MỤC LỤC Phần 1: Các loại năng lượng phát điện và tiềm năng 5 1.1 Năng lượng hóa thạch 5 1.1.1 Than đá. 5 1.1.2 Dầu khí. 5 1.2 Thủy điện 6 1.3 Năng lượng tái tạo 6 1.3.1 Năng lượng mặt trời. 6 1.3.2 Năng lượng gió. 7 1.3.3 Năng lượng địa nhiệt. 7 1.3.4 Biogas. 8 1.3.5 Năng lượng sóng. 9 1.3.6 Năng lượng thủy triều. 9 1.4 Năng lượng hạt nhân 10 Phần 2: Tình hình phát điện trên TG và VN 12 Tài liệu tham khảo 18 Phần 1: Các loại năng lượng phát điện và tiềm năng 1.1 Năng lượng hóa thạch 1.1.1 Than đá : trữ lượng lớn (khoảng 6,6 tỷ tấn),mỗi chu kì kế hoạch 5 năm tổng sản lượng khai thác than tăng khoảng 15 triệu tấn nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tếxã hội của đất nước. Khả năng khai thác và chế biến than của nước ta chỉ đáp ứng được 4050% nhu cầu than cho sản xuất điện, thực chất sản lượng than sẽ chỉ đủ cung cấp cho khoảng 12.000MW, nghĩa là sản xuất được không quá 72 tỉ kWh mỗi năm, kể cả đến những năm 20252030, do đó Việt Nam sẽ sớm trở thành quốc gia nhập khẩu than trong giai đoạn sau 2020. Điện than vẫn là giải pháp cơ bản để đảm bảo cung cấp điện với chi phí hợp lý, phù hợp với kinh tế đất nước và thu nhập của người dân trong hiện tại và tương lai gần. Lượng điện năng sản xuất từ nhiệt điện than vào năm 2030 dự kiến chiếm khoảng 53,2% tổng sản lượng điện của hệ thống. 1.1.2 Dầu khí : Tổng trữ lượng dầu khí có thể đưa vào khai thác ở nước ta khoảng 3,84,2 tỷ tấn. Khả năng khai thác dầu thô so với năm 2010 dự báo đến năm 2020 sẽ sụt giảm, còn 1617 triệu tấnnăm. Đối với khí đốt, khả năng khai thác sẽ tăng, giai đoạn 20112015 sẽ đạt mức từ 10,7 tỷ m3 lên 19 tỷ m3 . Việt Nam hiện có 7.200 MW điện khí. Theo Quy hoạch điện VII điều chỉnh, đến năm 2025, Việt Nam sẽ có khoảng 15.000 MW công suất nhiệt điện khí, chiếm khoảng 15,6% tổng công suất các nguồn điện. Đến năm 2030, tổng công suất các nhà máy điện khí sẽ khoảng 19.000 MW, tương ứng cần khoảng 22 tỷ m3 khí cho phát điện. Việc phát triển nhiệt điện khí được các chuyên gia đánh giá là rất cần thiết, nhằm góp phần cung cấp đủ điện năng cho nhu cầu quốc gia, tăng cường đảm bảo an ninh năng lượng. Tuy nhiên, ngay từ sau năm 2020, nguồn khí trong nước sẽ không đủ để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ. Việt Nam cần nhập khẩu LNG để bù đắp lượng thiếu hụt cho sản xuất điện theo Quy hoạch điện VII điều chỉnh. Tới năm 2030, khoảng gần 50% nhiên liệu khí cho phát điện là từ nguồn LNG nhập khẩu. 1.1.3 Ưu và nhược điểm: Ưu điểm : dễ dàng xây dựng (kể cả với công suất lớn) ,giá thành xây dựng thấp, không phụ thuộc vào yếu tố tự nhiên. Nhược điểm : đòi hỏi nguồn cung nguyên liệu ổn định, gây ô nhiễm môi trường,tăng hiệu ứng nhà kính, giá thành sản xuất điện lớn hơn so với thủy điện. 1.2 Thủy điện • Do vị trí địa lý của Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, nóng ẩm mưa nhiều, nên đất nước ta có nguồn tài nguyên thủy năng tương đối lớn. Tiềm năng về kinh tếkỹ thuật thủy điện của nước ta đạt khoảng 7500085840 triệu tỷ kWh với công suất tương ứng đạt 1800020000MW. Trong đó tiềm năng kinh tế của 10 lưu vực sông chính khoảng 85,9% của các lưu vực sông trong cả nước. Như vậy tổng trữ lượng kinh tế kỹ thuật của các lưu vực sông chính hơn 18.000MW, cho phép sản lượng điện năng tương ứng khoảng 70 tỷ kWh. Theo dự báo kế hoạch phát triển thủy điện trong tổng sơ đồ điện VII đến năm 2020, toàn bộ trữ lượng tiềm năng kinh tếkỹ thuật của thủy điện lớn sẽ được khai thác hết, như vậy năng lượng thủy điện từ các dòng sông chính sẽ không còn khả năng khai thác nữa. • Đối với năng lượng thủy điện nhỏ, với mức công suất nhỏ hơn hoặc bằng 30MW, theo đánh giá tiềm năng có khoảng hơn 1.000 điểm có thể khai thác và cho tổng công suất khoảng 7.000MW. Thực tế đã có 114 dự án với tổng công suất khoảng 850 MW đã cơ bản hoàn thành, 228 dự án với công suất trên 2600 MW đang xây dựng và 700 dự án đang giai đoạn nghiên cứu. Ngoài ra các dự án thủy điện cực nhỏ công suất dưới 100 kW phù hợp với vùng sâu, vùng xa, những nơi có địa hình hiểm trở có thể tự cung tự cấp theo lưới điện nhỏ và hộ gia đình cũng đã và đang được khai thác. • Ưu và nhược điểm: Ưu điểm : giá thành sản xuất điện khá thấp,hiệu suất cao, không gây ô nhiễm môi trường, có khả năng trị thủy,thời gian mở máy nhanh. Nhược điểm: chiếm đất lâm nghiệp, ảnh hưởng đến hệ động, thực vật xung quanh, giảm lượng phù sa đưa về hạ lưu, dòng chảy của sông bị thay đổi, vấn đề tái định cư của người dân khu vực xây nhà máy.
Các loại năng lượng phát điện và tiềm năng
Năng lượng hóa thạch
1.1.1/ Than đá : trữ lượng lớn (khoảng 6,6 tỷ tấn),mỗi chu kì kế hoạch 5 năm tổng sản lượng khai thác than tăng khoảng 1-5 triệu tấn nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước Khả năng khai thác và chế biến than của nước ta chỉ đáp ứng được 40-50% nhu cầu than cho sản xuất điện, thực chất sản lượng than sẽ chỉ đủ cung cấp cho khoảng 12.000MW, nghĩa là sản xuất được không quá 72 tỉ kWh mỗi năm, kể cả đến những năm 2025-2030, do đó Việt Nam sẽ sớm trở thành quốc gia nhập khẩu than trong giai đoạn sau 2020 Điện than vẫn là giải pháp cơ bản để đảm bảo cung cấp điện với chi phí hợp lý, phù hợp với kinh tế đất nước và thu nhập của người dân trong hiện tại và tương lai gần Lượng điện năng sản xuất từ nhiệt điện than vào năm 2030 dự kiến chiếm khoảng 53,2% tổng sản lượng điện của hệ thống.
1.1.2/ Dầu khí : Tổng trữ lượng dầu khí có thể đưa vào khai thác ở nước ta khoảng 3,8-4,2 tỷ tấn Khả năng khai thác dầu thô so với năm 2010 dự báo đến năm
Dự báo đến năm 2020, sản lượng khí đốt sẽ giảm xuống còn 16-17 triệu tấn/năm, trong khi khả năng khai thác khí đốt sẽ tăng từ 10,7 tỷ m³ lên 19 tỷ m³ trong giai đoạn 2011-2015 Hiện tại, Việt Nam có 7.200 MW điện khí và theo Quy hoạch điện VII điều chỉnh, dự kiến đến năm 2025, công suất nhiệt điện khí sẽ đạt khoảng 15.000 MW, chiếm 15,6% tổng công suất nguồn điện Đến năm 2030, tổng công suất các nhà máy điện khí sẽ khoảng 19.000 MW, cần khoảng 22 tỷ m³ khí cho phát điện Việc phát triển nhiệt điện khí là cần thiết để đáp ứng nhu cầu điện năng quốc gia và đảm bảo an ninh năng lượng Tuy nhiên, từ sau năm 2020, nguồn khí trong nước sẽ không đủ, buộc Việt Nam phải nhập khẩu LNG để bù đắp thiếu hụt, với dự báo đến năm 2030, gần 50% nhiên liệu khí cho phát điện sẽ đến từ nguồn LNG nhập khẩu.
Ưu điểm : dễ dàng xây dựng (kể cả với công suất lớn) ,giá thành xây dựng thấp, không phụ thuộc vào yếu tố tự nhiên.
Năng lượng tái tạo có một số nhược điểm, bao gồm việc yêu cầu nguồn cung nguyên liệu ổn định, gây ra ô nhiễm môi trường và làm tăng hiệu ứng nhà kính Hơn nữa, chi phí sản xuất điện từ các nguồn này thường cao hơn so với thủy điện.
Thủy điện
Việt Nam, với vị trí địa lý nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, sở hữu nguồn tài nguyên thủy năng phong phú Tiềm năng kinh tế-kỹ thuật thủy điện của nước ta ước tính đạt từ 75.000 đến 85.840 triệu kWh, với công suất khoảng 18.000-20.000 MW Đặc biệt, 10 lưu vực sông chính chiếm khoảng 85,9% tiềm năng của cả nước, tương đương với tổng trữ lượng hơn 18.000 MW, cho phép sản xuất khoảng 70 tỷ kWh điện Theo kế hoạch phát triển thủy điện trong tổng sơ đồ điện VII, đến năm 2020, toàn bộ trữ lượng tiềm năng kinh tế-kỹ thuật sẽ được khai thác, dẫn đến việc không còn khả năng khai thác năng lượng thủy điện từ các dòng sông chính.
Năng lượng thủy điện nhỏ, với công suất tối đa 30MW, có tiềm năng khai thác hơn 1.000 điểm, đạt tổng công suất khoảng 7.000MW Hiện tại, đã có 114 dự án được triển khai, với tổng công suất đạt khoảng 7.000MW.
Đến nay, 850 MW đã được hoàn thành, trong khi 228 dự án với tổng công suất trên 2600 MW đang trong quá trình xây dựng và 700 dự án khác đang ở giai đoạn nghiên cứu Bên cạnh đó, các dự án thủy điện cực nhỏ có công suất dưới 100 kW, phù hợp cho các vùng sâu, vùng xa và địa hình hiểm trở, cũng đã được khai thác để cung cấp điện tự cấp cho các hộ gia đình thông qua lưới điện nhỏ.
Ưu điểm : giá thành sản xuất điện khá thấp,hiệu suất cao, không gây ô nhiễm môi trường, có khả năng trị thủy,thời gian mở máy nhanh.
Những nhược điểm của việc xây dựng nhà máy bao gồm việc chiếm dụng đất lâm nghiệp, gây ảnh hưởng tiêu cực đến hệ động thực vật xung quanh, làm giảm lượng phù sa đưa về hạ lưu và thay đổi dòng chảy của sông Bên cạnh đó, vấn đề tái định cư của người dân trong khu vực cũng là một thách thức lớn.
Năng lượng tái tạo
Năm 2019, điện sản xuất từ các nguồn năng lượng tái tạo sẽ đạt khoảng 5,54 tỷ kWh (riêng điện mặt trời là khoảng gần 4,6 tỷ kWh).
1.3.1/ Năng lượng mặt trời : Với vị trí địa lý của Việt Nam nằm trong giới hạn giữa xích đạo và chí tuyến Bắc, thuộc vùng nội chí tuyến có ánh nắng mặt trời chiếu sáng quanh năm, nhất là khu vực Nam Bộ Với tổng số giờ nắng trong năm dao động trong khoảng 1.400-3.000 giờ, tổng lượng bức xạ trung bình năm vào khoảng 230-
Cường độ bức xạ năng lượng mặt trời ở Việt Nam tăng dần từ Bắc vào Nam, đạt khoảng 250 lcal/cm2/ngày Tuy nhiên, việc khai thác và sử dụng năng lượng mặt trời hiện nay còn nhiều hạn chế Trong tương lai, khi các nguồn năng lượng khác đã khai thác đến mức tối đa, năng lượng mặt trời sẽ trở thành một giải pháp quan trọng.
Việt Nam đã thu hút sự quan tâm của nhà đầu tư trong và ngoài nước với 17 lực điện mặt trời Bắt đầu từ năm 2015, đến giữa năm 2019, nước ta đã có hàng trăm dự án điện mặt trời với công suất từ 20 đến 250 MW hoàn thành hoặc đang trong quá trình hoàn thiện Theo số liệu từ EVN, tính đến ngày 30/5/2019, có 47 dự án điện mặt trời với tổng công suất 2.300 MW đã được kết nối vào lưới điện quốc gia Tuy nhiên, nhược điểm của điện mặt trời là chỉ sản xuất điện khi có ánh sáng mặt trời, và công suất phát ra thay đổi theo mức độ ánh sáng.
1.3.2/ Năng lượng gió : Nằm trong khu vực cận nhiệt đới gió mùa với bờ biển dài,
Việt Nam sở hữu tiềm năng phát triển năng lượng gió lớn nhờ vào tốc độ gió mạnh và biến đổi theo mùa tại vùng biển Đông Theo Ngân hàng Thế giới, tổng tiềm năng điện gió ước đạt 513.360 MW, gấp hơn 200 lần công suất của thủy điện Sơn La Chính phủ Việt Nam khuyến khích phát triển điện gió và điện mặt trời thông qua Quyết định 2068/QĐ-TTg, nhằm đảm bảo nguồn điện bền vững khi ngừng các dự án điện hạt nhân và giảm sử dụng nhiệt điện đốt hóa thạch Các ưu đãi đầu tư và giá bán điện hấp dẫn đã thu hút nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước Kể từ khi khởi công xây dựng nhà máy điện gió đầu tiên vào năm 2012, đến giữa năm 2019, đã có hàng chục dự án điện gió với công suất từ 20 đến 250 MW hoàn thành hoặc đang trong quá trình hoàn thiện.
1.3.3/ Năng lượng địa nhiệt : là nguồn năng lượng được tách ra từ trong lòng đất, từ phân hủy phóng xạ của các khoáng vật Với số liệu điều tra và đánh giá gần đây nhất cho thấy tiềm năng điện địa nhiệt ở Việt Nam có thể khai thác đến trên 300MW Khu vực có khả năng khai thác hiệu quả là miền Trung Bà Katrin Kessels,
Từ năm 2007, Viện Khoa học Địa chất và Tài nguyên Liên bang Đức (BGR) đã tiến hành khảo sát tiềm năng điện nhiệt tại 6 điểm nước nóng ở Việt Nam, bao gồm Tu Bông (Khánh Hòa), Phú Sen (Phú Yên), Hội Vân (Bình Định), Nghĩa Thuận (Quảng Ngãi), Thạch Trụ (Quảng Ngãi) và Kon Du (Kon Tum) Viện nghiên cứu phương án sử dụng hiệu quả tùy theo chất lượng từng nguồn nước Đồng thời, Tập đoàn Ormat đã quyết định đầu tư xây dựng 5 nhà máy điện địa nhiệt tại các khu vực Lệ Thủy (Quảng Bình), Mộ Đức, Nghĩa Thắng (Quảng Ngãi) và Hội Vân (Bình Định).
Tu Bông (Khánh Hòa) dự kiến có tổng công suất lên đến 150-200MW, nhưng chưa thể khởi công do giá bán điện hiện tại thấp hơn giá thành sản xuất Việt Nam sở hữu tiềm năng địa nhiệt lớn và có khả năng phát triển nhiều nhà máy điện địa nhiệt Tuy nhiên, hiện nay, ứng dụng địa nhiệt tại Việt Nam chủ yếu chỉ dừng lại ở một số lĩnh vực như ngâm tắm, bể bơi, du lịch, sản xuất muối iot, chăn nuôi, chữa bệnh và đóng chai nước khoáng.
Figure 1: Sơ đồ nhà máy điện địa nhiệt
1.3.4/ Biogas : là khí sinh học, thành phần chính là Methane, CO2 cùng với các loại khí khác phát sinh từ hợp chất hữu cơ khi phân hủy Biogas thường được sản xuất bằng cách ủ các chất thải hữu cơ trong chăn nuôi,rác thải sinh hoạt Theo thông tin từ Bộ Tài nguyên và Môi trường, ước tính mỗi năm có 47 triệu tấn chất thải từ ngành chăn nuôi và khoảng 13 triệu tấn rác thải sinh hoạt (rác thải hữu cơ) từ khu vực nông thôn, trong đó hầu hết chưa được xử lý tốt, dẫn đến ô nhiễm môi trường. Quá tải chất thải đang là một vấn đề nóng không chỉ ở các đô thị lớn, mà còn ở cả các vùng nông thôn, nơi sinh sống của 65% dân số Việt Nam Trên thế giới, rác thải hữu cơ được sử dụng để sản xuất năng lượng tái tạo, nhưng tại Việt Nam, hiện số nhà đầu tư phát triển lĩnh vực này còn khá khiêm tốn Trong khi đó, ngành điện đang chịu áp lực lớn về việc cung cấp điện cho hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp, cũng như nhu cầu dân sinh Nhu cầu tiêu thụ điện của năm 2019 được ước tính cao gấp đôi so với năm 2018 và tăng lên gấp ba vào năm 2020.Khi rác thải hữu cơ được ủ kín sẽ sinh ra biogas - một loại khí có thể bắt lửa nên được sử dụng làm chất đốt, đồng thời nguồn năng lượng này còn có thể biến đổi thành điện năng sử dụng để chiếu sáng, chạy các thiết bị điện Nhưng hiện mới có khoảng 15% số
Ngày 19, nhiều hầm không đạt hiệu quả do sử dụng công nghệ lạc hậu, thường xả thải trực tiếp ra hệ thống kênh, ao, hồ, gây ô nhiễm môi trường Những vấn đề này cho thấy tiềm năng phát triển lớn để giảm thiểu ô nhiễm môi trường và thúc đẩy ngành năng lượng.
1.3.5/ Năng lượng sóng: Là năng lượng tạo ra do sự chuyển động lên xuống của sóng biển Theo kết quả nghiên cứu của các chuyên gia Viện Nghiên cứu Biển và Hải đảo, tổng công suất năng lượng sóng năm là 212 TWh/năm, chiếm gần 1% tổng giá trị toàn cầu, đạt 90% nhu cầu điện năng hiện tại của Việt Nam là 230 TWh/năm. Riêng khu vực ven biển từ Quảng Ngãi – Ninh Thuận có tiềm năng năng lượng sóng biển tốt nhất trên dải bờ biển Việt Nam Tiếp theo đó là khu vực bờ biển Quảng Bình – Quảng Nam, Bình Thuận – Bạc Liêu Là một dạng năng lượng vô tận, không tạo chất thải, không đòi hỏi bảo trì cao và hoàn toàn miễn phí, nhưng gần như không thể dự đoán nên sự lệ thuộc vào tự nhiên rất lớn Bên cạnh đó, không phải nơi nào cũng thích hợp xây dựng mô hình năng lượng này Ở Việt Nam, vấn đề nghiên cứu và sử dụng năng lượng sóng biển chưa được quan tâm nhiều, nhưng với các hòn đảo vùng ven biển, điện từ sóng biển có thể trở thành nguồn năng lượng tiềm năng và vô tận khi giá thành điện từ nguồn năng lượng này mang tính cạnh tranh Nếu sử dụng được điện năng từ sóng biển, đặc biệt khi công nghệ sản xuất điện sóng ngày càng tiến bộ thì điện từ sóng biển sẽ có thể đóng góp vai trò quan trọng trong việc sử dụng năng lượng xanh, đa dạng hóa nguồn năng lượng góp phần trong an ninh năng lượng quốc gia thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội Việt Nam là quốc gia biển với diện tích mặt biển lớn và bờ biển dài, giàu tiềm năng kinh tế cũng như năng lượng.
Nghiên cứu chuyển đổi năng lượng sóng là rất quan trọng để phát triển các trạm năng lượng tại các vùng ven biển và hải đảo, nhằm cung cấp điện cho các phao tín hiệu, tàu neo đậu và căn cứ hải quân.
1.3.6/ Năng lượng thủy triều : là loại năng lượng tái tạo được sinh ra từ sự lên xuống của thủy triều Việc khai thác năng lượng thủy triều mở ra một triển vọng lớn, hạn chế tối đa phát thải khí cacbonic gây hiệu ứng nhà kính Việt Nam với hơn 3000 km đường bờ biển chưa kể tới các đảo và quần đảo nên có tiềm năng rất lớn để phát triển năng lượng từ thủy triều Tuy nhiên, rất tiếc là sự đầu tư và khai thác nguồn năng lượng sạch này khá chậm so với thế giới đã và đang thực hiện Hiện tại, phát triển năng lượng biển ở nước ta mới chỉ ở giai đoạn hết sức sơ khai Bên cạnh đó,Việt Nam còn khá chậm trong việc xem xét có nên gia nhập Nhóm Quốc tế về Năng lượng Đại dương.
Năng lượng tái tạo mang lại nhiều ưu điểm nổi bật, bao gồm việc là nguồn năng lượng sạch và thân thiện với môi trường, giúp giảm thiểu ô nhiễm Nó không chỉ tiết kiệm điện năng cho các hộ gia đình và doanh nghiệp mà còn cung cấp nguồn năng lượng vô hạn với chi phí nguyên liệu và bảo dưỡng thấp.
Nhược điểm của hệ thống năng lượng này bao gồm chi phí đầu tư ban đầu cao, hiệu suất hoạt động có thể bị ảnh hưởng bởi các yếu tố thời tiết và thiên nhiên, và khó khăn trong việc sản xuất một lượng điện lớn.
Theo Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức trong phát triển năng lượng tái tạo, bao gồm giá điện cao, thiếu vốn dài hạn và cơ chế tài chính phù hợp Khung chính sách hiện tại còn hạn chế do chưa có Luật và Nghị định về năng lượng tái tạo, cùng với cơ chế hỗ trợ chưa đủ hấp dẫn để thu hút nhà đầu tư Hệ thống lưới điện truyền tải phát triển chậm, phụ thuộc vào kỹ thuật và chuyên gia nước ngoài, trong khi thiết bị chủ yếu phải nhập khẩu Ngoài ra, việc thiếu quy hoạch tổng thể và cơ sở dữ liệu tin cậy về nguồn năng lượng tái tạo cũng là những rào cản lớn trong quá trình phát triển.
Năng lượng hạt nhân
Công nghệ hạt nhân là phương pháp được phát triển nhằm khai thác năng lượng từ hạt nhân nguyên tử thông qua các lò phản ứng hạt nhân có kiểm soát, giúp tách biệt và sử dụng năng lượng hữu ích.
Nhà máy điện hạt nhân sản xuất điện năng quy mô công nghiệp bằng cách chuyển đổi nhiệt năng từ các phản ứng hạt nhân thành điện năng.
Công suất nhiệt khoảng 100KW/ lít, lớn hơn rất nhiều so với việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch.
Cấu tạo chính nhà máy hạt nhân: lò phản ứng hạt nhân, máy phát điện chạy bằng hơi nước, turbine, bộ phận ngưng tụ.
Ưu điểm : cung cấp nguồn năng lượng lớn, nguồn nhiên liệu sạch, không thải ra khí nhà kính hay bụi mịn, chỉ cần 1 lượng uranium rất nhỏ.
Nhược điểm : tạo ra chất phóng xạ ảnh hưởng đến môi trường và con người, chất thải tạo ra cần lưu trữ rất lâu.
Tình hình phát điện trên TG và VN
Trong bối cảnh kinh tế thế giới tăng trưởng chậm, ngành điện cũng chịu ảnh hưởng tiêu cực Tổng sản lượng điện toàn cầu năm 2019 đạt 27.004,7 tỷ kWh, tăng 1,3% so với năm 2018, nhưng mức tăng này chỉ bằng một nửa so với giai đoạn 2008-2018, khi tỷ lệ tăng trưởng đạt 2,7%.
Figure 3: Sản lượng điện toàn cầu 2019
Sản lượng điện tại các khu vực như CIS, Trung Đông, châu Phi và châu Á-TBD đã có sự tăng trưởng, lần lượt là 1,0%, 3,3%, 2,9% và 3,1% Tuy nhiên, ngoại trừ CIS, các khu vực này đều ghi nhận mức tăng thấp hơn mức trung bình giai đoạn 2008 - 2018, đặc biệt là châu Á-TBD với 3,1% so với 5,4% và Trung Đông với 3,3% so với 4,8%.
Sản lượng điện giảm ở một số khu vực, cụ thể là Bắc Mỹ giảm 0,6%, Nam và Trung Mỹ giảm 0,1%, và châu Âu giảm 1,8% Đặc biệt, châu Âu ghi nhận mức giảm mạnh hơn so với mức giảm trung bình 0,1% trong giai đoạn 2008 - 2018.
Nhóm các nước OECD giảm 1%, EU giảm 1,7%, trong khi nhóm các nước ngoài OECD tăng 3,0%, nhờ đó kéo theo sự gia tăng của toàn cầu 1,3%.
Figure 4: Biểu đồ điện sản xuất của các khu vực 2019
Trong khu vực, có sự chênh lệch rõ rệt giữa các nước, với một số nước ghi nhận mức tăng trưởng cao, trong khi những nước khác lại trải qua sự giảm sút, thậm chí là giảm mạnh.
1/ Tại Bắc Mỹ: Canada tăng 1,2%; Mexico tăng 4,2%, còn Mỹ giảm 1,3%.
2/ Tại Nam và Trung Mỹ: Đa phần các nước tăng, trong đó Ecuado tăng tới 10,7% và có
3 nước giảm: Ác-hen-ti-na giảm 4,7%; Colombia giảm 3,9% và Venezuela giảm tới-19,3%.
3/ Tại châu Âu: Đa phần các nước giảm, trong đó giảm sâu nhất là Bồ Đào Nha (10%);
Na Uy (8,3%); Rumani (8,2%) và Hy Lạp - 5,8% Ngược lại, một số nước tăng, thậm chỉ tăng cao như Bỉ (24,9%); Áo (8,0%); Hungari (6,0%) và Hà Lan (5,8%).
4/ Tại CIS: Các nước đều tăng theo đà tăng của giai đoạn 2008 - 2018, nhờ đó cả khu vực tăng 1% bằng mức tăng bình quân của giai đoạn 2008 - 2018 là 1%.
5/ Tại Trung Đông: Hầu hết các nước tăng, trong đó Iraq tăng cao tới 31,6%; chỉ có Ôman và Ả rập Xê-ud giảm nhẹ, tương ứng là - 0,7% và - 0,5%.
6/ Tại châu Phi: Hầu hết các nước tăng, trong đó Morocco tăng tới 16,6%; một số nước giảm, trong đó có Nam Phi 1,5%.
Tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, hầu hết các quốc gia ghi nhận sự tăng trưởng, trong đó Bangladesh dẫn đầu với mức tăng 10,6%, tiếp theo là Việt Nam với 8,7%, Philippines đạt 6,0% và Thái Lan 5,0% Ngược lại, một số nước như Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan lại có mức giảm, lần lượt là 1,9%; 1,5% và 0,5%.
Sự biến động sản lượng điện ở các khu vực và nhóm nước không phản ánh một xu hướng chung, mà chủ yếu phụ thuộc vào tình hình và bối cảnh riêng của từng quốc gia.
Mười quốc gia có quy mô sản lượng điện lớn nhất thế giới bao gồm: Trung Quốc (27,8%), Mỹ (6,3%), Ấn Độ (5,8%), Nga (4,1%), Nhật Bản (3,8%), Canada (2,4%), Brazil (2,3%), Đức (2,3%), Hàn Quốc (2,2%) và Pháp (2,1%) Tổng sản lượng điện của mười quốc gia này chiếm 69,1% tổng sản lượng điện toàn cầu.
Năm 2019, sản lượng điện bình quân đầu người trên toàn thế giới đạt 3.501 kWh/người Bắc Mỹ dẫn đầu với 10.984 kWh/người, cao gấp hơn 3 lần mức trung bình toàn cầu Các khu vực khác như Nam và Trung Mỹ có sản lượng 2.555 kWh/người, châu Âu đạt 5.888 kWh/người, CIS là 5.827 kWh/người, Trung Đông là 4.928 kWh/người, châu Phi chỉ có 666 kWh/người, trong khi châu Á-Thái Bình Dương đạt 3.011 kWh/người Nhóm nước OECD có sản lượng 8.516 kWh/người, còn nhóm nước không thuộc OECD là 2.545 kWh/người, và EU đạt 6.275 kWh/người.
Trong số 10 quốc gia có sản lượng điện bình quân đầu người cao nhất, Canada dẫn đầu với 31.357 kWh/người, tiếp theo là Na Uy với 25.009 kWh/người Cô-oet và Qatar lần lượt ghi nhận 17.815 kWh/người và 17.173 kWh/người Thụy Điển đạt 16.929 kWh/người, trong khi UAE có 14.135 kWh/người Mỹ đứng ở vị trí thứ bảy với 13.374 kWh/người, Phần Lan đạt 12.401 kWh/người, Đài Loan có 11.531 kWh/người, và Hàn Quốc ghi nhận 11.415 kWh/người.
Nhiều quốc gia trên thế giới có sản lượng điện bình quân đầu người rất thấp, dưới 1.000 kWh/người, như Bangladesh (550 kWh), Pakistan (628 kWh) và Philippines (979 kWh) Đặc biệt, nhiều nước ở châu Phi có mức tiêu thụ điện còn thấp hơn 500 kWh/người, dẫn đến mức bình quân đầu người của châu lục này chỉ đạt 666 kWh.
Figure 6: Biểu đồ sản lượng điện bình quân đầu người các nước 2019
Vào năm 2019, sản lượng điện của Việt Nam đạt khoảng 211 tỷ KWh, với bình quân đầu người chỉ đạt 2.357 kWh, tương đương 78,3% mức trung bình của châu Á-TBD và 67,3% của thế giới So với các quốc gia trong khu vực, chỉ số này thấp hơn Malaysia (45,2%) và Trung Quốc (44%), cũng như không đạt mức của Thái Lan, trong khi còn kém xa so với Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Singapore.
Nhiệt điện than bình quân đầu người (kWh/người) toàn thế giới là 1.343 Trong đó, Bắc
Mỹ (2.296), Nam và Trung Mỹ (143), châu Âu (1.030), CIS (1.076), Trung Đông (88), châu Phi (194), châu Á-TBD (1.750) Nói chung có sự khác nhau đáng kể giữa các khu vực.
Các quốc gia có mức tiêu thụ nhiệt điện than bình quân đầu người cao nhất bao gồm: Úc (5.933 kWh/người), Kazakhstan (4.210 kWh/người), Hàn Quốc (4.662 kWh/người), Đài Loan (5.311 kWh/người), Trung Quốc (3.472 kWh/người), Ba Lan (3.174 kWh/người), Mỹ (3.201 kWh/người), Nhật Bản (2.573 kWh/người), Đức (2.050 kWh/người) và Malaysia (2.229 kWh/người).
Riêng của Việt Nam là 1.166, bằng 86,8% của thế giới, 66,6% của châu Á - TBD, 52,3% của Malaysia, 45,3% của Nhật Bản và rất thấp so với Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc, v.v
Nhiệt điện than đã và đang giữ vai trò chính trong việc sản xuất điện của thế giới nói chung và của nhiều nước nói riêng.
Sự phát triển của công nghệ sản xuất điện từ than là yếu tố quan trọng thúc đẩy ngành nhiệt điện than Những cải tiến trong lò hơi và tua bin đã đưa đến các cấp độ hiệu suất mới như Tới hạn, Siêu tới hạn, Trên siêu tới hạn và Trên siêu tới hạn tiên tiến, giúp tăng hiệu suất phát điện từ 20% lên tới 65% và giảm lượng phát thải CO2 từ 1.800 g/kWh xuống dưới 600 g/kWh Cụ thể, mỗi 1% tăng hiệu suất sẽ giảm 2-3% lượng khí thải Nếu hiệu suất bình quân của nhiệt điện than toàn cầu được nâng từ 33% lên 40%, sẽ có khả năng giảm phát thải khí CO2 lên tới 2 tỷ tấn mỗi năm.
Sản lượng điện bình quân đầu người ở Việt Nam, bao gồm cả tổng số và riêng nhiệt điện than, hiện vẫn còn thấp hơn nhiều so với các quốc gia khác trên thế giới và trong khu vực.
Cơ cấu sản lượng điện của mỗi quốc gia phụ thuộc vào mức độ phát triển kinh tế, tiềm năng tài nguyên năng lượng trong nước, và khả năng tiếp cận nguồn tài nguyên năng lượng từ nước ngoài Vì vậy, không thể sử dụng cơ cấu bình quân toàn cầu làm tiêu chuẩn cho từng quốc gia để định hướng phát triển.