Kết quả nghiên cứu và thảo luân
Hiện trạng sử dụng đất theo các mục đích sử dụng của huyện Tân Yên - năm 2003
4.2.1 Hiện trạng sử dụng đất chung
Hiện nay theo mục đích sử dụng đất của các ngành thì diện tích đất đ−ợc sử dụng của các ngành trong năm 2003 của huyện nh− bảng 9:
Theo số liệu từ bảng 9, hiện trạng sử dụng đất đai của huyện năm 2003 cho thấy đất nông nghiệp chiếm 65% tổng diện tích tự nhiên, phản ánh rằng huyện chủ yếu tập trung vào sản xuất nông nghiệp Tuy nhiên, vẫn còn 4,1% diện tích đất chưa được sử dụng hợp lý Để phát triển kinh tế bền vững trong những năm tới, cần tìm cách khai thác hiệu quả diện tích đất chưa sử dụng này cho các mục đích phát triển.
Bảng 9: Hiện trạng sử dụng đất năm 2003 của huyện Tân Yên
Loại đất Diện tích (ha) Tỷ lệ (%)
Tổng diện tích đất tự nhiên 20.373 100,0
1 Đất trồng cây hàng năm 9.596
2 Đất trồng cây lâu năm 2.719
3 Đất có mặt n−ớc nuôi trồng thuỷ sản 936
1 Đất có rừng tự nhiên 87
4 Đất di tích lịch sử văn hoá 18
5 Đất an ninh quốc phòng 45
6 Đất khai thác khoáng sản 20
7 Đất nghĩa trang, nghĩa địa 115
1 Đất bằng ch−a sử dụng 95
2 Đất đồi núi ch−a sử dụng 181
3 Đất mặt n−ớc ch−a sử dụng 75
5 Núi đá không có rừng cây 52
(Nguồn Phòng Địa chính - Nông nghiệp huyện Tân Yên - năm 2003)
4.2.2 Hệ thống sử dụng đất ngành nông - lâm nghiệp
Huyện miền núi Bắc Giang, mặc dù không sở hữu những ngọn núi cao hay đá, nhưng có địa hình phức tạp, được chia thành ba vùng rõ rệt.
Vùng đất có địa hình cao
Vùng đất có địa hình trung bình
Vùng đất có địa hình thấp
Do sự khác biệt về địa hình và loại đất, việc sử dụng đất trong nông - lâm nghiệp cũng có sự đa dạng Điều này thể hiện qua hệ thống cây trồng và phương pháp luân canh được áp dụng, nhằm phù hợp với điều kiện cụ thể của từng khu vực Thông tin chi tiết về các loại đất và cách sử dụng chúng được trình bày trong bảng 10.
Bảng 10 cho thấy rằng huyện miền núi, mặc dù diện tích đất đồi núi không lớn, nhưng diện tích đất có độ dốc tương đối chiếm tới 50% tổng diện tích đất của địa phương.
Ngoài ra ở những diện tích đất có độ dốc thấp hơn lại có địa hình tương đối phức tạp, bao gồm một số loại đất nh−:
- Đất cao có diện tích: 1950,09ha
- Đất vàn cao có diện tích: 2.986,58ha
- Đất vàn có diện tích: 3.434,76ha
- Đất thấp có diên tích: 1865,07ha
- Đất trũng có diện tích: 871,25ha
Bảng 10: Hiện trạng sử dụng đất nông - lâm nghiệp của huyện Tân Yên
TT Phân loại sử dụng đất Diện tích
A Tổng diện tích đất tự nhiên 20.373
B Tổng diện tích đất nông - lâm nghiệp 16.909 100,00
1 Cây công nghiệp lâu năm 232
2 Cây ăn quả lâu năm 2.487
III Mặt n−ớc nuôi trồng thuỷ sản 936 6,15
(Nguồn Phòng Địa chính - Nông nghiệp huyện Tân Yên - năm 2003)
Với tổng diện tích đất nông - lâm nghiệp là 17.903 ha, diện tích đất sử dụng cho mục đích nông nghiệp đạt 15.251 ha, chiếm 85,20% Trong khi đó, diện tích đất dành cho sản xuất cây lâm nghiệp là 2.658 ha, chiếm 15% tổng diện tích đất nông - lâm nghiệp.
Trong đất nông nghiệp thì chủ yếu là sản xuất cây hàng năm (76%), đất sản xuất cây lâu năm (18%); mặt n−ớc nuôi trồng thuỷ sản (6%).
Tình hình phát triển sản xuất nông nghiệp ở huyện Tân Yên
Ngành nông nghiệp đã có sự tăng trưởng đáng kể trong những năm qua, với tổng sản lượng quy thóc ngày càng tăng, đáp ứng đủ nhu cầu lương thực của người dân Giá trị sản xuất nông nghiệp hàng năm đạt khoảng 195 đến 210 tỷ đồng, trong đó ngành trồng trọt chiếm 70% và chăn nuôi 30% Điều này cho thấy sản xuất trồng trọt vẫn là nguồn thu nhập chính của nông nghiệp huyện.
Bảng 11: Giá trị tổng sản l−ợng ngành nông nghiệp Đơn vị tính: triệu đồng
Chỉ tiêu Giá trị năm
Tổng giá trị sản phẩm 195.818 100,0 210.845 100,0
- Sản phẩm không qua giết thịt 1.043 0,5 1.427 0,7
(Nguồn Phòng Thống kê huyện Tân Yên - năm 2003)
Tân Yên là một huyện nông nghiệp thuần túy, gặp khó khăn trong việc thu hút đầu tư do thiếu lợi thế về thị trường, điều này cản trở sự phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp và dịch vụ Sản xuất nông nghiệp tại đây đối mặt với tình trạng ruộng đất manh mún và bình quân đất canh tác trên đầu người thấp Thêm vào đó, thị trường chưa ổn định và thiếu đa dạng trong các loại hình sản xuất, dẫn đến hiệu quả kinh tế trong nông nghiệp chưa cao.
Sản xuất nông nghiệp hiện nay vẫn phụ thuộc vào thời tiết và thị trường, chủ yếu mang tính tự cung, tự cấp Để phát triển nền nông nghiệp huyện một cách ổn định và bền vững, cần thiết phải thay đổi cơ cấu cây trồng và vật nuôi, đồng thời từng bước hiện đại hóa nông nghiệp theo hướng nâng cao hiệu quả kinh tế và ứng dụng công nghệ chế biến nông sản thực phẩm.
4.3.1 Tình hình phát triển chăn nuôi
Để phát triển kinh tế địa phương, bên cạnh ngành trồng trọt, việc đẩy mạnh chăn nuôi cũng rất quan trọng Trong những năm qua, số lượng gia súc và gia cầm tại huyện đã tăng trưởng mạnh mẽ, thể hiện sự phát triển tích cực của ngành chăn nuôi qua các số liệu trong bảng 12.
Chăn nuôi tại địa phương chủ yếu gắn liền với hoạt động trồng trọt và chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như sức kéo, nhu cầu phân bón cho sản xuất nông nghiệp và nhu cầu thực phẩm của người dân.
Sức cày kéo chủ yếu đến từ các loại đại gia súc như trâu, bò, ngựa được chăn nuôi trong các nông hộ, phục vụ cho việc cày kéo và làm đất Trong bối cảnh sản xuất nhỏ và tự cung tự cấp hiện nay, các công việc này chủ yếu phụ thuộc vào trâu, bò, trong khi máy móc vẫn rất hiếm Các gia đình không nuôi trâu, bò theo đàn mà chỉ duy trì với số lượng ít Tổng đàn gia súc trâu, bò, ngựa của huyện hiện có 20.750 con, đủ đáp ứng nhu cầu cày kéo và làm đất, nhưng vẫn thiếu sức kéo vào thời vụ.
Yếu tố thứ hai ảnh hưởng đến sản xuất ngành chăn nuôi là cung ứng phân bón cho sản xuất trồng trọt Hiện nay, các hộ dân đã nhận thức được tầm quan trọng của việc bón phân hữu cơ cho cây trồng, vì nó không chỉ cải tạo đất mà còn nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm Do đó, tất cả các hộ trong huyện đều tham gia chăn nuôi lợn, mặc dù chăn nuôi theo hình thức công nghiệp vẫn chưa phát triển mạnh mẽ.
Chăn nuôi thực phẩm là nhu cầu thiết yếu của người dân, tuy nhiên, hiện nay, đàn lợn chủ yếu là giống lợn lai với năng suất cao nhưng chất lượng thịt còn thấp Chăn nuôi gia cầm đang phát triển nhưng vẫn mang tính tự sản tự tiêu, dẫn đến năng suất và chất lượng chưa đạt yêu cầu Do đó, trong những năm tới, cần thay đổi cơ cấu và phương thức sản xuất của ngành chăn nuôi để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội.
Hiện nay, huyện đang khai thác một số diện tích ao hồ cho nuôi trồng thủy sản, nhưng năng suất nuôi cá vẫn chưa đạt yêu cầu Trong những năm tới, cần tập trung khai thác triệt để các ao hồ bỏ hoang, cải tạo và giao khoán cho các hộ gia đình hoặc cá nhân để nâng cao hiệu quả sản xuất.
Bảng 12: Tình hình sản xuất ngành chăn nuôi của huyện năm 2004
- Diện tích mặt n−ớc nuôi cá ha 472 581 123,0
- Sản l−ợng cá các loại tấn 944 1.162 123,0
(Nguồn Phòng Thống kê huyện Tân Yên - năm 2003)
Huyện miền núi có diện tích đất lâm nghiệp chiếm tỷ lệ cao trong tổng diện tích tự nhiên, với tổng diện tích lâm nghiệp đạt 2.658 ha, tương đương 13,04% Trong đó, diện tích rừng trồng chiếm ưu thế với 2.571 ha, tương đương 96,72% tổng diện tích đất lâm nghiệp của huyện.
Huyện có diện tích rừng trồng chủ yếu tập trung tại các xã như Liên Chung, Ngọc Vân, Việt Lập, Ngọc Châu, Lam Cốt, Liên Sơn và Tân Chung Ngoài ra, còn một diện tích nhỏ rừng đặc dụng, với 23,4 ha nằm ở xã Cao Thượng và 4,45 ha ở thị trấn Cao Thượng.
Hiện nay, phần lớn diện tích đất lâm nghiệp đã được giao cho người sử dụng, nhưng do điều kiện kinh tế hạn chế và việc áp dụng khoa học kỹ thuật còn yếu kém, đất đai đang bị rửa trôi và xói mòn, dẫn đến tình trạng đá ong hóa và giảm độ dinh dưỡng Điều này gây khó khăn cho sản xuất Hầu hết diện tích đất lâm nghiệp chỉ được trồng các cây như bạch đàn, do đó hiệu quả kinh tế thấp, với lâm sản chủ yếu là những sản phẩm có giá trị thấp như gỗ nhỏ và củi.
Sản phẩm của ngành lâm nghiệp hiện nay chủ yếu là các loại gỗ, đặc biệt là gỗ cây bạch đàn, nhưng giá trị sản phẩm còn thấp, dẫn đến hiệu quả kinh tế không cao Điều này cần được xem xét lại để tái cơ cấu ngành lâm nghiệp trong những năm tới, nhằm tăng giá trị và phát huy lợi thế diện tích đất rừng của huyện, từ đó đạt được mục tiêu tăng thu nhập và cải thiện môi trường.
Bảng 13: Giá trị sản xuất ngành lâm nghiệp năm 2003 của huyện Tân Yên
TT Loại sản phẩm Giá trị sản xuất lâm nghiệp
4 Tre, nứa + các sản phẩm khác
(Nguồn Phòng Thống kê huyện - năm 2003)
4.3.3 Ngành trồng trọt Điều kiện địa hình, điều kiện kinh tế, trình độ khoa học kỹ thuật cũng như tập quán canh tác và thị trường tiêu thụ nông sản là các yếu tố xác định hệ thống cây trồng của huyện Hiện nay hệ thống cây trồng của huyện bao gồm một số loại nh−: nhóm cây hàng năm, gồm cây l−ơng thực, cây thực phẩm, cây công nghiệp ngắn ngày Nhóm cây lâu năm, gồm cây ăn quả lâu năm, cây công nghiệp lâu năm Diện tích, năng suất, và sản l−ợng của các nhóm cây này đ−ợc trình bày ở bảng 14
Bảng 14 trình bày một số nhóm cây trồng chính, trong đó mỗi nhóm bao gồm các loại cây trồng với quy mô gieo trồng đa dạng.
Đánh giá chung về thực trạng phát triển kinh tế xã hội
Khi phân tích về thực trạng điều kiện kinh tế xã hội của huyện có thể ®−a ra mét sè nhËn xÐt sau:
- Với các điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên thì huyện có cơ sở phát triển kinh tế theo h−ớng đa dạng
- Về mặt kinh tế huyện có xuất phát điểm tương đối thuận lợi hơn so với một số huyện miền núi khác của tỉnh
Trong những năm gần đây, huyện đã chứng kiến sự phát triển kinh tế đáng kể với sản xuất tăng trưởng liên tục và cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực Tỷ trọng nông nghiệp giảm dần, trong khi tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ phát triển nhanh chóng Kinh tế hộ được khuyến khích, giúp cải thiện đời sống của đa số người dân và mang lại những thay đổi cơ bản cho bộ mặt nông thôn Tuy nhiên, thu nhập chủ yếu của huyện vẫn phụ thuộc vào nông nghiệp.
Cơ sở hạ tầng của huyện đã có những cải thiện đáng kể, với các công trình xây dựng, giao thông và thủy lợi được đầu tư nâng cấp, đáp ứng tốt nhu cầu sống ngày càng cao của người dân.
Trong những năm qua, ngành sản xuất nông nghiệp đã trải qua nhiều đổi mới về chất lượng và hiệu quả Diện tích gieo trồng các cây có giá trị kinh tế cao đã được mở rộng, cùng với việc đa dạng hóa các công thức luân canh Nông hộ ngày càng chú trọng đầu tư thâm canh nhằm tăng năng suất trên mỗi đơn vị diện tích Tuy nhiên, hiệu quả sản xuất nông nghiệp vẫn chưa cao, chưa tương xứng với tiềm năng của điều kiện tự nhiên và kinh tế – xã hội của huyện.
Nghiên cứu về cơ cấu và hiệu quả kinh tế của các cơ cấu cây trồng hiện có trên địa bàn của huyện tân yên
trồng hiện có trên địa bàn của huyện tân yên
4.5.1 Nghiên cứu cơ cấu và hiệu quả kinh tế của các ph−ơng thức canh tác trên đất đồi có địa hình cao
Hiện nay, huyện có diện tích đất đồi lớn, tập trung chủ yếu tại các xã như Phúc Hoà, Lam Cốt, Việt Lập, Cao Thượng, Ngọc Châu và Cao Xá Địa hình của huyện có độ dốc từ 10 đến trên 25 độ, chiếm khoảng 7.769 ha, tương đương 55% tổng diện tích đất toàn huyện.
Loại đất này hiện nay các nông hộ chủ yếu sản xuất với các phương thức nh− sau:
- Phương thức 1 địa phương thường làm: trồng thuần một số cây lâm nghiệp đơn thuần là cây bạch đàn (nghiên cứu ở vườn bạch đàn 7 tuổi)
Phương thức canh tác mới trên đất đồi đã cho thấy hiệu quả, với một số hộ gia đình áp dụng trồng thuần cây ăn quả, đặc biệt là cây vải thiều Nghiên cứu tại vườn vải 7 tuổi cho thấy sự phát triển bền vững của loại cây này trong điều kiện địa hình đặc thù.
Phương thức 3: trồng dứa xen vải thiều được khảo sát nhằm đánh giá hiệu quả kinh tế Chúng tôi đã tiến hành điều tra một số hộ nông dân áp dụng các phương thức canh tác khác nhau để đưa ra khuyến cáo cho việc chuyển đổi trong những năm tới.
4.5.1.1 So sánh hiệu quả kinh tế trồng thuần cây bạch đàn, trồng thuần cây vải và trồng xen cây dứa trong v − ờn vải
Qua điều tra, khảo sát, theo dõi các ph−ơng thức trên chúng tôi thu đ−ợc kết quả nh− bảng 15.
Bảng 15: Hiệu quả kinh tế của trồng thuần cây bạch đàn, trồng thuần cây vải và dứa xen vải
TT Cây trồng Tổng giá trị SP
Chi phÝ vËt chÊt (triệu đồng)
Thu nhËp thuÇn (triệu đồng) a b c d = (b - c)
Kết quả bảng 15 cho thấy hiệu quả kinh tế của 3 hình thức canh tác khác nhau rất rõ rệt:
Trồng cây lâm nghiệp như bạch đàn có chi phí hàng năm thấp hơn so với cây vải thiều, chỉ khoảng 7 triệu đồng, bằng một nửa chi phí trồng vải thiều Tuy nhiên, tổng thu nhập và thu nhập thuần từ cây bạch đàn lại thấp hơn nhiều, chỉ đạt 13 triệu đồng/ha, trong khi thu nhập thuần từ cây vải thiều lên tới 56,65 triệu đồng/ha, gấp hơn 4 lần so với bạch đàn.
+ Đối với cây bạch đàn: trồng 7 năm chỉ thu hoạch 1 lần, sau đó lại phải chi phí trồng lại từ đầu, do đó hiệu quả kinh tế không cao
Cây bạch đàn có hiệu quả cải tạo đất thấp do bộ lá ít và mức độ che phủ đất không cao Hệ rễ ăn sâu và khả năng hút nước mạnh của bạch đàn khiến đất dễ bị khô.
- Trồng cây vải thiều có một số lợi thế sau:
Cây vải có khả năng cho thu hoạch chỉ sau 3 năm trồng, và sau 7 năm, cây sẽ đạt giai đoạn cho năng suất cao Mỗi năm, người trồng có thể thu hoạch sản phẩm một lần.
Cây vải là loại cây ăn quả có tuổi thọ lâu dài, có thể cho thu hoạch lên tới hàng trăm năm Mặc dù chi phí ban đầu để trồng cây vải khá cao, nhưng chi phí duy trì hàng năm lại thấp, trong khi thu nhập từ cây vải cao hơn nhiều so với cây bạch đàn.
Cây vải không chỉ mang lại thu nhập kinh tế mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc cải tạo và bảo vệ đất, môi trường Với bộ lá xanh quanh năm và hệ rễ có khuẩn cộng sinh, cây vải tạo ra độ che phủ lớn, giúp duy trì sự bền vững cho hệ sinh thái.
Chính vì vậy trồng vải là một hướng chuyển đổi cơ cấu cây trồng có giá trị kinh tế cao trong những năm tới đối với địa phương
Trồng dứa xen vải là một phương pháp hiệu quả để tận dụng đất đai trong giai đoạn đầu khi cây vải chưa khép tán Cây vải, là cây ăn quả lâu năm, cần thời gian dài để phát triển và thường mất hơn 10 năm để đạt được sự che phủ tối ưu Vì cây vải cần ánh sáng, mật độ trồng phải thưa, dẫn đến việc giữa các hàng vải còn nhiều khoảng đất trống Do đó, nhiều hộ nông dân đã lựa chọn trồng dứa xen kẽ, vừa giúp tối ưu hóa diện tích, vừa tạo ra nguồn thu nhập bổ sung trong thời gian chờ đợi cây vải phát triển.
Chúng tôi đã tiến hành so sánh giữa hai hình thức canh tác: trồng thuần vải và trồng xen dứa trong vải Kết quả cho thấy sự khác biệt rõ rệt giữa hai phương pháp này.
- Thu nhập thuần của ph−ơng thức trồng trồng thuần cây vải là 56,65 triệu đồng/ha
- Thu nhập thuần của trồng xen là 63,03 triệu đồng/ha
Phương thức trồng xen mang lại thu nhập cao hơn đáng kể so với việc trồng thuần cây vải, và đặc biệt là cao hơn nhiều so với trồng thuần cây bạch đàn.
So sánh giữa hình thức trồng thuần và trồng xen trên địa hình đồi cho thấy rằng trong những năm tới, việc áp dụng phương thức trồng xen cây dứa trong vườn vải mới trồng sẽ mang lại hiệu quả sử dụng đất cao hơn.
4.5.2 Cơ cấu và hiệu quả kinh tế của các ph−ơng thức canh tác trên đất đồi thấp
Hiện nay diện tích đồi thấp của huyện tương đối nhiều, đa số diện tích này các nông hộ th−ờng trồng một số loại cây nh− sau:
- Lạc xuân - ngô thu đông,
Để xác định cơ cấu cây trồng phù hợp cho đất đồi thấp và khuyến cáo nông hộ chuyển đổi cây trồng nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, chúng tôi đã tiến hành điều tra và khảo sát ba phương thức canh tác Kết quả phân tích hiệu quả kinh tế được trình bày chi tiết trong bảng 16.
Bảng 16: Hiệu quả kinh tế các công thức luân canh trên đất đồi thấp của huyện năm 2003 Đơn vị tính: 1.000 đồng/ha
Tổng giá trị sản phẩm
1 Lạc xuân - Ngô thu đông 20.572 8.970 11.601
Trong 3 công thức canh tác ở đất đồi có địa hình thấp thì thì công thức trồng: lạc xuân - ngô thu đông, cho thu nhập 11.601.000 đồng, cao hơn công thức 2 trồng sắn chỉ cho thu nhập 9.650.000 đồng Tuy nhiên 2 công thức này đều có thu nhập thấp, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của loại đất này Nếu loại đất này đ−ợc phát huy chuyển sang cây trồng mới nh− cây ăn quả có giá trị cao nh− trồng cây vải thì có thu nhập 56.650.000 đồng, cao hơn rất nhiều so với trồng cây l−ơng thực
4.5.3 Cơ cấu và hiệu quả kinh tế của các ph−ơng thức canh tác hiện tại trên các loại đất vàn Để xác định hiệu quả kinh tế của các phương thức canh tác hiện tại trên các chân đất vàn Chúng tôi đã tìm hiểu lịch thời vụ gieo trồng, năng suất, giá bán của một số loại cây trồng năm 2003 Kết quả đ−ợc thể hiện ở các bảng 17; 18
Bảng 17 Lịch mùa vụ của các công thức luân canh cây trồng trên đất vàn - ở huyện (2002 - 2003)
1 Lúa xuân sớm Đậu tương hè Lạc thu đông
2 Lúa xuân sớm Lúa mùa Rauvụ đông
3 Lúa xuân sớm Lúa mùa Khoai tây đông
4 Lạc xuân Lúa mùa sớm Khoai tây đông
5 Rau vụ xuân Lúa mùa Bí xanh đông
6 Lúa xuân sớm Đậu tương hè Lúa mùa muộn K.tây đông
7 Lúa xuân sớm Đậu tương hè Lạc thu K.tây đông
8 Lúa xuân sớm Lúa mùa sớm Lạc đông
9 Lúa xuân sớm Lúa mùa sớm Ngô đông
Phần đề xuất cơ cấu cây trồng mới để nâng cao giá trị kinh tế trên đất nông nghiệp
tế trên đất nông nghiệp
Cơ cấu đất nông nghiệp của huyện chủ yếu là cây hàng năm, nhưng kết quả phân tích thu nhập thuần cho thấy các công thức luân canh hiện tại chưa đạt hiệu quả kinh tế cao, không tương xứng với tiềm năng tự nhiên và kinh tế - xã hội của vùng Để nâng cao hiệu quả kinh tế, cần định hướng sản xuất nông nghiệp theo hướng hiệu quả hơn Phân tích các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và các công thức luân canh hiện tại của nông hộ trong huyện là điều cần thiết để đạt được mục tiêu này.
Năm 2004, chúng tôi đã thực hiện các mô hình luân canh cây trồng hợp lý, mang lại hiệu quả kinh tế cao và phù hợp với đặc điểm từng loại đất của địa phương.
4.6.1 Chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất vàn cao
Sau khi điều tra hiệu quả kinh tế của hệ thống luân canh cũ trên đất vạn cao, chúng tôi nhận thấy rằng hệ thống này chủ yếu chỉ sản xuất 2 vụ lúa xuân và lúa mùa, dẫn đến thu nhập không cao Tuy nhiên, với điều kiện đất đai hiện tại, có thể sản xuất 3 vụ và thay đổi cơ cấu cây trồng Do đó, chúng tôi đề xuất áp dụng hệ thống luân canh mới với 3 vụ thay vì 2 vụ như trước, bao gồm công thức luân canh và các loại cây trồng phù hợp.
Lúa xuân - đậu tương hè - khoai tây đông
Sau khi triển khai mô hình sản xuất mới với cơ cấu cây trồng khác biệt so với trước đây, chúng tôi đã thu được kết quả đáng chú ý, như thể hiện trong bảng 22.
Bảng 22: So sánh hiệu quả kinh tế của các công thức luân canh cũ và mới trên đất vàn cao của huyện năm 2003 - 2004 Đơn vị tính: 1.000 đồng/ha
C.T-lu©n canh Loại cây trồng Tổng giá trị sản phẩm
Cũ Lúa xuân - Lúa mùa 22.782 8.970 11.601
Mới: Lúa xuân - Đậu t−ơng hÌ - Khoai t©y
Kết quả từ bảng 22 cho thấy rằng việc chuyển đổi sang hệ thống cây trồng mới mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với phương thức cũ mà các nông hộ thường áp dụng trước đây.
Phương thức mới thu nhập thuần 22.926.000 đồng/ha,
Phương thức cũ thu nhập thuần 11.601.000 đồng/ha
So sánh thu nhập thuần giữa ph−ơng thức mới và cũ thì ph−ơng thức mới hơn phương thức cũ là 11.325.000 đồng/ha
Phương thức sản xuất mới vượt trội hơn so với phương thức cũ, do đó, trong những năm tới, các nông hộ nên áp dụng hệ thống canh tác mới trên đất vàn cao để nâng cao hiệu quả sản xuất.
4.6.2 Chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hiệu quả kinh tế cao trên đất vàn Đất vàn của huyện là đất cỏ khả năng canh tác các cây nông nghiệp hiệu quả nhất của huyện hiện nay và cây trồng đ−ợc trồng trên đất vàn cũng rất phong phú và đa dạng Chính vì vậy trên đất vàn hiện nay địa phương có rất nhiều công thức luân canh (có tới 9 công thức, nh− bảng 20)
Hiện nay, các công thức luân canh vẫn tồn tại nhiều vấn đề như việc bố trí cây trồng chưa hợp lý, sử dụng giống cây không đúng hoặc chưa áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thâm canh Điều này dẫn đến hiệu quả kinh tế của các công thức luân canh cũ chưa cao và chưa tương xứng với tiềm năng tự nhiên cũng như điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương.
Dựa trên nghiên cứu và phân tích các tồn tại của các công thức luân canh hiện tại, chúng tôi đã xây dựng những công thức luân canh mới, hiệu quả hơn Những công thức này được thiết kế dựa trên điều kiện tự nhiên, khả năng sinh trưởng và phát triển của cây trồng, cũng như năng suất mà chúng có thể đạt được Mục tiêu là tìm ra các giải pháp khắc phục những hạn chế của các công thức luân canh cũ, từ đó tối ưu hóa hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp.
Các công thức mới chúng tôi tiến hành ở một số hộ đại diện trên địa bàn của một số xã trong huyện
Sau đây là một số phương thức chuyển đổi trên đất vàn mà chúng tôi đã thực hiện tại một số nông hộ từ tháng 1/2003 đến tháng 8/2004 nh− sau:
Sau khi triển khai mô hình sản xuất mới với các cơ cấu cây trồng mới trên đất vườn tại một số nông hộ và so sánh với cơ cấu cây trồng cũ, chúng tôi đã thu được kết quả như bảng 23.
Bảng 23: So sánh hiệu quả kinh tế của các công thức luân canh cũ và mới trên đất vàn của huyện năm 2003 - 2004 Đơn vị tính: 1.000 đồng/ha
Tổng giá trị sản phẩm
Lúa xuân - đậu t−ơng hè - lúa mùa muộn - khoai tây đông
Lúa xuân - đậu t−ơng hè - lạc thu đông - khoai tây đông
Lúa xuân - đậu t−ơng hè - lạc thu đông
Mới Cà chua - rau cải - hoa 242.600 47.544 195.046
Lúa xuân thuần - lúa mùa thuần
Míi Lóa lai - lóa lai - khoai t©y 57.430 18.156 39.274
Cũ Lúa xuân - lúa mùa - ngô đông 37.342 15.650 21.692
D−a hấu xuân - lúa mùa - d−a hấu đông
Kết quả từ bảng 23 chỉ ra rằng, việc chuyển đổi sang hệ thống cây trồng mới sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với phương thức truyền thống mà các nông hộ thường áp dụng trước đây.
Sau khi nghiên cứu và phân tích hiệu quả kinh tế của công thức luân canh cũ, chúng tôi đã tập trung vào công thức luân canh 4 vụ mà các nông hộ áp dụng phổ biến.
Lúa xuân - đậu tương hè - lúa mùa muộn - khoai tây đông
Hệ thống canh tác hiện tại chỉ có hai vụ lúa là lúa xuân và lúa mùa muộn, trong đó vụ lúa mùa muộn có năng suất thấp và sản phẩm chủ yếu là lúa, dẫn đến giá bán không cao do không hấp dẫn thị trường Điều này khiến cho hiệu quả kinh tế từ việc sản xuất hai vụ lúa trong năm trở nên hạn chế Đất huyện chủ yếu là đất bạc màu, rất phù hợp cho việc trồng lạc Việc trồng lạc vào vụ thu đông không chỉ nhằm mục đích thương phẩm mà còn để cung cấp giống cho vụ xuân, từ đó có thể nâng cao hiệu quả kinh tế Thêm vào đó, việc cải tạo đất qua trồng thêm một vụ lạc sẽ giúp cải thiện chất lượng đất, tăng năng suất cho các vụ mùa sau.
Chúng tôi nhận thấy rằng việc thay thế vụ lúa mùa muộn bằng vụ lạc thu đông sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn Do đó, chúng tôi đã triển khai mô hình luân canh 4 vụ mới.
Lúa xuân - đậu tương hè - lạc thu đông - khoai tây đông Kết quả ở ph−ơng thức 1 trong bảng 23 cho thấy:
Hệ thống cây trồng mới có chi phí cao hơn hệ thống cũ 785.000 đồng/ha, nhưng mang lại thu nhập thuần 33.877.000 đồng/ha, cao hơn 6.200.000 đồng/ha so với hệ thống cũ chỉ đạt 27.676.000 đồng/ha (không tính công lao động) Kết quả cho thấy, phương thức luân canh 4 vụ mới có thể thay thế phương thức cũ, mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn cho các nông hộ.
Dự kiến về nội dung chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo h−ớng sản xuất có hiệu quả kinh tế cao trong những năm tới
Để nâng cao hiệu quả kinh tế trong sử dụng đất nông nghiệp, huyện cần thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng cũ sang cơ cấu cây trồng mới trong những năm tới, như thể hiện trong bảng 25.
Bảng 25 : Dự kiến các công thức luân canh hiệu quả trên các địa hình đất vàn - trong những năm tới của huyện
Công thức luân canh cũ Đề nghị công thức luân canh mới
Loại đất Loại cây trồng Loại cây trồng
Lúa xuân - đậu t−ơng hè - lúa mùa Lúa xuân - đậu t−ơng hè - khoai tây Rau - đậu t−ơng hè- rau Vàn cao Lúa xuân - lúa mùa
Lúa xuân - lúa mùa - khoai tây Lúa xuân - đậu t−ơng - lạc thu - khoai tây D−a hấu xuân - lúa mùa - d−a hấu đông Lóa lai - lóa lai - khoai t©y
Vàn Lúa xuân - lúa mùa - cây vụ đông
Cà chua - rau cải - cây hoa Vàn thấp Cấy 1 vụ lúa chiêm xuân Cấy lúa + nuôi cá
Dự tính hiệu quả của cơ cấu cây trồng mới cho thấy những biến đổi kinh tế đáng kể, dựa trên kết quả điều tra nghiên cứu đạt được Cơ cấu cây trồng mới không chỉ tối ưu hóa sản xuất mà còn nâng cao giá trị kinh tế cho nông dân.
4.7.1 Đối với đất đồi trồng cây lâm nghiệp
Huyện miền núi có diện tích đất đồi trồng cây lâm nghiệp lớn, nhưng hiệu quả kinh tế từ những diện tích này vẫn chưa cao, chủ yếu do người dân chỉ quen với việc trồng cây lấy gỗ như bạch đàn Việc chuyển đổi một phần diện tích sang trồng cây ăn quả, như cây vải, có thể mang lại thu nhập cao hơn, với mức tăng lên đến 56 triệu đồng, gấp 5 lần so với trồng bạch đàn Vì vậy, trong những năm tới, cần thiết phải chuyển đổi một số diện tích cây lâm nghiệp sang trồng cây ăn quả để nâng cao thu nhập cho người dân.
4.7.2 Đối với đất ruộng trồng cây nông nghiệp
Tùy thuộc vào độ cao, khả năng tưới tiêu và thoát nước, việc chuyển đổi từ cơ cấu cây trồng cũ sang cơ cấu cây trồng mới có thể mang lại hiệu quả cao hơn.
Trên diện tích 2.986 ha đất vàn cao, trước đây được sử dụng để trồng hoa màu và lương thực với công thức luân canh lúa xuân - lúa mùa, người nông dân đã đạt được thu nhập 11.601.000 đồng/ha.
Chuyển đổi sang cơ cấu cây trồng mới với lúa xuân, đậu tương hè và khoai tây đông giúp nâng cao thu nhập từ 22 - 25 triệu đồng/ha/năm, gấp gần 2 lần so với trước Hơn nữa, cơ cấu cây trồng mới này mang lại hiệu quả kinh tế tập trung cao hơn cho nông sản.
Trên đất vàn, diện tích 3.435 ha trước đây được trồng theo công thức luân canh ngô xuân - lúa mùa - khoai tây đông, với thu nhập thấp chỉ đạt 19 triệu đồng/ha/năm Tuy nhiên, có khả năng hình thành chế độ canh tác ba hoặc bốn vụ và áp dụng công thức canh tác mới để nâng cao năng suất.
+ Lúa xuân - đậu t−ơng hè - lạc thu - khoai tây
+ Lúa xuân (giống lúa lai) - lúa mùa (giống lúa lai) - khoai tây đông + Cà chua - rau - hoa
+ D−a hấu xuân - lúa mùa - d−a hấu đông
Thì nâng thu nhập lên 30 - 95 triệu đồng/ha/năm
Trên quỹ đất thấp với diện tích 1.865 ha, do địa hình đất thấp và thoát nước chậm, khu vực này thường xuyên bị ngập úng vào mùa mưa Để nâng cao hiệu quả kinh tế, chúng tôi đề xuất chuyển sang cơ cấu canh tác mới, bao gồm một vụ lúa kết hợp với thả cá, giúp thu nhập đạt trên 50 triệu đồng mỗi năm, cao gấp nhiều lần so với cơ cấu cây trồng cũ.