Phương pháp nghiên cứu
Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
Lý Nhân là huyện đồng bằng ở phía đông tỉnh Hà Nam, nằm giữa sông Châu Giang và sông Hồng dài 78km Phía bắc giáp thành phố Hưng Yên, đông bắc giáp huyện Tiên Lữ tỉnh Hưng Yên với sông Hồng làm ranh giới tự nhiên Phía tây và tây bắc giáp huyện Duy Tiên, với sông Châu Giang phân chia ranh giới Phía nam và tây nam giáp huyện Bình Lục, còn phía nam giáp huyện Mỹ Lộc tỉnh Nam Định, cùng sông Châu Giang làm ranh giới tự nhiên Phía đông đối diện với các huyện Hưng Hà và Vũ Thư thuộc tỉnh Thái Bình bên tả ngạn sông Hồng.
Huyện Lý Nhân, cách thành phố Phủ Lý 14km về phía Tây, có các tuyến tỉnh lộ 492, 491 và 499 chạy qua Được bao bọc bởi hệ thống sông ngòi, với sông Hồng ở phía Bắc – Tây Bắc và sông Châu Giang ở phía Tây – Tây Nam, Lý Nhân sở hữu điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội.
Huyện Lý Nhân, nằm ở vị trí địa lý thuận lợi trong tỉnh Hà Nam, sở hữu mạng lưới giao thông hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu hàng hóa và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ Đặc biệt, huyện có khả năng kết nối mạnh mẽ với Thủ đô Hà Nội và các tỉnh lân cận như Nam Định, Thái Bình.
Thị trấn Vĩnh Trụ, trung tâm huyện Lý Nhân, là một địa điểm lâu đời với người dân có nhiều kinh nghiệm trong việc phát triển kinh tế theo hướng thương mại và dịch vụ.
Với vị trí địa lý thuận lợi và mạng lưới giao thông hoàn chỉnh, Lý Nhân đang dần nâng cấp các tuyến tỉnh lộ và huyện lộ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận công nghệ mới, từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội một cách nhanh chóng và bền vững Tuy nhiên, sự chuyển đổi mạnh mẽ sang nền kinh tế thị trường hiện nay cũng đặt ra nhiều thách thức cho huyện trong việc quản lý và hoạch định các kế hoạch phát triển, đặc biệt là áp lực về nguồn tài nguyên đất đai và môi trường.
Huyện Lý Nhân, nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng, có địa hình chủ yếu bằng phẳng và được chia thành hai nhóm: vùng trũng và vùng cao Được bao bọc bởi hai con sông lớn là sông Hồng và sông Châu Giang, địa hình huyện có dạng lòng chảo, với các khu vực càng xa sông thì càng trũng Tuy nhiên, nhờ vào công tác thủy lợi được chú trọng trong những năm gần đây, các vùng trũng của huyện đã cải thiện khả năng tiêu nước, giúp giảm thiểu tình trạng ngập úng.
Địa hình huyện có lợi cho việc phát triển đa dạng cây trồng, tạo điều kiện thuận lợi cho luân canh và tăng vụ Điều này giúp nâng cao hệ số sử dụng đất, phát triển ngành công nghiệp và đa dạng hóa sản phẩm, góp phần vào sự phát triển kinh tế xã hội trong tương lai.
Lý Nhân sở hữu điều kiện thời tiết đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, với nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 23 độ C, tạo nên môi trường nóng và ẩm ướt.
Khí hậu nơi đây có nhiệt độ trung bình khoảng 24°C, với 1300 – 1500 giờ nắng mỗi năm Trong năm, có 8 – 9 tháng nhiệt độ trung bình trên 20°C, trong đó 5 tháng trên 25°C, và chỉ 3 tháng dưới 20°C, không có tháng nào dưới 16°C Hai mùa chính là mùa hạ và mùa đông, với gió nam, tây nam và đông nam vào mùa hạ, còn mùa đông có gió bắc, đông và đông bắc Độ ẩm trung bình hàng năm đạt 85%, không tháng nào dưới 77%; tháng 3 có độ ẩm cao nhất (95,5%) và tháng 11 thấp nhất (82,5%) Khí hậu phân hóa theo chế độ nhiệt với mùa hạ kéo dài từ tháng 5 đến tháng 9, mùa đông từ giữa tháng 11 đến giữa tháng 3, mùa xuân từ giữa tháng 3 đến hết tháng 4 và mùa thu từ tháng 10 đến giữa tháng 11.
Huyện Lý Nhân nằm trong khu vực của hệ thống sông Hồng và sông Châu Giang, với tổng chiều dài gần 78km và diện tích lưu vực khoảng 1084 ha Đây là mạng lưới sông suối quan trọng cung cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt của người dân Sông Long Xuyên cũng đóng vai trò chính trong việc tiêu nước cho các xã vùng trũng trong huyện.
Nguồn tài nguyên nước của huyện Lý Nhân khá dồi dào và phân bố khá đồng đều
Lý Nhân có hệ thống sông ngòi quan trọng, bao gồm sông Hồng và sông Châu Giang, với tổng chiều dài 78 km và diện tích lưu vực 1.084 ha Sông Hồng hàng năm bồi đắp phù sa, tưới tiêu cho đất ngoài đê và vùng lúa trong đê thông qua hệ thống trạm bơm Sông Châu Giang, nhánh của sông Hồng, có một số đập ngăn nước để tưới đồng ruộng và thoát nước vào mùa mưa Bên cạnh đó, sông Long Xuyên cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tiêu nước cho vùng trũng của Lý Nhân.
Nguồn nước ngầm tại huyện Lý Nhân chưa được điều tra một cách hệ thống, nhưng thực tế cho thấy các giếng nước đào của người dân thường có độ sâu từ 7 đến 9 mét và chất lượng nước khá tốt, phục vụ cho sinh hoạt và tưới tiêu trong nông nghiệp Nguồn nước ngầm ở đây đặc trưng cho vùng châu thổ sông Hồng, bao gồm hai tầng nước ngầm: hệ Thái Bình và hệ Hà Nội.
Nguồn nước mặt và nước ngầm tại huyện Lý Nhân rất phong phú, tuy nhiên cần quy hoạch khai thác hiệu quả Việc cải tạo hệ thống thủy lợi là cần thiết để phục vụ cho thâm canh, mở rộng diện tích tưới tiêu chủ động, đồng thời giảm thiểu tác động của thiên tai.
3.1.1.6 Tài nguyên đất Đất đai của huyện Lý Nhân thuộc nhóm đất phù sa sông Hồng Theo phân loại của FAO UNESCO, toàn huyện có 1 nhóm đất chính, được chia ra 3 đơn vị đất, trong đó gồm 8 loại như sau
Bảng 3.1 Diện tích các loại đất theo phát sinh
TT Loại đất Diện tích
1 Đất phù sa glay chua 2.183,64 21,34
2 Đất phù sa chua glay 1.028,33 10,05
3 Đất phù sa chua glay sâu 1.360,62 13,29
4 Đất phù sa có tầng biến đổi 662,17 6,47
5 Đất phù sa chua nghèo bazơ 101,23 0,99
6 Đất phù sa chua có thành phần cơ giới trung bình 412,06 4,03
7 Đất phù sa chua có thành phần cơ giới nhẹ 265,60 2,59
8 Đất phù sa ít chua có thành phần cơ giới trung bình 4.221,20 41,24
Nguồn: Phòng nông nghiệp huyện Lý Nhân (2015)
Huyện Lý Nhân có đa dạng loại đất với thành phần cơ giới từ cát pha đến đất thịt nặng và sét Đất phù sa lay chua có pH KCL từ 3,8 đến 4,8, trong khi đất phù sa ít chua ven sông có pH KCL từ 5 đến 6 Tất cả các loại đất này đều có dung tích hấp thu và độ no bazơ thấp, đồng thời nghèo mùn, đạm, lân, kali Hàm lượng mùn trung bình chỉ đạt 0,2 đến 1,5%, đạm từ 0,02 đến 0,2%, lân tổng số từ 0,06 đến 0,18%, lân dễ tiêu khoảng 10mg/100g đất và kali dễ tiêu đạt 100mg/100g đất Đánh giá chung cho thấy đất đai huyện Lý Nhân phong phú và phân bố đồng đều, với địa hình bằng phẳng, tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều loại cây trồng và sản xuất nông sản đa dạng.
Phương pháp nghiên cứu
3.2.1 Phương pháp chọn điểm nghiên cứu và chọn mẫu điều tra
3.2.1.1 Phương pháp chọn điểm nghiên cứu Đề tài lựa chọn địa bàn nghiên cứu là huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam Huyện Lý Nhân là huyện trọng điểm về nông nghiệp của tỉnh Hà Nam, là huyện khó khăn, xuất phát điểm thấp và chậm phát triển cả kinh tế và xã hội Trong những năm qua, Lý Nhân đã nỗ lực vươn lên, khắc phục khó khăn, tận dụng và phát huy lợi thế, đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế xã hội và đã thu được nhiều kết quả cũng như thành tựu quan trọng Sản xuất nông nghiệp của Lý Nhân đã chuyển sang sản xuất hàng hóa Đặc biệt là trồng nấm ăn đang phát triển mạnh thành phong trào Tuy nhiên, việc phát triển sản xuất nấm ăn ở đây vẫn còn nhiều khó khăn, hạn chế, hiệu quả chưa tương xứng với điều kiện thực tiễn, nên đòi hỏi huyện Lý Nhân cần có các giải pháp thích hợp
Do hạn chế về thời gian và điều kiện nghiên cứu, đề tài không thể thực hiện nghiên cứu sâu ở tất cả các xã trong huyện Để đảm bảo tính khoa học và đáp ứng yêu cầu nghiên cứu, thông tin được chọn phải có tính tổng quát và đại diện cao Vì vậy, đề tài đã chọn 3 xã đại diện cho 3 vùng sản xuất nấm ăn, bao gồm xã Phú Phúc, xã Nhân Khang và xã Chân Lý, những xã đang phát triển mạnh mẽ sản xuất nấm ăn nhất tại huyện Lý Nhân.
3.2.1.2 Phương pháp chọn mẫu điều tra
Dựa trên tình hình sản xuất nấm ăn tại huyện Lý Nhân, chúng tôi đã phân loại các hộ điều tra theo quy mô sản xuất năm 2015 thành ba nhóm Sau đó, chúng tôi tiến hành chọn ngẫu nhiên các hộ từ ba xã để thực hiện khảo sát, nhằm đảm bảo tính khách quan và đại diện cho toàn bộ khu vực.
+ Hộ nhóm I: quy mô sản xuất nhỏ hơn 150 m 2
+ Hộ nhóm II: quy mô sản xuất từ 150 m 2 đến 250 m 2
+ Hộ nhóm III: quy mô sản xuất lớn hơn 250 m 2
3.2.2 Phương pháp thu thập thông tin
3.2.2.1 Thông tin thứ cấp Để nghiên cứu đề tài, chúng tôi tiến hành thu thập tài liệu và số liệu đã công bố như: Các báo cáo, đề án, dự án, qua sách báo, tạp trí, bài viết, internet có liên quan đến tình hình sản xuất của huyện Về lý thuyết, cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của vấn đề phát triển sản xuất nấm ăn, tôi tiến hành tra cứu, sao chép từ các nguồn sách báo, mạng internet, các nghiên cứu khoa học trước đây Về các thông tin liên quan đến đặc điểm địa bàn nghiên cứu, tình hình sản xuất nấm ăn, tình hình chung về các giải pháp phát triển sản xuất nấm ăn ở địa phương tôi tiến hành liên hệ, trao đổi và thu thập, tổng hợp các thông tin này tại các cơ quan, phòng ban liên quan ở địa phương như: UBND huyện, các Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Chi cục thống kê, trạm Khuyến nông và cán bộ chuyên môn liên quan của huyện, UBND và các cán bộ chuyên môn liên quan của các xã Các thông tin được thể hiện trong bảng sau:
Bảng 3.4 Thu thập thông tin thứ cấp
TT Loại thông tin Nguồn thông tin Phương pháp thu thập
1 Cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của vấn đề
Sách báo, mạng internet, các nghiên cứu khoa học trước
2 Đặc điểm địa bàn nghiên cứu, tình hình dân số, lao động diễn biến trong
3 năm (2013 – 2015), tình hình thực hiện các biện pháp sản xuất nấm ăn
UBND huyện, cùng với các Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Chi cục thống kê, trạm Khuyến nông huyện, và các cán bộ chuyên môn tại các xã, thị trấn, đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển nông nghiệp và thống kê tại địa phương.
Các báo cáo, đề án, dự án liên quan của huyện và xã, thị trấn
Liên hệ với các cơ quan, phòng ban liên quan của huyện, xã xin các báo cáo, số liệu; tập hợp, tổng hợp và xử lý số liệu
3 Các thông tin liên quan đến các biện pháp phát triển sản xuất nấm ăn
Chi cục thống kê huyện, các Phòng Ban liên quan khác
Liên hệ với các Phòng Ban liên quan của huyện xin số liệu và xử lý số liệu
3.2.2.2 Thông tin sơ cấp Để tìm hiểu, thu thập số liệu sơ cấp về tình hình sản xuất nấm và việc thực hiện các biện pháp phát triển sản xuất nấm ở địa phương Tôi sử dụng phương pháp đánh giá có sự tham gia của người sản xuất (PRA) và tiến hành điều tra thông tin tình hình thực hiện biện pháp phát triển sản xuất nấm từ 90 hộ sản xuất nấm tại 3 xã điều tra, ngoài ra chúng tôi còn tìm hiểu thông tin từ: Lãnh đạo UBND huyện, cán bộ lãnh đạo, quản lý các ngành NN&PTNT, kinh tế và hạ tầng, Tài chính-Kế hoạch, Khuyến nông, Thống kê và đoàn thể
Bảng 3.5 Loại mẫu điều tra
TT Loại mẫu Phú Phúc Nhân Khang Chân Lý Tổng
3.2.3 Phương pháp xử lý thông tin
- Thông tin thứ cấp: Tổng hợp và chọn lọc thông tin có liên quan
- Thông tin sơ cấp: Xử lý các thông tin bằng các phần mềm như Microsoft Office (Excel, Word)…
3.2.4 Phương pháp phân tích thông tin
Sau khi tổng hợp các số liệu sơ cấp và thứ cấp dùng phương pháp thống kê phân tổ để tổng hợp và phân tích các chỉ tiêu
Phương pháp so sánh là một trong những kỹ thuật phân tích lâu đời và phổ biến, cho phép đối chiếu các chỉ tiêu kinh tế đã được lượng hóa với nội dung và tính chất tương tự Qua việc xác định xu hướng và mức độ biến động của các chỉ tiêu, phương pháp này giúp đánh giá các mặt phát triển và yếu kém, từ đó tìm ra các giải pháp quản lý tối ưu cho từng trường hợp.
Phương pháp này được áp dụng để so sánh tình hình đầu tư cơ sở hạ tầng, quy hoạch đất đai và quản lý dịch bệnh, nhằm đánh giá hiệu quả sản xuất nấm ăn trên toàn huyện trong giai đoạn từ năm 2013 đến 2015.
-Phương pháp thống kê mô tả
Sử dụng các số liệu như số tương đối, số tuyệt đối, tốc độ phát triển liên hoàn, tốc độ phát triển bình quân, số lớn nhất và số nhỏ nhất giúp phân tích ý nghĩa của các con số, từ đó phản ánh chính xác thực trạng của vấn đề theo không gian và thời gian.
Tốc độ phát triển liên hoàn là tỷ lệ so sánh giữa mức độ kỳ nghiên cứu với mức độ của kỳ trước đó trong dãy số Chỉ tiêu này giúp phản ánh sự phát triển của hiện tượng giữa hai thời điểm liên tiếp.
Trong đó ti: là lượng tăng lên định gốc kỳ i y i : là mức độ kỳ nghiên cứu y i-1 : là mức độ của kỳ ngay trước kỳ nghiên cứu
Tốc độ phát triển bình quân là chỉ số phản ánh nhịp độ phát triển trung bình của một hiện tượng qua các thời kỳ nghiên cứu, được tính bằng cách bình quân hóa các tốc độ phát triển liên hoàn Chỉ tiêu này giúp đánh giá sự phát triển trong một khoảng thời gian nhất định.
Công thức: t Trong đó: t: tốc độ phát triển bình quân y n : là mức độ kỳ cuối cùng y1: là mức độ kỳ đầu
Phương pháp này được áp dụng để phân tích tình hình quy hoạch đất đai, đầu tư vào lán trại, cũng như tình hình mua bán nấm ăn Nó giúp đánh giá chi phí, thu nhập và hiệu quả sản xuất nấm ăn của các nhóm hộ.
Phương pháp phân tích tổng hợp là một kỹ thuật phổ biến trong phân tích kinh tế, được áp dụng để nghiên cứu các đề tài cụ thể Phương pháp này cho phép phân tích từng nội dung thông qua bảng tổng hợp, từ đó nhận xét và đánh giá các hoạt động cũng như các chỉ tiêu liên quan Kết quả của quá trình này giúp đưa ra những kết luận phù hợp và chính xác.
3.2.5 Hệ thống các chỉ tiêu
* Thực trạng sản xuất nấm ăn
Huyện Lý Nhân đang phát triển mạnh mẽ ngành sản xuất nấm ăn, với nhiều xã tham gia vào hoạt động này Số lượng hộ sản xuất nấm ăn ngày càng tăng, góp phần nâng cao sản lượng nấm cung cấp ra thị trường Đặc biệt, các hộ sản xuất được phân chia theo quy mô diện tích và nguyên liệu, giúp tối ưu hóa quy trình sản xuất và đáp ứng nhu cầu tiêu thụ.
* Tình hình thực hiện các hoạt động sản xuất nấm ăn
(1) Đối với quy hoạch sản xuất nấm ăn: diện tích quy hoạch, vùng quy hoạch, tình hình sản xuất, hình thức sản xuất của các hộ
Đầu tư cơ sở hạ tầng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế, bao gồm số lượng công trình xây dựng, mô hình phát triển hạ tầng và tình hình xây dựng cơ sở hạ tầng của các hộ gia đình.
Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Thực trạng phát triển sản xuất nấm ăn trên địa bàn huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam
4.1.1 Quy hoạch sản xuất nấm ăn trên địa bàn huyện Lý Nhân
Qua 4 năm thực hiện quyết định số 724/QĐ-UBND ngày 29/5/2012 về việc phê duyệt Đề án Phát triển sản xuất nấm ăn tỉnh Hà Nam giai đoạn 2012 – 2015, tình hình sản xuất nấm ăn trên địa bàn huyện Lý Nhân đang phát triển mạnh, số hộ sản xuất nấm ăn tăng lên, diện tích đất sản xuất nấm ăn tăng lên Chính vì vậy, nhiều hộ đã mạnh dạn đầu tư thuê thêm đất để mở rộng quy mô sản xuất nấm ăn, nâng cao hiệu quả sản xuất Theo số liệu bảng 4.1 cho thấy, diện tích trồng nấm bình quân hộ nhóm I là 82,54m 2 trong đó diện tích đi thuê là 8,23m 2 chiếm 9,97%; diện tích trồng nấm bình quân của hộ nhóm II là 208,37 m 2 ; diện tích đi thuê là 26,11 m 2 chiếm 12,53%; diện tích trồng nấm trung bình của hộ nhóm III là 317,08 m2; diện tích đi thuê là 47,82 m 2 chiếm 15,08% Trong đó hộ nhóm I có 23,33% số hộ sản xuất nấm xa khu dân cư; 46,67% số hộ nhóm II sản xuất nấm xa khu dân cư; 63,33% số hộ nhóm III sản xuất nấm xa khu dân cư Số lứa nấm trung bình 1 năm của hộ nhóm I là 3,6 lần; số lứa nấm trung bình của hộ nhóm II là 3,9 lứa; số lứa nấm trung bình của hộ nhóm III là 4,2 lứa Hộ nhóm I có 36,67% số hộ sản xuất nấm trong lán trại; 13,33% số hộ sản xuất nấm ngoài trời; 50% số hộ sử dụng cả 2 hình thức sản xuất nấm trên Hộ nhóm II có 43,33% số hộ sản xuất nấm trong lán trại; 6,67% số hộ sản xuất nấm ngoài trời; 50% số hộ sử dụng cả 2 hình thức sản xuất nấm trên Hộ nhóm III có 26,67% số hộ sản xuất nấm trong lán trại, không có hộ nào sản xuất nấm ngoài trời; 73,33% số hộ sử dụng cả 2 hình thức sản xuất nấm trên
Bảng 4.1 Tình hình quy hoạch sản xuất nấm ăn ở các hộ điều tra
TT Chỉ tiêu Đơn vị Hộ nhóm I
2 Trồng xa khu dân cư % (hộ) 23,33 46,67 63,33
Nhu cầu thuê đất để phát triển sản xuất nấm ăn đang gia tăng, tuy nhiên, sự mở rộng này phụ thuộc vào tình hình tiêu thụ nấm Nếu thị trường tiêu thụ nấm ăn tốt, các hộ sản xuất sẽ có xu hướng mở rộng quy mô sản xuất để đáp ứng nhu cầu.
Hộp 4.1 Ý kiến của hộ điều tra về thuê đất sản xuất nấm ăn
Gia đình tôi sở hữu một ngôi nhà hơn 40m² không sử dụng, nên tôi quyết định tận dụng để trồng nấm Năm nay, tôi đã bắt đầu bán nấm và dựng thêm một lán ngoài vườn bằng tre và lá cọ Nếu việc bán nấm tiếp tục phát triển, tôi sẽ mở thêm lán ngay trong vườn mà không cần phải thuê mặt bằng.
(Nguồn: Phỏng vấn bà Hoàng Thị Lan, 14h30 ngày 20 tháng 11 năm 2015, xóm 2, Phú
Phúc, Lý Nhân, Hà Nam)
"Diện tích đất ở nhà tôi quá chật chội, khiến tôi không thể trồng nấm Vì vậy, tôi quyết định thuê một khu đất của người thân để dựng lán và trồng nấm Tuy nhiên, do đây không phải là đất của mình, tôi cũng không dám đầu tư quá nhiều."
(Nguồn: Phỏng vấn ông Lê Văn Sơn, 14h45 ngày 20 tháng 11 năm 2015, xóm 4, Phú
Phúc, Lý Nhân, Hà Nam)
4.1.2 Xây dựng cơ sở hạ tầng sản xuất nấm ăn trên địa bàn huyện Lý Nhân
Trong bối cảnh thực hiện mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, huyện Lý Nhân đã chú trọng nâng cấp cơ sở hạ tầng, đặc biệt là các công trình phục vụ phát triển sản xuất nấm Từ năm 2013 đến 2015, huyện đã nâng cấp 22 trạm biến áp để cải thiện chất lượng điện cho các địa phương Đồng thời, huyện cùng các xã Nhân Khang, Chân Lý và Phú Phúc đầu tư xây mới và nâng cấp các tuyến đường liên xã, giúp việc vận chuyển nấm trở nên thuận lợi hơn Cụ thể, tuyến đường qua xã Phú Phúc dài 3 km với kinh phí 5 tỷ đồng, tuyến qua xã Nhân Khang dài 2,5 km với 5 tỷ đồng, và tuyến qua xã Chân Lý với 4 tỷ đồng Tuy nhiên, huyện vẫn thiếu cơ sở thu mua nấm chế biến, chủ yếu phụ thuộc vào công ty Ngọc Động và một số thương lái nhỏ lẻ, gây khó khăn cho sự phát triển sản xuất nấm.
Bảng 4.2 Tình hình đầu tư cơ sở hạ tầng cho phát triển sản xuất nấm ăn của huyện Lý Nhân trong giai đoạn 2013 – 2015
TT Hạng mục đầu tư Số lượng Kinh phí
1 Điện nông thôn 23 biến áp 29
2 Đường giao thông xã Phú Phúc 3 km 5
3 Đường giao thông xã Nhân Khang 2,5 km 5
4 Đường giao thông thị trấn Vĩnh Trụ 3,5 km 7
5 Đường giao thông xã Chân Lý 2 km 4
6 Cơ sở thu mua chế biến nấm ăn 0 cơ sở -
Để phát triển sản xuất nấm, việc đầu tư vào cơ sở vật chất là rất cần thiết Điều này bao gồm xây dựng lán trại, giá treo meo nấm, bể xử lý rơm rạ, nhà chứa nguyên vật liệu, máy hấp meo mùn cưa, máy sấy khô nấm tươi, khu xử lý rác sau thu hoạch và hệ thống điện Lán trại sản xuất nấm cần được thiết kế hợp lý để nâng cao hiệu suất trồng nấm, bảo vệ nấm khỏi côn trùng và chuột Hiện nay, các hộ có thể tận dụng những căn nhà, phòng hoặc lều không sử dụng để làm lán trại, hoặc đầu tư xây dựng mới bằng tre, lá với chi phí thấp, tạo điều kiện tốt nhất cho nấm phát triển bình thường.
Hộp 4.2 Ý kiến của hộ về đầu tư cơ sở hạ tầng sản xuất nấm ăn
Chính quyền hỗ trợ gia đình tôi vay 200.000 đồng/m² để xây lán trại, nhưng chi phí xây dựng cao khiến chúng tôi phải bù thêm Ngoài ra, chúng tôi còn phải đầu tư vào bể xử lý rơm rạ, lán chứa nguyên liệu và nơi lưu trữ phế thải sau khi thu hoạch nấm.
(Nguồn: Phỏng vấn ông Trương Văn Quang, 15h ngày 25 tháng 11 năm 2015, xã Phú
Phúc, Lý Nhân, Hà Nam)
Nhà tôi sản xuất nấm ngay tại gia đình, tận dụng các cơ sở vật chất sẵn có như nhà ngang không sử dụng để trồng nấm, bể nước mưa cũ để xử lý nguyên liệu Tôi cũng trồng nấm dưới gốc cây lớn trong vườn và sử dụng những khoảng đất trống, nhằm giảm thiểu chi phí sản xuất.
Nguồn: Phỏng vấn bà Hoàng Thị Lý, 14h30 ngày 26 tháng 11 năm 2015, xã Nhân
Khang, Lý Nhân, Hà Nam
Bảng 4.3 cho thấy tình hình quy hoạch sản xuất nấm ăn ở các hộ điều tra năm 2015 Hộ nhóm II và III đều đầu tư xây dựng lán trại 100% do quy mô sản xuất lớn và bền vững, trong khi hộ nhóm I chỉ có 60% số hộ có lán trại do nhiều hộ sản xuất nhỏ lẻ, tận dụng đất trống trong vườn Các hộ thường sử dụng giá treo bằng tre luồng hoặc thân cây nhỏ với 3 tầng để tăng số lượng meo nấm so với trồng trực tiếp trên mặt đất Để sản xuất nấm từ rơm rạ, cần có bể xử lý rơm rạ, mặc dù không cần lớn nhưng bắt buộc phải có để chứa nước và xử lý rơm Nhiều hộ nhóm I không có bể xử lý và nhà chứa nguyên liệu do quy mô nhỏ, trong khi 100% hộ nhóm II và III đều có Đối với hộ sử dụng mùn cưa, đặc biệt là meo nấm mộc nhĩ, cần thiết phải có máy hấp để xử lý meo nấm.
Tại Lý Nhân, số hộ đầu tư xây dựng máy hấp và máy sấy nấm còn hạn chế do nguồn cung mùn cưa làm nấm chưa đủ Chỉ có 10% hộ nhóm I, 30% hộ nhóm II và 40% hộ nhóm III có máy sấy meo nấm Sau khi thu hoạch, nấm thường được bán cho công ty mây tre đan Ngọc Động hoặc thương lái, trong khi các hộ chưa đầu tư vào chế biến nấm ăn để nâng cao giá trị sản phẩm Điều tra cho thấy chỉ 10% hộ nhóm II và 30% hộ nhóm III sở hữu máy sấy nấm ăn Sản xuất nấm tạo ra nhiều rác thải như rơm rạ và mùn cưa, nhưng lượng rác này có thể chuyển hóa thành phân hữu cơ tốt cho trồng trọt Các hộ sản xuất nấm cần có khu xử lý chất thải sau thu hoạch, với 20% hộ nhóm I, 40% hộ nhóm II và 50% hộ nhóm III đã thiết lập khu vực này Các hộ còn lại có thể cho hoặc bán chất thải cho nông dân khác Để sản xuất nấm ăn, hệ thống điện là rất cần thiết, và 100% hộ đã đầu tư vào hệ thống điện để thắp sáng.
Bảng 4.3 Tỷ lệ hộ điều tra theo cơ sở hạ tầng đầu tư cho sản xuất nấm ăn ĐVT: %
TT Chỉ tiêu (*) Nhóm hộ I
3 Bể xử lý rơm rạ, nhà chứa 70,00 100,00 100,00
6 Khu xử lý rác sau thu hoạch 20,00 40,00 50,00
Nguồn: Số liệu điều tra (2015) (*Ghi chú:Câu hỏi có nhiều phương án trả lời )
4.1.3 Ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất nấm ăn trên địa bàn huyện Lý Nhân
Hoạt động sản xuất nấm ăn tại huyện Lý Nhân đang phát triển mạnh mẽ, với mục tiêu trở thành nguồn thu nhập chính cho nông dân Việc áp dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất nấm đã nâng cao chất lượng sản phẩm Hàng năm, UBND huyện chú trọng công tác tập huấn chuyển giao công nghệ, hỗ trợ kinh phí và tổ chức hàng trăm lớp tập huấn cho nông dân nhằm cải thiện kỹ thuật sản xuất nấm ăn.
Từ năm 2013 đến 2015, huyện Lý Nhân đã tổ chức nhiều lớp chuyển giao khoa học kỹ thuật, với 25 lớp vào năm 2013, 32 lớp vào năm 2014 và 33 lớp vào năm 2015 Công ty mây tre đan Ngọc Động và trạm khuyến nông huyện Lý Nhân đóng vai trò chủ yếu trong việc tổ chức các lớp này Cụ thể, Ngọc Động tổ chức 08 lớp năm 2013 (32% tổng số lớp) và 14 lớp năm 2015 (42,42% tổng số lớp), tăng 06 lớp so với năm 2013 Ngân sách huyện chỉ tổ chức 04 lớp năm 2013 (16% tổng số lớp) và giảm xuống còn 03 lớp năm 2014 Trong khi đó, trạm khuyến nông tổ chức 11 lớp năm 2013 (44% tổng số lớp) và tăng lên 15 lớp năm 2015 (45,45% tổng số lớp).
2013 có 02 lớp (chiếm 6,67% số lớp), năm 2015 tổ chức 01 lớp giảm 01 lớp so với năm 2013
Trong giai đoạn 2013 – 2015, chương trình tập huấn cho các hộ trồng nấm ăn tại tỉnh Hà Nam đã chú trọng vào việc chuẩn bị nguyên liệu và chăm sóc nấm, do đây là giai đoạn khởi đầu của chương trình phát triển sản xuất nấm Kinh nghiệm kỹ thuật được xem là yếu tố quan trọng trong quá trình này Ngoài ra, các lớp tập huấn về Vietgap và quản lý chất lượng cũng được tổ chức để nâng cao chất lượng sản xuất và sản phẩm nấm ăn.
Trong năm 2013, huyện Lý Nhân đã tổ chức 10 lớp tập huấn về chăm sóc nấm ăn, chiếm 33,33% tổng số lớp, và con số này duy trì ở mức tương tự vào năm 2015 với 10 lớp Đối với chủ đề thu hái và chế biến, năm 2013 có 03 lớp được tổ chức, trong khi năm 2015 tăng lên 06 lớp Về quản lý chất lượng, thông tin chi tiết chưa được cung cấp.
Từ năm 2014 đến 2015, huyện Lý Nhân đã tổ chức nhiều lớp tập huấn về sản xuất nấm, với 02 lớp vào năm 2014 và 03 lớp vào năm 2015, đặc biệt chú trọng đến chủ đề Vietgap Trước đó, năm 2013, huyện chưa triển khai tập huấn nào về vấn đề này Sự gia tăng số lượng lớp tập huấn đã giúp nâng cao chất lượng sản xuất nấm, cải thiện kỹ năng quản lý và chế biến cho các hộ dân Nhờ đó, giá trị kinh tế từ sản phẩm nấm cũng được nâng cao, thu hút ngày càng nhiều người tham gia vào các lớp tập huấn nhằm phát triển sản xuất nấm bền vững.
2013 có 1802 lượt người tham gia tập huấn, năm 2014 có 3298 lượt người tham gia tập huấn, năm 2015 có 4503 lượt người tham gia tập huấn
Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển sản xuất nấm ăn trên địa bàn huyện Lý Nhân
ĂN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN LÝ NHÂN
4.2.1 Nguồn lực của địa phương
Số lao động của huyện Lý Nhân đang tăng lên, tuy nhiên chất lượng lao động có sự chuyển dịch chậm, với phần lớn lao động chưa qua đào tạo Tỷ lệ lao động trong ngành nông nghiệp giảm dần, trong khi lao động phi nông nghiệp tăng lên Những người tham gia sản xuất nông nghiệp chủ yếu là người lớn tuổi (từ 39 - 44 tuổi), có kinh nghiệm nhưng lại e ngại rủi ro, điều này ảnh hưởng đến đầu tư mở rộng sản xuất nấm ăn và tiếp thu khoa học kỹ thuật.
Lao động đóng vai trò quan trọng trong quy mô sản xuất nấm Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy có sự khác biệt rõ rệt giữa số lao động bình quân mỗi hộ và số lao động tham gia sản xuất nấm ăn ở các nhóm hộ khác nhau.
Số lao động sản xuất nấm ăn bình quân tăng theo quy mô, với nhóm I có 2,3 lao động, nhóm II có 2,4 lao động và nhóm III có 2,6 lao động Điều này cho thấy rằng quy mô lao động lớn giúp mở rộng sản xuất nấm ăn dễ dàng hơn Tuy nhiên, thu nhập bình quân trên lao động giữa các nhóm hộ lại khác nhau, trong đó nhóm I đạt hiệu quả cao về sử dụng lao động.
Bảng 4.25 Tình hình lao động của các hộ được điều tra
TT Lao động Đơn vị Hộ nhóm
1 Tổng số nhân khẩu người 142 147 145
2 Số lao động sản xuất nấm người 69 72 78
3 Số lao động sản xuất nấm bình quân / hộ người 2,3 2,4 2,6
Nguồn: Số liệu điều tra (2015)
4.2.1.2 Ngân sách hỗ trợ Để thực hiện chính sách đòi hỏi nhà nước cần có nguồn ngân sách để thực thi Thực hiện quyết định 74 về phát triển sản xuất nấm ăn trên địa bàn tỉnh
Tỉnh Hà Nam đã đầu tư 3,8 tỷ đồng từ ngân sách để phát triển sản xuất nấm ăn, với 1,8 tỷ đồng trong năm 2013, 1,6 tỷ đồng trong năm 2014 và 0,4 tỷ đồng trong năm 2015 Các hộ dân có nhu cầu phát triển nấm ăn có thể dễ dàng vay vốn từ nguồn ngân sách này Ngoài ra, huyện Lý Nhân còn có nguồn hỗ trợ từ ngân hàng chính sách, giúp mở rộng quy mô sản xuất nấm mặc dù số vốn vay có giới hạn Người dân cũng có thể linh hoạt sử dụng các nguồn vốn từ chương trình nông thôn mới và quỹ tín dụng để hỗ trợ cho việc sản xuất nấm.
Bảng 4.26 Các nguồn vốn hỗ trợ cho phát triển sản xuất nấm ăn ĐVT: tỷ đồng
1 Nguồn vốn từ QĐ 74 của tỉnh Hà Nam 1,8 1,6 0,4 88,89 25,00 47,14
Nguồn: Thống kê huyện Lý Nhân (2013 - 2015)
4.2.1.3 Đất đai Đất đai là tư liệu sản xuất không thể thiếu trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, nó có vị trí đặc biệt trong sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất nấm nói riêng Nghiên cứu quỹ đất của hộ giúp chúng ta đưa ra được giải pháp về quy mô sản xuất và quy hoạch sản xuất tập trung Qua tìm hiểu tình hình sử dụng đất đai sản xuất nấm ăn, các nhóm hộ đều đi thuê thêm đất để mở rộng sản xuất nấm ăn Như vậy quỹ đất của các hộ đang dần thiếu so với nhu cầu về đất để mở rộng sản xuất nấm ăn
4.2.1.4 Điều kiện của chủ hộ
Theo bảng 4.27, thông tin về các chủ hộ được điều tra cho thấy sự khác biệt rõ rệt theo quy mô sản xuất Đặc biệt, tuổi trung bình của các chủ hộ trong từng nhóm cũng có sự phân hóa.
Nhóm I có độ tuổi trung bình cao nhất (43,7 tuổi), trong khi nhóm II có độ tuổi trung bình thấp nhất (39,8 tuổi), và nhóm III có độ tuổi trung bình là 40,5 tuổi Độ tuổi của chủ hộ ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sản xuất nấm ăn, bao gồm khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật, mức độ năng động, đầu tư và chấp nhận rủi ro Chủ hộ nhóm I, ở độ tuổi 43,7, thường chọn quy mô sản xuất nhỏ phù hợp với sức khỏe và tâm lý Ngược lại, chủ hộ nhóm II, mặc dù trẻ nhất, nhưng do kinh nghiệm sản xuất hạn chế, chọn quy mô trung bình để tích lũy kinh nghiệm và kinh tế Trong khi đó, chủ hộ nhóm III, với độ tuổi 40,5, đã ổn định về kinh tế, nên việc mở rộng quy mô sản xuất là hợp lý.
Trình độ học vấn và chuyên môn của các chủ hộ ảnh hưởng đáng kể đến hiệu quả kinh tế trong sản xuất nấm Hầu hết các chủ hộ có trình độ trung học cơ sở, với tỷ lệ 66,66% ở nhóm I, 70% ở nhóm II và 66,67% ở nhóm III Chỉ có 6,67% số người ở nhóm I có trình độ tiểu học Về chuyên môn, đa số chủ hộ đã tham gia các lớp sơ cấp sản xuất nấm, với tỷ lệ 90% ở nhóm I, 93,33% ở nhóm II và 93,33% ở nhóm III Tỷ lệ chủ hộ có trình độ trung cấp trở lên rất thấp, nhưng có sự gia tăng về tỷ lệ chủ hộ có trình độ học vấn THPT và chuyên môn trung cấp theo quy mô tăng trưởng Điều này góp phần nâng cao nhận thức về xã hội, thị trường đầu vào và đầu ra cho nấm ăn, từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh tế trong sản xuất nấm.
Lao động trong nông nghiệp theo phương thức tiểu nông thường mang tính chất giản đơn, nhưng để phát triển kinh tế nông nghiệp trong bối cảnh hội nhập quốc tế, cần chuyển sang sản xuất hàng hóa quy mô lớn với sản phẩm cạnh tranh Do đó, lao động trong các hộ sản xuất nấm cần trang bị kiến thức để áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất Những hoạt động nông nghiệp nhất định yêu cầu lao động trực tiếp mà máy móc không thể thay thế, và việc thiếu lao động hoặc lao động thiếu kinh nghiệm sẽ hạn chế sự phát triển của trang trại.
Trình độ chuyên môn và quản lý của các chủ hộ đóng vai trò quan trọng trong quyết định sản xuất và hiệu quả sản xuất Những chủ hộ có học vấn cao và kỹ năng quản lý tốt thường dễ dàng áp dụng công nghệ tiên tiến và đầu tư vào khoa học kỹ thuật, từ đó quản lý và sử dụng nguồn lực một cách hợp lý và hiệu quả hơn so với những chủ hộ có trình độ thấp hơn.
Điều tra cho thấy, chủ hộ ở huyện Lý Nhân chủ yếu chỉ học hết phổ thông và có tỷ lệ trình độ chuyên môn thấp, ảnh hưởng lớn đến việc áp dụng quy trình sản xuất và quản lý Thiếu đào tạo về quản lý, đàm phán, thông tin thị trường, tin học và hạch toán kinh tế đã làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh Lao động chủ yếu là lao động phổ thông, thiếu trình độ, dẫn đến khó khăn trong việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và quy trình sản xuất mới, từ đó giảm hiệu quả làm việc Sự thiếu hụt này đã hạn chế sự phát triển kinh tế bền vững của hộ gia đình trong khu vực.
Bảng 4.27 Một số thông tin chung về chủ hộ được điều tra
TT Thông tin Đơn vị Hộ nhóm
I Hộ nhóm II Hộ nhóm III
1 Tổng số chủ hộ người 30 30 30
Nguồn: Số liệu điều tra (2015)
4.2.1.5 Trình độ của lãnh đạo địa phương
Chính sách phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa đã được Đảng và Nhà nước ta triển khai trong thời gian ngắn, mang lại nhiều bài học kinh nghiệm quý giá Những chính sách liên quan được đưa ra phù hợp với thực tiễn, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển của tỉnh Hà Nam và huyện Lý.
Huyện Lý Nhân đang tích cực thực hiện các biện pháp phát triển sản xuất nông sản hàng hóa, đặc biệt là nấm ăn Việc xây dựng và thực hiện chính sách phát triển sản xuất nấm ăn tại địa phương đã có những cải tiến, phù hợp hơn với nhu cầu thực tiễn Tuy nhiên, vẫn tồn tại một số hạn chế trong công tác lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và quản lý của chính quyền, đặc biệt trong việc giải quyết việc làm và tổ chức thực thi chính sách.
Trình độ chuyên môn của cán bộ lãnh đạo các tổ chức quyết định giải pháp phát triển sản xuất nấm ăn tại huyện Lý Nhân đều đạt từ đại học trở lên, với chủ tịch huyện và bí thư Đảng ủy đều có trình độ thạc sĩ, ảnh hưởng tích cực đến quyết định kinh tế và chính sách địa phương Các lãnh đạo hội Nông dân và trạm khuyến nông cũng có trình độ đại học, góp phần vào việc tuyên truyền và thực hiện các giải pháp phát triển nấm Tuy nhiên, khâu tổ chức thực hiện chương trình còn nhiều hạn chế, với đội ngũ cán bộ năng lực hạn chế và cơ chế phối hợp chưa đồng bộ, dẫn đến hiệu quả thấp Mặc dù tiềm năng phát triển sản xuất nấm ăn của địa phương rất lớn, nhưng việc khai thác vẫn chưa triệt để và thiếu phương pháp khích lệ tinh thần làm việc của lao động.
4.2.2 Thị trường tiêu thụ nấm ăn
Giải pháp phát triển sản xuất nấm ăn trên địa bàn huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam
Tình hình sản xuất nấm ăn tại huyện Lý Nhân cho thấy còn nhiều hạn chế trong việc phát triển và tiêu thụ Quá trình sản xuất chưa khai thác hết tiềm năng, trong khi việc tiêu thụ nấm gặp khó khăn do vấn đề thương hiệu và sự can thiệp của các trung gian.
Để phát triển sản xuất nấm ăn tại huyện Lý Nhân, cần tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động và sử dụng các yếu tố đầu vào, đồng thời tăng cường liên kết trong quá trình sản xuất và tiêu thụ Bên cạnh đó, xây dựng chính sách tiêu thụ hợp lý nhằm bảo vệ quyền lợi cho người sản xuất nấm ăn là điều cần thiết.
Phát triển sản xuất nấm ăn tại huyện Lý Nhân là một phần quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm cho lao động nông thôn và xây dựng nông thôn mới Để khai thác tiềm năng sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa, cần thiết phải đưa ra những giải pháp thực tiễn phù hợp với điều kiện địa phương Một số định hướng cần xem xét để thúc đẩy phát triển sản xuất nấm ăn tại huyện Lý Nhân bao gồm việc tăng cường đào tạo kỹ thuật, hỗ trợ vốn và xây dựng mô hình hợp tác xã.
Tập trung phát triển sản xuất nấm ăn theo hướng nông nghiệp sinh thái, nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh Kết hợp mô hình trang trại với dịch vụ để hình thành các vùng sản xuất ổn định và chuyên canh Chuyên môn hóa sản xuất nấm gắn với chế biến nhằm tăng giá trị sản phẩm và phát triển các loại nấm sạch, cao cấp để nâng cao thu nhập cho nông dân Đa dạng hóa hình thức tổ chức sản xuất và tăng cường liên kết giữa các thành phần kinh tế để sử dụng hiệu quả nguồn lực và nâng cao năng lực cạnh tranh Ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nấm chất lượng cao phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu Hình thành các vùng sản xuất nấm xa khu dân cư, thực hiện các giải pháp phòng chống dịch bệnh, bảo vệ môi trường và kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm Định hướng phát triển sản xuất nấm ăn theo chiều sâu trước, kết hợp chiều rộng để xây dựng thương hiệu nấm ăn của huyện Lý Nhân.
4.3.3 Một số giải pháp đẩy mạnh phát triển nấm ăn trên địa bàn huyện Lý Nhân trong thời gian tới
4.3.3.1 Đẩy mạnh thực hiện các chủ trương chính sách liên quan đến quy hoạch và phát triển sản xuất nấm ăn
Lý Nhân, huyện thuần nông thuộc tỉnh Hà Nam, nổi bật với diện tích lúa nước rộng lớn, cung cấp nguồn nguyên liệu chính cho ngành sản xuất nấm ăn.
Huyện Lý Nhân, tiếp giáp với Thái Bình, Hưng Yên và các huyện của Hà Nam, có lợi thế giao thông thuận tiện cho việc giao lưu kinh tế với nhiều tỉnh thành phát triển Để phát triển sản xuất nấm ăn quy mô lớn, Lý Nhân cần đổi mới và nâng cao chất lượng quy hoạch vùng sản xuất nấm hợp lý Một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện công tác quy hoạch sản xuất nấm ăn cho huyện Lý Nhân bao gồm việc cải thiện cơ sở hạ tầng, tăng cường đào tạo kỹ thuật cho nông dân và áp dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất.
Các xã cần quy hoạch các khu vực sản xuất nấm ăn để phát triển sản xuất một cách toàn diện Đồng thời, nên đa dạng hóa mô hình sản xuất theo hướng kinh tế gia trại và trang trại, kết hợp với thâm canh Điều này sẽ đảm bảo sản xuất an toàn, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
Để nâng cao giá trị nấm ăn, cần phát triển mạnh mẽ sản xuất nấm tại các hộ gia đình có kinh nghiệm và đủ điều kiện, đồng thời tăng cường trồng xen canh và trái vụ Việc quy hoạch và đẩy mạnh nhân giống nấm ăn tại địa phương là rất cần thiết để đáp ứng nhu cầu sản xuất Hiện nay, chất lượng nấm giống cung cấp từ các cơ sở ngoài huyện không đồng đều, vì vậy Lý Nhân cần có quy hoạch và cơ chế hỗ trợ để phát triển quy mô sản xuất, đảm bảo cung cấp đủ nấm giống cho các hộ sản xuất trong huyện.
Lý Nhân cần quy hoạch lại các vùng sản xuất nông nghiệp để nâng cao hiệu quả, đồng thời chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ và vật nuôi tại những khu vực kém hiệu quả Đặc biệt, cần định hướng trồng các loại cây làm nguyên liệu bổ sung cho sản xuất nấm ăn nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm Bên cạnh đó, việc rà soát quy hoạch hệ thống chợ và các khu điểm giao dịch buôn bán là cần thiết để thuận tiện cho việc tiêu thụ nấm ăn ngay trên địa bàn.
Để phát triển ngành sản xuất nấm tại Lý Nhân, cần tăng cường chỉ đạo và hướng dẫn các hộ sản xuất quy hoạch lại hệ thống lán trại, diện tích đất, cũng như đầu tư vào máy móc và thiết bị phù hợp Việc tuân thủ quy trình sản xuất an toàn sinh học và tiêu thụ sản phẩm là rất quan trọng Hiện tại, Lý Nhân chưa có cơ sở thu mua và chế biến nấm ăn, do đó cần quy hoạch và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư vào địa phương nhằm phát triển sản xuất nấm giống và tiêu thụ nấm ăn trong huyện.
4.3.3.2 Tăng cường thu hút đầu tư xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng đáp ứng yêu cầu và thúc đẩy sản xuất nấm ăn
Để thúc đẩy phát triển sản xuất nấm ăn, cần đầu tư vào cơ sở hạ tầng thiết yếu như giao thông, thủy lợi, điện và hệ thống thông tin liên lạc Các hộ sản xuất nấm cần xây dựng lán trại, trang bị máy chế biến và đảm bảo nguồn nước sạch Đầu tư cơ sở hạ tầng tốt sẽ quyết định hiệu quả kinh tế trong sản xuất nấm Huyện Lý Nhân đã lồng ghép nhiều chương trình và nguồn lực để nâng cấp cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế xã hội và sản xuất nấm Huyện cũng có cơ chế hỗ trợ phát triển sản xuất nấm theo chính sách của tỉnh Hà Nam, giúp các hộ sản xuất phấn khởi đầu tư vào lán trại và máy móc Mặc dù nhu cầu vay vốn cao, mức hỗ trợ đầu tư từ tỉnh và huyện vẫn còn hạn chế, chủ yếu mang tính khuyến khích Để hoàn thiện giải pháp phát triển sản xuất nấm ăn, cần có các biện pháp xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ và hiệu quả.
Lý Nhân, huyện nông nghiệp của tỉnh Hà Nam, cần cải thiện giao thông và thông tin liên lạc để thúc đẩy buôn bán Chính quyền cần đầu tư vào hạ tầng giao thông và thông tin, đặc biệt trong sản xuất nấm giống và thu mua chế biến nấm với chất lượng và giá cả hợp lý Để nâng cao hiệu quả phát triển nấm ăn, các hộ sản xuất cần đầu tư vào trang thiết bị, nâng cấp cơ sở vật chất như lán trại và hệ thống thông gió, đồng thời đầu tư máy phối trộn nguyên liệu từ phụ phẩm nông nghiệp để đa dạng dinh dưỡng và giảm chi phí Đối với các hộ sản xuất lớn, việc xây dựng hệ thống xử lý chất thải và đầu tư vào máy hấp, máy chế biến nấm ăn là cần thiết để tránh ô nhiễm môi trường.
4.3.3.3 Đẩy mạnh tập huấn và chuyển giao khoa học kĩ thuật về sản xuất, chế biến và quản lý chất lượng nấm ăn
Sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất nấm, cần áp dụng khoa học kỹ thuật để nâng cao năng suất, giảm chi phí và lao động, từ đó tăng hiệu quả kinh tế Để đạt được điều này, việc triển khai công nghệ một cách hiệu quả là rất quan trọng.
UBND huyện Lý Nhân cần hợp tác với sở Khoa học công nghệ và trung tâm khuyến nông tỉnh Hà Nam để nâng cao kỹ thuật sản xuất nấm ăn Việc tăng cường hoạt động tập huấn, xây dựng mô hình và đầu tư cho các hộ đi tham quan sẽ giúp cải thiện trình độ kỹ thuật Huyện cũng nên đa dạng hóa các tổ chức chuyển giao kỹ thuật như khuyến nông, khuyến công và các cơ sở dạy nghề Liên kết với các chuyên gia từ Viện nghiên cứu rau quả Trung ương và Học viện nông nghiệp Việt Nam sẽ tạo điều kiện cho việc tư vấn và tập huấn cho người sản xuất nấm Huyện Lý Nhân cũng cần khuyến khích các tổ Liên gia và hiệp hội sản xuất nấm ăn chia sẻ kinh nghiệm và kỹ thuật, đồng thời khuyến khích lao động tham gia thường xuyên các lớp tập huấn.
Để đảm bảo chất lượng sản phẩm nấm, việc sử dụng mầm giống tin cậy là rất quan trọng Điều tra cho thấy, nhiều hộ sản xuất hiện đang sử dụng con giống không đồng nhất, dẫn đến sự không đồng đều trong chất lượng sản phẩm Do đó, huyện Lý Nhân đã xác định hướng đi trong tương lai là xây dựng cơ sở cung ứng và tạo ra nấm giống trên địa bàn, nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm.