trong kế hoạch ngắn hạn
5 Sự quản lý, phối hợp của các bên tham gia dự án trong khi sử dụng thiết bị
6 Sự đáp ứng các yêu cầu về an toàn cho máy móc thiết bị
V Các yếu tố liên quan đến không gian làm việc
1 Sự sẵn sàng mặt bằng để triển khai thi côn
2 Sự đáp ứng đủ các yêu cầu về an toàn tại không gian làm việc
3 Mức độ rộng rãi của mặt bằng thi công
4 Mức độ xếp chồng các công việc trên cùng mặt bằng thi công
5 Khả năng tiếp cận hệ thống tiện ích trong công trường (điện, nước, nhà vệ sinh, bãi tập kết vật tư )
VI Các yếu tố liên quan đến các công tác đứng trước
1 Mức độ hoàn thành của công tác đứng trước
2 Ảnh hưởng làm lại do các công tác đứng trước còn sai sót
3 Mức độ phụ thuộc về Biện pháp thi công giữa các công tác
4 Chất lượng của công tác đứng trước
VII Các yếu tố khác
1 Tình hình thời tiết thuận lợi
2 Sự ổn định trong kế hoạch thanh toán của Chủ đầu tư
3 Kế hoạch thanh toán của Nhà thầu chính
4 Mức độ cạnh tranh của các dự án xây dựng đang triển khai trong khu vực
5 Năng lực của Nhà thầu chính
6 Sự chặt chẽ trong khâu quản lý ( chất lượng, an toàn ) trên công trường từ Chủ đầu tư
7 Các yêu cầu về tiêu chí kỹ thuật, thiết kế của công tác ngắn hạn
Phần B cung cấp thông tin tổng quan về kinh nghiệm làm việc của ứng viên, bao gồm vị trí công tác, lĩnh vực chuyên môn và số lượng dự án mà họ đã tham gia.
3.2.3 Xác định kích thước mẫu
Phương pháp lấy mẫu phi xác suất cụ thể là lấy mẫu thuận tiện, kích thước mẫu để đảm bảo phân phối chuẩn
Tham khảo 3 phương pháp xác định kích thước mẫu tới hạn đang được sử dụng phổ biến:
Theo Hoelter (1983) thì kích thước mẫu tối thiểu là 200
Theo Bollen (1989), kích thước mẫu phải thỏa mãn tối thiểu 5 mẫu cho 1 biến nghiên cứu
Theo tài liệu Sách Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc: cho phương pháp lấy mẫu xác suất
Giá trị Z 𝛼/2 2 được xác định dựa trên độ tin cậy 1 - , trong đó e là độ rộng của ước lượng và p là tỷ lệ thành công cần ước lượng Theo các nghiên cứu trước, với độ tin cậy 95%, ta có 1 - = 0.95 và tra bảng Z 𝛼/2 = 1.96 Để thực hiện ước lượng, chọn độ rộng e = 0.1 và tỷ lệ thành công p = 0.2 cho bảng câu hỏi khảo sát.
Số lượng mẫu cần thu thập không được nhỏ hơn 61, và theo kinh nghiệm khảo sát trước, tỷ lệ mẫu thu lại thường chiếm khoảng 20%-50% tổng số bảng câu hỏi phát ra, tùy thuộc vào phương pháp lấy mẫu Do đó, ước lượng khoảng 40% bảng câu hỏi sẽ được trả lời, dẫn đến việc số người cần khảo sát trong nghiên cứu này là Na/0.4.
Khi nghiên cứu một tổng thể có nhiều yếu tố không đồng nhất, việc chọn mẫu là cần thiết để tiết kiệm thời gian và chi phí Mẫu rút ra một cách khoa học từ tổng thể sẽ giúp đảm bảo tính chính xác và hiệu quả của nghiên cứu, so với việc nghiên cứu toàn bộ tổng thể.
Việc chọn mẫu nghiên cứu không chỉ nhằm tiết kiệm chi phí và thời gian, mà còn cần đảm bảo tạo ra dữ liệu hữu ích Các nghiên cứu dựa trên mẫu đại diện thường mang lại kết quả tốt hơn so với nghiên cứu toàn bộ tổng thể, bởi vì dữ liệu từ mẫu có thể cung cấp giá trị đo đạc cao hơn so với dữ liệu thu thập từ toàn bộ tổng thể.
Có hai nhóm kỹ thuật lấy mẫu phổ biến: kỹ thuật lấy mẫu xác suất và kỹ thuật lấy mẫu phi xác suất Kỹ thuật lấy mẫu xác suất bao gồm các phương pháp như chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản, chọn mẫu hệ thống, chọn mẫu phân tầng, chọn mẫu cả khối và nhiều giai đoạn Trong khi đó, kỹ thuật lấy mẫu phi xác suất bao gồm các phương pháp lấy mẫu thuận tiện, lấy mẫu định mức và lấy mẫu phán đoán.
Trong nhiều trường hợp, việc thực hiện lấy mẫu ngẫu nhiên gặp khó khăn do hạn chế về thời gian, thông tin và chi phí Khi đó, kỹ thuật lấy mẫu phi xác suất trở thành một lựa chọn phù hợp, mặc dù không đại diện cho toàn bộ tổng thể Kỹ thuật này có thể được chấp nhận trong nghiên cứu khám phá và kiểm định giả thuyết Do đó, luận văn này lựa chọn phương pháp lấy mẫu phi xác suất, cụ thể là lấy mẫu thuận tiện, bằng cách tiếp cận những địa điểm có khả năng gặp gỡ đối tượng nghiên cứu để thu thập thông tin cần thiết.
Phân tích định lượng bằng sơ đồ BBNs
Sau khi xác định các yếu tố chính ảnh hưởng đến kế hoạch ngắn hạn, cần thiết lập mối quan hệ nhân quả giữa chúng Để thực hiện điều này, trước tiên, hãy phác thảo sơ đồ thể hiện các mối quan hệ và tiến hành phỏng vấn các chuyên gia cũng như quản lý dự án có hơn 10 năm kinh nghiệm Qua việc đánh giá ma trận tương tác giữa các yếu tố, ta có thể xác định những yếu tố có mối quan hệ đáng kể Cuối cùng, sơ đồ này sẽ được sử dụng để khảo sát ý kiến của các kỹ sư làm việc tại công trường.
Dùng phần mềm SPSS để tính toán số liệu và giữ lại các mối quan hệ có trung bình lớn hơn 3
Kết quả mô hình BBNs là xác suất rời rạc của từng mức độ hoàn thành công việc theo kế hoạch
3.4 Phương pháp định lượng bằng mô hình BBNs và mô hình trò chơi kinh tế trong việc phân bổ nguồn nhân lực Áp dụng sơ đồ BBNs đã thiết lập ở trên vào công trình thực tế
Tùy thuộc vào loại hình công trình và tình trạng hiện tại của dự án, việc hiệu chỉnh mô hình cần được thực hiện phù hợp với các tính năng cụ thể của từng công trình.
Gắn mỗi yếu tố với các trạng thái khả thi như xấu/tốt hoặc có/không Tiến hành lập bảng xác suất có điều kiện cho từng mối quan hệ Có hai loại bảng xác suất cần lưu ý.
Loại bảng 1: dùng cho biến không có nguyên nhân
Loại bảng 2: dùng cho biến có nguyên nhân
Tiến hành khảo sát những chuyên gia, KSXD tham gia thực hiện công trình
Hệ số q có thể được áp dụng trong nhiều hoạt động tại công trường, giúp phân bổ nguồn nhân lực hợp lý và tăng cường niềm tin giữa Nhà thầu chính và Nhà thầu phụ Nghiên cứu này sử dụng công thức kinh tế của NTP để tối ưu hóa lợi ích của GĐDA.
NTC quy định số lượng công việc mà NTP cần thực hiện trong tuần kế tiếp, và NTP sẽ xác định các nguồn lực phù hợp để đáp ứng yêu cầu này Trong mối quan hệ này, NTC yêu cầu công việc trong khi NTP phân bổ nguồn lực Hình thức tổng quát (Osborne và Rubinstein, 1994) được áp dụng do tính chất tuần tự của các chuyển động và sự không hoàn hảo trong nhận thức của cả hai bên về khả năng hoàn thành công việc Hình thức này có thể lặp lại để kiểm tra các chiến lược dài hạn, giúp các bên phản ứng với hành động của nhau và phát triển mối quan hệ hợp tác theo thời gian.
Dự án A mô hình hóa tình huống như thể hiện trong hình 5.4, với các nhánh của nút gốc cây đại diện cho phạm vi kết quả có thể về số lượng công việc thực tế mà NTP sẽ thực hiện Tỷ lệ công việc thực hiện so với công việc ban đầu được lên kế hoạch được biểu thị bằng q, trong đó q = WC / WP Xác suất cho bất kỳ giá trị đặc biệt của q được mô tả thông qua một phân bố xác suất, P[q].
Nghiên cứu của Rafael Sack (2006) đơn giản hóa hệ số q thành 4 giá trị rời rạc: có 10% xác suất rằng 80% công việc được lên kế hoạch có thể đạt được, 20% xác suất cho 90%, 50% cho 100%, và 20% khả năng công việc có thể vượt quá dự kiến 10% Khả năng tích lũy ít nhất 100% sẽ được thực hiện là 70%, với trung bình trọng số của phân phối đạt 98% Kết quả từ nghiên cứu thực nghiệm sâu rộng của Bortolazza và cộng sự (2005) cho thấy mức độ tin cậy trong kế hoạch từ trung bình đến cao.
Trong bài viết này, các động thái yêu cầu bố trí nhân lực của NTC được ký hiệu là d, phản ánh tỷ số công việc cần thực hiện Mặc dù d thực tế là liên tục, nhưng để đơn giản hóa, nó được mô phỏng bằng ba giá trị rời rạc: d=0.9 (nhu cầu làm việc ít hơn khối lượng kế hoạch), d=1 (chính xác khối lượng kế hoạch) và d=1.1 (nhiều hơn khối lượng kế hoạch) Để đáp ứng những yêu cầu này, NTP bố trí nhân lực theo hệ số k, có thể là k=0.9 (phân bổ ít tài nguyên hơn yêu cầu), k=1 (chính xác số yêu cầu) hoặc k=1.1 (nhiều hơn yêu cầu).
Các kỳ vọng lợi ích cho mỗi bên được tính ở cuối nút của mỗi chi nhánh của cây
Kỳ vọng cho NTC được xác định dựa trên tổng số công việc thực hiện so với kế hoạch tuần Khi số công nhân phân bổ không đủ (q>dk), công việc hoàn thành bị giới hạn bởi nguồn lực sẵn có, tỷ lệ thuận với dk Ngược lại, khi 0≤q