Lịch sử vấn đề
Thơ văn Nguyễn Quang Bích đóng vai trò quan trọng trong nền văn chương trung đại Việt Nam, dẫn đến việc nhiều công trình nghiên cứu đã được thực hiện về ông Nhân kỷ niệm 100 năm ngày mất của nhà thơ, một Hội thảo khoa học đã diễn ra tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám (Hà Nội) vào ngày 29-5-1991, thu hút nhiều tham luận liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp và các giá trị văn chương của Nguyễn Quang Bích.
Trong công trình "Thơ văn Nguyễn Quang Bích" (NXB Văn học, Hà Nội, 1973), tác giả giới thiệu về Nguyễn Quang Bích với hai phần chính: công cuộc chống Pháp và thơ văn trong Ngư Phong thi tập Nhóm tác giả nhấn mạnh tư tưởng yêu nước là chủ đạo của Ngư Phong thi tập, được thể hiện qua bốn biểu hiện cơ bản: ý thức cứu nước mạnh mẽ, tình yêu thiên nhiên đất nước sâu sắc, tình thương yêu đồng chí nồng nàn, và lòng căm thù giặc sâu sắc, cùng sự gắn bó chân thành với nhân dân lao động Về mặt nghệ thuật, Ngư Phong thi tập nổi bật với sự kết hợp hài hòa giữa hiện thực và trữ tình.
Công trình nghiên cứu Nguyễn Quang Bích nhà yêu nước, nhà thơ do
Nxb Khoa học xã hội đã ấn hành một tác phẩm vào năm 1994 mô tả cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Nguyễn Quang Bích, chia thành ba phần rõ ràng Phần một là tiến trình kỷ niệm về Nguyễn Quang Bích, phần hai là chuyên khảo gồm ba chương: chương I nói về gia đình, dòng họ và quê hương của ông; chương II khám phá hành trình từ ông quan Tuần phủ Hưng Hóa đến vị lãnh tụ Cần Vương; chương III phân tích vị trí của Ngư Phong thi văn tập Phần ba cung cấp thư mục, niên biểu và tư liệu Đặc biệt, chương trong phần hai giới thiệu nghiên cứu thơ văn của Nguyễn Quang Bích do Nguyễn Huệ Chi thực hiện, nhấn mạnh sự phát triển vượt bậc trong cảm hứng sáng tác của nhà thơ.
Nguyễn Lộc trong công trình Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX
Trong chương VI của cuốn sách do Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp phát hành năm 1976, tác giả Nguyễn Lộc đã giới thiệu về Nguyễn Quang Bích, một nhà thơ và nhà yêu nước nổi bật Chương này cung cấp cái nhìn tổng quan về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Quang Bích, nhấn mạnh những đóng góp của ông cho văn học và phong trào yêu nước.
Phong thi tập phản ánh con người Nguyễn Quang Bích, một người thích trải nghiệm và thường chia sẻ nỗi buồn hơn là niềm vui trong trạng thái cô đơn Tuy nhiên, cảm hứng trữ tình trong thơ ông không chỉ xuất phát từ vẻ đẹp thiên nhiên miền Tây Bắc, mà còn từ tình yêu thương gia đình, đồng chí và sự quan tâm sâu sắc đến vận mệnh của Tổ quốc.
Nghiên cứu về giá trị nội dung và nghệ thuật thơ văn của Nguyễn Quang Bích đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu với các mục đích khác nhau, dẫn đến việc phát hiện và làm rõ nhiều vấn đề liên quan đến thơ ông Các ý kiến thống nhất đã được ghi nhận về những đóng góp và vai trò của Nguyễn Quang Bích trong nền thơ ca dân tộc Luận văn của chúng tôi tập trung vào hình tượng “cái tôi” trữ tình trong Ngư Phong thi tập, với sự giới hạn vào các công trình và bài viết liên quan đến con người, chủ thể trữ tình cũng như các phương diện nghệ thuật thể hiện “cái tôi” trong thơ của ông.
Theo quan sát, vấn đề "cái tôi" trữ tình trong thơ Nguyễn Quang Bích chưa được nghiên cứu chuyên sâu trong một công trình cụ thể, chỉ có một số bài viết và báo khoa học rải rác Việc sưu tập tài liệu về vấn đề này không hề đơn giản Dựa trên tư liệu hiện có, chúng tôi xin lược thuật một số khía cạnh liên quan.
Bài viết "Truyền thống và cách tân trong thơ Nguyễn Quang Bích" của Nguyễn Huệ Chi nhấn mạnh sự kết hợp tinh tế giữa cái cũ và cái mới trong Ngư Phong thi tập Tác giả chỉ ra rằng câu thơ của Ngư Phong vẫn giữ được sự nhẹ nhàng, trầm mặc của thơ luật cổ điển, thậm chí có sự ảnh hưởng từ thơ Đường, nhưng đồng thời cũng mang đến một lượng thông báo mới mẻ so với thơ ca cổ truyền của thế kỷ XIX.
Trong chuyên luận "Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam" của Trần Đình Sử và Nguyễn Hữu Sơn, nghiên cứu về con người cá nhân trong văn học trung đại được mở rộng, đặc biệt là trong thơ Nguyễn Quang Bích Chương VII với chủ đề "Con người nhà Nho bất lực trước thời cuộc" đã chỉ ra bi kịch cá nhân của Nguyễn Quang Bích, một nhà Nho mang lý tưởng cao đẹp nhưng lại cảm thấy sự bất lực trước thực tại Tác giả nhấn mạnh rằng, càng ý thức trách nhiệm với dân tộc, nhà thơ càng đau khổ, khi lý tưởng làm người quân tử không thể thực hiện và tương lai trở nên vô vọng Bi kịch này thể hiện sự mâu thuẫn giữa lý tưởng và hiện thực, tạo nên một hình ảnh sâu sắc về sự bất lực và vô vọng trong cuộc sống của nhà thơ.
Nguyễn Hữu Sơn tiếp tục nghiên cứu về con người cá nhân thông qua bài viết về Nguyễn Quang Bích, mang tên "Nhận diện con người cá nhân trong Ngư Phong thi tập" Bài viết phân tích một số bài thơ của Nguyễn Quang, nhằm làm nổi bật những đặc điểm và giá trị nhân văn trong tác phẩm.
Bích trong thi tập của mình đã thể hiện rõ ràng sự “nhận diện” con người cá nhân qua nhiều hình thức thơ khác nhau Tác giả chỉ ra rằng có một phần thơ triết lý, đề vịnh không trực tiếp thể hiện con người cá nhân, bên cạnh đó là những tác phẩm tự thuật phản ánh hành trình cuộc đời và hình ảnh con người Đặc biệt, một bộ phận thơ ca tự bộc lộ tâm trạng và cảnh ngộ riêng tư, làm nổi bật đời sống nội tâm của tác giả Bài viết của Nguyễn Hữu Sơn là một nguồn gợi dẫn quan trọng cho việc tìm hiểu sâu hơn về hình tượng “cái tôi” trữ tình trong thơ của Nguyễn Quang Bích.
Trần Nho Thìn trong bài viết "Chủ thể - Khách thể" đã chỉ ra mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể trong thơ Nguyễn Ông nhấn mạnh rằng phương pháp tư duy truyền thống này giúp hiểu rõ hơn về cách thức thể hiện cảm xúc và tư tưởng trong tác phẩm Mối quan hệ này không chỉ phản ánh sự tương tác giữa nhà thơ và đối tượng mà còn làm nổi bật giá trị nghệ thuật trong thơ ca.
Nguyễn Quang Bích, như nhiều nhà Nho trung đại, thể hiện rõ mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể trong sáng tác của mình Ông nhấn mạnh rằng khách thể không chỉ là đối tượng để cảm nhận mà còn là chất xúc tác giúp chủ thể bộc lộ bản chất Tác phẩm của ông góp phần làm sáng tỏ một khía cạnh quan trọng của lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX Trong bối cảnh lịch sử đầy biến động, các nhà Nho đã nhận thức rõ điểm mạnh và điểm yếu của mình cũng như của kẻ thù, từ đó xây dựng kế hoạch chiến đấu kiên cường chống lại thực dân Pháp.
Nguyễn Quang Bích và Nguyễn Khuyến, hai tác giả cùng thời, đều có mối quan hệ đồng môn và cùng tham gia kỳ thi năm Kỷ Tỵ (1869) trước khi trở thành quan triều Nguyễn Cả hai đều thể hiện tài năng qua việc sử dụng hình tượng thiên nhiên sống động, gần gũi trong sáng tác của mình, điều mà thơ ca cổ điển trước đó ít đề cập Trong khi Nguyễn Khuyến khéo léo miêu tả vẻ đẹp mộc mạc của đồng bằng Bắc Bộ, thì Nguyễn Quang Bích cũng không kém phần xuất sắc khi vẽ nên bức tranh thơ mộng của núi rừng Tây Bắc Họ là hai nhà Nho yêu nước, góp phần làm phong phú thêm nền văn học trung đại Việt Nam với những tác phẩm đầy ý nghĩa.
Tìm hiểu về những nội dung được biểu hiện trong Ngư Phong thi tập,
Trần Đình Sử nhận định rằng nỗi buồn trong thơ Nguyễn Quang Bích có những đặc điểm riêng biệt cần được chú ý Ông khẳng định rằng nỗi buồn này không xuất phát từ sự chán nản hay yếu đuối, mà là kết quả của những hoàn cảnh bi kịch khách quan Việc tìm hiểu nguồn gốc của nỗi buồn dẫn đến những ý niệm về thời gian, thực trạng khó khăn, và sự bất lực, cho thấy đây là cội nguồn chủ quan của nỗi buồn Trần Đình Sử thể hiện lòng tri ân đối với Nguyễn Quang Bích qua những phân tích sâu sắc này.
Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi áp dụng phương pháp hệ thống để nghiên cứu toàn bộ tập thơ Ngư Phong thi tập của Nguyễn Quang Bích, nhằm mang đến cái nhìn toàn diện về nội dung tư tưởng và phong cách nghệ thuật của ông Đồng thời, chúng tôi cũng đặt thơ Nguyễn Quang Bích trong bối cảnh thơ ca trung đại Việt Nam và thơ ca cuối thế kỷ XIX để phát hiện những điểm tương đồng và khác biệt Mỗi tác phẩm được xem như một chỉnh thể nghệ thuật, thể hiện sự thống nhất giữa các yếu tố nội tại.
Chúng tôi áp dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử xã hội để khám phá mối liên hệ giữa văn học và thời đại lịch sử, xã hội mà nó phát sinh Thời đại mà tác giả sống là một giai đoạn đầy biến động, và "Ngư Phong thi tập" thực sự là một nhật ký bằng thơ phản ánh cuộc đời ông cũng như một giai đoạn bi tráng của lịch sử dân tộc Việc sử dụng phương pháp này không chỉ giúp hiểu sâu sắc hơn về tác phẩm, mà còn làm nổi bật những đóng góp của nhà thơ trong việc ghi lại hiện thực xã hội đương thời.
Chúng tôi sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp để khám phá những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật thể hiện “cái tôi” trữ tình trong Ngư Phong thi tập của Nguyễn Quang Bích Qua đó, sự sáng tạo và đóng góp của Ngư Phong thi tập đối với thơ ca văn học thời trung đại được làm nổi bật.
Các phương pháp trên được sử dụng một cách linh hoạt trong quá trình nghiên cứu đề tài.
Đóng góp của luận văn
Luận văn khảo sát về "cái tôi" trữ tình trong tập thơ Ngư Phong nhằm làm sáng tỏ hình tượng nhà thơ Nguyễn Quang Bích, người thể hiện tinh thần yêu nước kiên trung và khát vọng cao đẹp Đồng thời, tác phẩm cũng phản ánh những tâm sự nhàn tản và nỗi u uẩn cá nhân trong bối cảnh lịch sử đầy khó khăn của dân tộc nửa cuối thế kỷ XIX Qua đó, luận văn góp phần xác định vị trí của thơ văn Nguyễn Quang Bích trong văn học trung đại và nền văn học dân tộc.
Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, luận văn của chúng tôi dự kiến triển khai trên cấu trúc 3 chương:
Chương 1: Nguyễn Quang Bích và Ngư Phong thi tập,
Chương 2: Hình tượng “cái tôi” trữ tình trong Ngư Phong thi tập - nhìn từ phương diện nội dung,
Chương 3: Hình tượng “cái tôi” trữ tình trong Ngư Phong thi tập - nhìn từ phương diện hình thức nghệ thuật.
NGUYỄN QUANG BÍCH VÀ NGƯ PHONG THI TẬP
Nguyễn Quang Bích, nhà Nho chiến sĩ – thi sĩ
1.1.1 Con đường trở thành nhà Nho chiến sĩ
Từ nửa cuối thế kỷ XIX, trước sự xâm lược mạnh mẽ của quân Pháp, giai cấp phong kiến cầm quyền đã bộc lộ sự hèn nhát và bất lực, phân hóa thành hai phái chủ chiến và chủ hòa Đại bộ phận phong kiến mang tư tưởng thất bại và sợ giặc, phản ứng yếu ớt trước sự đe dọa đến quyền lợi giai cấp Mặc dù có chống cự ban đầu, nhưng sức chống cự hạn chế đã dẫn đến việc họ từng bước đầu hàng kẻ thù, cuối cùng dâng hiến lãnh thổ Trong khi đó, nhân dân với truyền thống bất khuất đã kiên quyết chống lại sự đầu hàng của triều đình, đứng dậy kháng chiến một cách anh dũng và bền bỉ.
Sau 5 tháng tấn công ở bán đảo Sơn Trà, thực dân Pháp chuyển hướng tấn công vào phía Nam nơi mà theo tính toán của họ, do xa xôi cách trở với triều đình, lại ở chỗ đất rộng người thưa, có thể dễ dàng chiếm giữ Những toan tính xảo quyệt của giặc Pháp xem ra không phải không có cơ sở Khác với tình hình chiến sự tại mặt trận miền Trung, ở Nam Kì, quân Pháp không gặp nhiều khó khăn trong việc phá vỡ thế trận phòng thủ của triều đình Tuy nhiên, có một điều chúng không thể ngờ tới là sự phản kháng mãnh liệt của người dân địa phương Trong khi các đồn lũy triều đình nhanh chóng bị tan vỡ trước sức tấn công của đội quân xâm lược thì nhân dân lục tỉnh, dưới sự chỉ huy của những thủ lĩnh danh tiếng như Trương Định, Võ Duy Dương, Nguyễn Thành Ý, Phan Trung, Trần Xuân Hòa, Đốc binh Kiều vẫn kiên cường tiếp tục cuộc kháng chiến Cuộc chiến tranh du kích do những người dân Nam kì tiến hành liên tục trong một thời gian dài đã gây nên bao nỗi kinh hoàng cho đội quân viễn chinh Trong bối cảnh này, nhà cầm quyền Việt Nam đã đưa ra những quyết sách rất lạ lùng Thay vì củng cố lực lượng, tổ chức dân binh thừa cơ giặc lúng túng mà dấn tới thì vua tôi lại chủ trương hòa nghị với giặc Đây là lúc triều Nguyễn bộc lộ sự yếu kém toàn diện của mình trong quản lý và điều hành đất nước, trong những quyết sách quan trọng liên quan đến vận mệnh quốc gia Những kinh nghiệm triều chính cổ truyền đã không còn giúp ích gì cho vua tôi lúc này Họ cũng không còn đủ tỉnh táo để nắm bắt tình hình, không còn chút niềm tin nào vào khả năng của chính mình Trước những ý kiến trái ngược nhau của quần thần, một ông vua vốn thông minh, nhạy cảm như Tự Đức cũng trở nên rối trí Triều đình đã không nhận thấy cái hào khí dân tộc vốn tiềm tàng qua nghìn đời nay vẫn đang trào dâng mãnh liệt trong mỗi con người Việt Nam Vua tôi chỉ còn biết thủ hòa và trông chờ sự cứu giúp từ bên ngoài, cụ thể là mượn uy vũ của thiên triều Mãn Thanh để chống lại “rợ Tây” Điều trớ trêu là ở chỗ nhà Mãn Thanh - nơi trông cậy cuối cùng của Tự Đức - cũng chỉ là một miếng mồi đang bị phương Tây xâu xé Trong cơn tuyệt vọng vì không còn chỗ trông cậy từ bên ngoài, triều đình quay ra thỏa hiệp với giặc Các hiệp ước và hàng ước (các năm 1862, 1864,
Vào năm 1867, các hiệp ước liên tiếp được ký kết, công nhận quyền cai trị của Pháp tại Nam Kỳ Trên thực tế, dưới áp lực và sức mạnh của kẻ thù, triều đình nhà Nguyễn đã sớm phân rã và trở nên tê liệt Với thái độ lúng túng, thiếu quyết đoán và thậm chí nhu nhược của người lãnh đạo, bộ máy chính quyền đã rơi vào tình trạng hoàn toàn rối loạn.
Trong bối cảnh đất nước khốn khó, hình mẫu vua cứu dân không còn khả thi, tầng lớp nhà Nho với tư tưởng yêu nước đã thể hiện lòng yêu nước mạnh mẽ và chỉ trích những kẻ hại dân Họ trăn trở tìm kiếm con đường cứu nước chống Pháp, đề cao tinh thần anh hùng và khí tiết của nhà Nho, từ đó cảm hóa nhiều người tham gia kháng chiến Nhân dân đã nổi dậy chống Pháp dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu yêu nước, dẫn đến nhiều cuộc khởi nghĩa trên toàn quốc như ở Tây Bắc, Hưng Yên, và Quảng Bình, với những nhân vật tiêu biểu như Đinh Công Tráng và Phan Đình Phùng Phong trào Cần Vương kéo dài đến cuối thế kỷ XIX, mặc dù thất bại nhưng đã thể hiện tinh thần yêu nước và ý thức tự tôn dân tộc Những tấm gương hy sinh anh dũng như Phan Đình Phùng đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng dân tộc.
Gạt nước mắt nhìn kĩ về hướng kinh thành, Đau lòng vì vua vì nước, nước mắt chan chứa
Nguyễn Trung Trực từng phát biểu đầy cảm khái trước khi bị giặc Pháp hành hình rằng: “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam mới hết người Nam đánh Tây” Trong bối cảnh năm 1888, khi vua Hàm Nghi bị bắt và các chính quyền thân Pháp liên tục được dựng lên, hào khí Cần Vương dần tắt, khiến cho tình hình đất nước trở nên ảm đạm Lịch sử Việt Nam nửa sau thế kỷ XIX ghi dấu ấn của phong trào đấu tranh chống xâm lược vì độc lập dân tộc, tạo nên một cuộc kháng chiến lâu dài và khốc liệt, ảnh hưởng sâu sắc đến văn học thời kỳ này Văn học phát triển gắn bó chặt chẽ với các diễn biến lịch sử và chịu tác động mạnh mẽ từ đời sống chính trị xã hội, với tính thời sự trở thành đặc điểm nổi bật Những nội dung và mục tiêu của tác phẩm văn học phản ánh sự tồn vong của giang sơn, vấn đề quốc gia cấp bách, trở thành mối quan tâm hàng đầu trong văn chương Các nhà Nho yêu nước đã kế thừa và phát huy chủ nghĩa yêu nước truyền thống, thể hiện qua những lo lắng về vận nước và những xung đột chính trị Quá trình này đã tạo ra những xu hướng và mạch nguồn văn chương đa dạng, phong phú, phản ánh một giai đoạn lịch sử sôi động.
Ngoài bối cảnh lịch sử, ý thức hệ cũng đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách của con người nhà Nho – chiến sĩ.
Nguyễn Quang Bích nhấn mạnh rằng Nho giáo, trong thế kỷ XIX, vẫn giữ vai trò là quốc giáo, ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng của các tác giả nhà Nho Việt Nam Mối quan hệ giữa Nho giáo và văn học được thể hiện rõ ràng, khi Nho giáo coi văn học là một sự nghiệp quan trọng bên cạnh chính trị Theo Trần Đình Hượu, Nho giáo tác động trực tiếp đến văn học thông qua thế giới quan của người viết, bao gồm cách hiểu về mối quan hệ giữa thiên đạo và nhân sự, sự tồn tại của trời, và những quy luật chi phối đời sống Nho giáo còn định hình cách nhìn nhận thực tế, cổ kim, và xã hội, nhấn mạnh tầm quan trọng của cương thường và trách nhiệm cá nhân, từ đó khuyến khích con người quan tâm đến đạo đức và nhân tâm.
Nho giáo coi trọng sự học hành như một sứ mệnh lớn, trong đó "văn" được xem là linh thiêng và cao cả, liên quan đến Thiên đạo và Thiên lý Theo Trần Ngọc Vương, "văn" không chỉ là tài năng thiên phú mà còn là phương tiện truyền đạt tư tưởng Nho giáo, có khả năng giáo hóa con người Văn học trung đại không chỉ chạm đến cảm xúc mà còn phải phù hợp với tiêu chuẩn đạo đức, ca ngợi chính trị thái bình và thể hiện đạo lý cao đẹp.
Nhà Nho chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Nho giáo, dẫn đến quan niệm văn chương của họ cũng bị chi phối bởi các nguyên tắc mỹ học của Nho gia Hai quan niệm “Văn dĩ tải đạo” và “Thi dĩ ngôn chí” đã có tác động lớn đến văn học trung đại Việt Nam, với nhiệm vụ chính của văn học không phải là phản ánh hiện thực mà là truyền đạt đạo lý và giáo huấn xã hội Trần Đình Hượu nhấn mạnh rằng văn học có chức năng giáo hóa và không nhằm phát hiện hay phản ánh nhận thức, mà tập trung vào việc thể hiện đạo lý Cao Xuân Dục cũng cho rằng văn chương là một sự nghiệp lớn trong việc trị nước, phản ánh những giá trị bất hủ của đạo lý Tuy nhiên, văn chương cần gắn liền với hình tượng và hiện thực để thể hiện vấn đề luân lý và tâm chí của con người Quan niệm chính thống về thơ trong Nho giáo là “thi dĩ ngôn chí”.
"Thi ngôn chí" là một thể loại thơ đặc trưng của các nhà Nho, phản ánh sâu sắc tư tưởng và lý tưởng sống của họ Mỗi nhà Nho, từ khi học hành đến khi đỗ đạt và làm quan, đều để lại những tác phẩm thơ như Ngôn chí, Cảm hoài, Vịnh sử, Vịnh vật, và Ký ngụ, trong đó mạch thơ ngôn chí nổi bật hơn cả Ngôn chí không chỉ là một nguyên tắc sáng tác mà còn là nguồn năng lượng bền vững cho hành động, thể hiện đạo lý và lý tưởng sống Những tác phẩm của Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm như "Bình sinh độc bão tiên ưu chí Tọa ủng hàn khâm dạ bất miên" minh chứng cho tầm quan trọng của chí trong việc khẳng định chí hướng và bộc lộ tâm tư.
Bình sinh độc bão tiên ưu ch/ Đắc táng cùng thông khởi ngã ưu(Dịch nghĩa:
Suốt đời ta riêng ôm cái chí tiên ưu Còn chuyện được mất sướng khổ của riêng mình thì ta có lo chi - Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Chí xuất hiện trong nhiều bối cảnh khác nhau, nhưng thường gắn liền với trách nhiệm đối với vận mệnh đất nước và nhân dân Đối với nhà Nho, việc lập chí không chỉ quan trọng cho việc tu thân và phản tỉnh nội tâm, mà còn liên quan mật thiết đến các phạm trù khác của Nho giáo Qua chí hướng, có thể đánh giá mức độ tu dưỡng, phẩm chất và lý tưởng sống của mỗi người Chí lớn đòi hỏi tâm sáng, và hầu hết các nhà Nho đều thể hiện chí của mình qua sáng tác thi ca.
Nhà Nho trung đại sáng tác thơ ca trong bối cảnh văn hóa đặc trưng của thời đại, chịu ảnh hưởng từ các tư tưởng đương thời Nguyễn Quang Bích cũng nằm trong quy luật này, với nguồn gốc và hoàn cảnh sống tác động đến sáng tác của ông.
Nguyễn Quang Bích, một trí thức Nho học từ "cửa Khổng sân Trình", đã tiếp biến linh hoạt học thuyết Nho giáo để phù hợp với xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX Ông nhận thấy sức mạnh của Nho giáo trong việc giáo hóa và thu phục lòng người, đồng thời hiểu rằng thời đại của mình đang đối mặt với những thách thức lịch sử trong bối cảnh chống lại kẻ thù xâm lược Ông cũng xem Nho giáo như một phương tiện tích cực để xây dựng xã hội trật tự, ổn định theo khuôn mẫu có sẵn, mặc dù thời đại đã gần đến giai đoạn giao thời nhưng vẫn mang đậm ảnh hưởng của văn hóa Nho giáo.
Truyền thống yêu nước là một yếu tố quan trọng trong việc hình thành con người nhà Nho chiến sĩ, bên cạnh truyền thống Nho gia Ngay từ những ngày đầu lịch sử, người Việt đã phải đấu tranh chống giặc ngoại xâm để bảo vệ đất nước, từ đó chủ nghĩa yêu nước đã phát triển mạnh mẽ trong lòng dân tộc Lòng yêu nước gắn liền với những giá trị cao cả như tự hào, căm thù, khí phách anh hùng, và tình thương người, tạo nên tinh thần độ lượng và vị tha của người Việt Những biến động xã hội đã khơi dậy tinh thần yêu nước vốn có từ hàng nghìn năm, khiến nhân dân nhạy bén với cảm quan yêu nước, sẵn sàng hy sinh vì hòa bình và độc lập Lịch sử Việt Nam ghi dấu ấn hào hùng về lòng yêu nước, đặc biệt là trong nửa cuối thế kỷ XIX khi thực dân Pháp xâm lược, dẫn đến sự trỗi dậy mạnh mẽ của phong trào chống Pháp trên toàn quốc.
Nguyễn Quang Bích là một nhà lãnh đạo kiên cường và dũng cảm, thừa kế truyền thống anh hùng của dân tộc Việt Nam Ông nổi bật với vai trò là thủ lĩnh trong các phong trào chống Pháp và được nhân dân kính trọng Tình yêu nước và lòng căm thù giặc của ông không bao giờ nguôi, và ông đã tự nguyện hiến dâng cuộc đời mình cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập và hòa bình cho dân tộc.
Ngư Phong thi tập và hình tượng “cái tôi” trữ tình
Trong những ngày lãnh đạo nghĩa quân chống giặc ở Tây Bắc, Nguyễn
Nguyễn Quang Bích đã ghi lại những cảm xúc chân thực của mình trong Ngư Phong thi văn tập, một tác phẩm bao gồm thư từ, văn tế và gần 100 bài thơ viết bằng chữ Hán Những bài thơ này phản ánh sâu sắc tâm tư và nỗi niềm của tác giả, được hình thành từ những trải nghiệm trong cuộc chiến Trong bài tựa, ông khiêm tốn thừa nhận: “Tôi không biết thơ, lại không hay thơ,” nhưng lại sáng tác khi cảm xúc dâng trào trong những khoảnh khắc tĩnh lặng Điều này thể hiện quy luật muôn đời của sáng tạo nghệ thuật, nơi mà tính ước lệ và quy phạm của thơ trung đại dường như không còn là điều quan trọng Sự thay đổi trong môi trường sống và sáng tác đã ảnh hưởng đến phong cách và nội dung thơ của ông, cho thấy một góc nhìn mới mẻ và chân thực về cuộc sống.
Ông như được tái sinh với một tinh thần trẻ trung, bắt đầu viết thơ một cách say mê Trước đó, ông dường như chưa từng sáng tác, nhưng giờ đây, những vần thơ của ông mang đậm nỗi buồn lãng mạn, vừa trữ tình vừa hiện thực, thể hiện sự chân thành Điều này đánh dấu bước đầu cho những bùng nổ mới trong thơ ca dân tộc.
Nguyễn Quang Bích coi thơ là cách thể hiện cảm xúc trước con người và cảnh vật, nhằm bộc lộ nỗi lòng trong những lúc buồn phiền Tập thơ "Ngư Phong" ra đời từ cảm xúc chân thành của một nhà thơ yêu nước, thường mang nỗi buồn và cô đơn Ông chia sẻ rằng khi đêm khuya vắng vẻ, cảm xúc khiến ông viết thơ để tự an ủi Tập thơ này không chỉ phản ánh tinh thần yêu nước mà còn sử dụng thiên nhiên như một bối cảnh để bộc lộ tâm trạng Thiên nhiên trở thành bạn đồng hành, giúp nhà thơ khám phá những phẩm chất đạo đức cao quý của con người Ông viết nhiều về thiên nhiên và thế giới xung quanh, mỗi hình ảnh đều chứa đựng ý nghĩa biểu trưng sâu sắc, như hình ảnh cây tùng già bên đường.
“Đạo gian cổ tùng” qua cái nhìn của nhà thơ mang ý nghĩa sâu sắc về phẩm tiết cao đẹp của người quân tử Hoa huệ thẳng tắp với hương thơm tinh khiết biểu trưng cho lòng trong trắng, cao khiết của nhà Nho hành đạo Nguyễn Quang Bích Thế giới thiên nhiên sống động trong thơ của Nguyễn Quang Bích, in đậm dấu ấn của chính ông.
Ngư Phong thi tập được coi là “vần thơ yên ngựa”, nhưng không có tiếng gươm khua hay ngựa hí, mà chỉ là nỗi quặn đau và sầu buồn Nhà thơ đối diện với bi kịch lớn giữa lý tưởng cao đẹp và hiện thực phũ phàng, khi những khát khao cháy bỏng không thể thành hình Nỗi đau này luôn thường trực trong tâm hồn nhà thơ cho đến cuối đời.
1.2.2 “Cái tôi” và “cái tôi” trữ tình trong Ngư Phong thi tập
Hình tượng "cái tôi" trữ tình trong văn học trung đại phản ánh sự ý thức và phân hóa về giá trị con người trong bối cảnh thời đại Quá trình hình thành "cái tôi" diễn ra chậm rãi nhưng mạnh mẽ, thể hiện sự giải phóng cá tính trong cuộc sống thực tế Mặc dù bị ảnh hưởng bởi các giá trị truyền thống, sự thể hiện "cái tôi" vẫn có những giới hạn nhất định Nhiều tác phẩm không hoàn toàn phi ngã mà tồn tại song song với tính hữu ngã Mặc dù không rõ ràng như trong văn học hiện đại, "cái tôi" trữ tình vẫn là một mạch ngầm quan trọng trong dòng chảy của văn học Việt Nam.
Văn học không chỉ phản ánh đời sống mà còn là chân dung tinh thần của người sáng tạo Chủ thể sáng tạo không chỉ là nguồn gốc của giá trị tinh thần mà còn là đối tượng được miêu tả, đồng thời là phương tiện thể hiện nội dung tác phẩm Ở những nhà thơ có cá tính độc đáo, dấu ấn của chủ thể thể hiện rõ ràng qua từng từ, hình ảnh và dòng thơ Mối quan hệ giữa chủ thể và hình tượng nhân vật trữ tình rất quan trọng, cần phân biệt giữa chủ thể và “cái tôi”, với “cái tôi” của nhà thơ và “cái tôi” trữ tình trong tác phẩm Chủ thể được xem xét trong mối quan hệ với khách thể, thể hiện qua ý thức, ý chí và khả năng nhận thức “Cái tôi” là yếu tố giúp chủ thể tự nhận thức Trần Nho Thìn đã phân tích mối quan hệ chủ thể - khách thể trong thơ Nguyễn Quang Bích, nhấn mạnh rằng khách thể không chỉ là đối tượng cảm nhận mà còn có thể tác động đến chủ thể, trong khi chủ thể cần khách thể như một chất xúc tác để bộc lộ bản chất của mình.
"Cái tôi" của nhà thơ có mối quan hệ chặt chẽ với "cái tôi" trữ tình trong thơ, thể hiện qua vai trò trung tâm của nhà thơ trong tác phẩm Những trải nghiệm, tâm tư và kỷ niệm cá nhân được phản ánh rõ nét trong thơ, với "cái tôi" đôi khi bộc lộ trực tiếp những nỗi niềm sâu kín Tuy nhiên, "cái tôi" trữ tình không hoàn toàn đồng nhất với "cái tôi" của nhà thơ ngoài đời; "cái tôi" ngoài đời thuộc về xã hội học, trong khi "cái tôi" trữ tình mang tính nghệ thuật "Cái tôi" trữ tình được nghệ thuật hóa, trở thành một yếu tố nghệ thuật quan trọng trong thơ, đồng thời là một kiểu nhân vật trong thế giới thơ trữ tình Hêghen đã chỉ ra rằng thơ bắt nguồn từ nhu cầu bộc lộ bản thân, điều này nhấn mạnh tính đặc trưng của thể loại thơ trữ tình.
Trong quá trình sáng tác, “cái tôi” nghệ sĩ trở thành hình tượng trọn vẹn trong thế giới nghệ thuật Hình tượng này tương đồng với chủ thể trữ tình, tự bộc lộ sức mạnh nhân cách và khả năng của mình Là nhân vật trung tâm trong tác phẩm thơ, “cái tôi” mang vẻ đẹp độc đáo và không lặp lại, thể hiện sự hiện thực hóa và khách thể hóa trong nghệ thuật thơ.
“Cái tôi” trong văn học không hoàn toàn phản ánh chính tác giả mà là sản phẩm của sự điển hình hóa nghệ thuật, nơi nhà thơ nhận thấy bản thân qua người khác và cho người khác Khi sáng tác, nhà thơ xây dựng một thế giới nghệ thuật độc đáo, trong đó hình tượng của “cái tôi” được thể hiện rõ nét.
Cuối thế kỷ XIX, "cái tôi" cá nhân trở thành nhân vật trung tâm trong thơ ca, thể hiện một cách mạnh mẽ và quyết liệt Thời kỳ này đánh dấu sự phát triển rực rỡ của thơ ca trung đại Việt Nam, nơi hình ảnh "cái tôi" không còn bị giới hạn, mà được tự do bộc lộ Đồng thời, cũng xuất hiện nhận thức về sự bất lực của "cái tôi" trước cuộc đời và thời cuộc, đánh dấu sự kết thúc của mô hình nhân cách truyền thống Điển hình cho điều này là trường hợp của Nguyễn Quang Bích, với những tác phẩm tự bộc lộ tâm trạng và cảnh ngộ riêng tư, phản ánh sâu sắc đời sống nội tâm của tác giả.
Thời đại biến động và nguồn văn hóa truyền thống đã hình thành nên một nhà lãnh tụ yêu nước kiên cường, đồng thời là một nhà Nho chiến sĩ và nghệ sĩ nhạy cảm với cuộc sống, trên con đường kháng chiến và hành trình của cuộc đời.
Quan niệm nghệ thuật trong thơ Nguyễn Quang Bích nói chung và Ngư
Phong cách thơ của ông không chỉ phản ánh những đặc trưng chung của thời đại mà còn thể hiện cá tính sáng tạo độc đáo của chính mình Hình tượng “cái tôi” trữ tình trong thơ ông đã đóng góp quan trọng vào sự phát triển của văn chương trung đại Việt Nam.
HÌNH TƯỢNG “CÁI TÔI” TRỮ TÌNH TRONG NGƯ
Hình tượng “cái tôi” thế sự
2.1.1 “Cái tôi” nhà Nho hành đạo
Ngay từ nhỏ, ông đã được dạy dỗ từ những Nho sĩ có tiếng thời ấy là
Tú tài Nguyễn Ôn Hòa và Tiến sĩ Đốc học Doãn Khuê là những nhân vật tiêu biểu trong nền học vấn Việt Nam Nguyễn Quang Bích, với trí tuệ vượt trội, đã nhanh chóng khẳng định vị thế của mình, thi đỗ tú tài năm 27 tuổi (Tân Dậu, 1861) và trở thành Giáo thụ phủ Trường Khánh, Ninh Bình Năm Kỷ Tỵ (1869), ông đạt Đệ nhị giáp tiến sĩ đình nguyên, tức Hoàng giáp Nhờ vào kiến thức văn hóa phong phú và những trải nghiệm sống đa dạng, ông trở thành một nhà Nho chân chính, hình mẫu của người quân tử Điều này đã góp phần tạo nên hình tượng "cái tôi" nhà Nho, trung tâm trong tập thơ Ngư Phong thi tập.
Khái niệm nhà Nho quân tử ám chỉ những cá nhân đạt tiêu chuẩn trong ứng xử theo nguyên tắc đạo đức Nho giáo Trần Ngọc Vương trong bài viết "Giới trí thức tinh hoa trong lịch sử Việt Nam" nhận định rằng nhà Nho là mẫu hình trí thức có ảnh hưởng lâu dài nhất đến đời sống tinh thần xã hội Việt Nam cho đến đầu thế kỷ XX Tinh thần văn hóa Nho giáo đã thấm sâu vào truyền thống và trở thành bản sắc của nền văn hóa dân tộc Từ thế kỷ XIV đến hết thế kỷ XIX, nền văn hóa Việt Nam chủ yếu mang ảnh hưởng của Nho giáo.
Trần Đình Hượu đã phân tích một cách sâu sắc và hệ thống ảnh hưởng của Nho giáo đến văn học Việt Nam trong giai đoạn trung cận đại.
Tư tưởng Nho giáo đã hình thành nên những thế hệ nhà Nho, ảnh hưởng đến việc lập thân, lập chí và con đường hành đạo trong văn học Việt Nam trung đại Các nguyên lý cơ bản của Nho giáo trở thành nền tảng tư tưởng cho các triều đại Việt Nam, chi phối chính trị, kinh tế và văn hóa Nho sĩ thường là những người lý tưởng hóa xã hội, mơ ước về một xã hội đạo đức theo mô hình vua Nghiêu, dân Nghiêu Khái niệm “Đạo” trong Nho giáo nhấn mạnh mối quan hệ giữa con người với gia đình, xã hội và đất nước, yêu cầu con người phải “tu thân” trước khi “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” Để đạt được “ngũ luân” và “ngũ thường”, con người cần rèn luyện “nhân” và “đức”, trong đó “nhân” là tình người, thể hiện qua việc cai trị bằng tình cảm Nho giáo cũng đề cao “tam cương” với ba mối quan hệ quan trọng: quân thần, phụ tử và phu phụ Những quan điểm này đã ảnh hưởng sâu sắc đến thế giới quan và nhân sinh quan của các nhà Nho, đóng vai trò quan trọng trong đời sống chính trị xã hội phong kiến Việt Nam từ thế kỷ XIII đến XIX.
Cuối thế kỷ XIX, sau khi thực dân Pháp tấn công Đà Nẵng, nhiều sĩ phu đã trăn trở về vấn đề “chiến” và “hòa” Trước kẻ thù hiện đại và khác lạ, một số nhà Nho đề xuất canh tân đất nước qua ngoại giao để tránh mất nước Ngược lại, nhiều văn thân sĩ phu kiên quyết theo đuổi “chủ chiến”, chọn biện pháp quân sự để chống lại kẻ xâm lược Nguyễn Quang Bích ngay từ đầu đã đứng về phía những người chủ chiến.
Nguyễn Quang Bích, với ý thức trách nhiệm đối với xã tắc, coi giặc Pháp là “quỷ ác” cần phải diệt trừ Ông từng khẳng định rằng nếu thắng thì sẽ làm nghĩa sĩ của triều đình, còn nếu thua và chết thì sẽ trở thành “quỷ thiêng giết giặc” Điều này thể hiện trách nhiệm sâu sắc trong tâm tưởng của ông Dù đất nước thay đổi, ông vẫn giữ vững nhân cách cao cả và tinh thần yêu nước truyền thống “trung quân ái quốc”.
Ông thể hiện chí khí của người quân tử qua việc suy nghĩ về nợ công danh, một trách nhiệm mà mỗi người đàn ông cần hoàn thành đối với "quân thân" và ý thức giúp đỡ cộng đồng Câu thơ "Đầu lộ thường huyền hồ tại/ Tuế nguyệt không mang tự tiễn thôi" gợi nhớ về những kỷ niệm trong quá khứ, cho thấy thời gian trôi qua nhanh chóng và nhắc nhở chúng ta về nghĩa vụ của mình đối với xã hội.
Nguyễn Quang Bích nhiều lần nhấn mạnh về “ơn sâu” của vua và trách nhiệm “báo đền” của kẻ sĩ Trong bài thơ họa lại tác phẩm "Quan đà mã hữu cảm", ông thể hiện sâu sắc tình cảm tri ân và lòng trung thành đối với đất nước.
Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Quang Bích đã bày tỏ rõ nỗi lòng của mình:
Ngư xa dẫn tải vị vi bì, Bối phụ lao lao khởi bất tri
Nhàn dưỡng ân thâm tư báo thiết, Giã tằng cốt tướng tự tiền di
Trâu kéo xe tải không phải là công việc dễ dàng, nhưng người nông dân vẫn gánh vác vì lòng biết ơn đối với những gì đã nhận được Ông hiểu rõ gánh nặng mình đang mang, dù có sợ gian khổ, nhưng vì nợ nước và thù nhà, ông quyết tâm báo đáp ơn vua và phục vụ quốc gia Điều này cũng thể hiện sự tiếp nối truyền thống của cha ông Với ông, việc trả ơn đất nước quan trọng hơn cả hạnh phúc cá nhân Lý tưởng cứu nước luôn hiện hữu trong tâm trí, thúc giục ông hành động vì lợi ích chung.
Vị hữu quyên ai năng báo quốc, Khả kham bôn thoán cận toàn thân
Ân tình đối với quê hương không chỉ đơn thuần là lòng hiếu trung theo quan niệm phong kiến, mà còn là trách nhiệm sâu sắc với đất nước Nguyễn Quang Bích thể hiện nỗi trăn trở về việc trả ơn cho quê hương, khi ông nhấn mạnh rằng chưa báo đáp được nợ nước thì không thể nói đến chuyện riêng tư Sự lo lắng cho vận mệnh quốc gia khiến ông luôn suy tư, dù tóc đã bạc như sương.
Mặc dù mục tiêu của ông không chỉ là công danh và sự nghiệp, hành động “xả thân vì nghĩa” của ông đã trở thành biểu tượng cho một giai đoạn lịch sử Nguyễn Quang Bích thể hiện tinh thần này qua câu trả lời kiên quyết với quân Pháp: “Chúng tôi cam lòng chịu chết vì nghĩa vua tôi”.
"Nghĩa vua tôi" không chỉ là một khái niệm mà còn là một trách nhiệm đối với đất nước Nguyễn Quang Bích xem đây là một lựa chọn đạo lý cần thiết, giúp ông bình thản vượt qua khó khăn Từ đó, ông khẳng định lòng trung thành và quyết tâm giữ vững nguyên tắc này đến cùng.
Khởi bất đạn gian khổ
Phi tâm tố sở tăng
Sĩ phu trọng cương thường Hoàng thiên phú tri năng
Gian khổ không khiến ta sợ hãi, mà chỉ vì lương tâm không cho phép ta làm trái Những người trí thức luôn coi trọng đạo đức và nguyên tắc Trời đã ban cho chúng ta lương tri và lương năng, đây chính là điều quý giá trong vũ trụ.
Sự chuyển đổi từ ý thức trung quân sang trung nghĩa của Nguyễn Quang Bích thể hiện rõ nét trong bối cảnh cuộc chiến phức tạp chống Pháp Ông, được vua Hàm Nghi phong làm Hiệp thống Bắc Kỳ quân vụ đại thần, không chỉ là một nhà Nho mà còn trở thành một vị tướng, lãnh tụ nghĩa quân Cần Vương khi đất nước lâm nguy Lòng trung của ông thể hiện trách nhiệm của kẻ bề tôi trước vua, và ông đã lăn mình vào thực tế chiến tranh, sống và chiến đấu với tất cả nỗi buồn vui của con người Chí khí yêu nước của Nguyễn Quang Bích đã được thể hiện qua thơ văn, đặc biệt trong Ngư Phong thi tập, trở thành tiếng nói yêu nước sâu sắc trong văn học nửa sau thế kỷ XIX Ông là hình mẫu của những trung thần nghĩa sĩ, đại diện cho mâu thuẫn của thế hệ Nho giáo khi muốn dùng đạo nghĩa để thắng hung tàn, phản ánh hình ảnh những anh hùng chiến bại trong văn học thời kỳ này.
Nhà Nho hành đạo là hình mẫu trí thức phong kiến chịu ảnh hưởng sâu sắc từ tư tưởng Nho giáo, tác động mạnh mẽ đến đời sống xã hội, văn hóa - chính trị và văn học trung đại Việt Nam Họ xuất hiện trong bối cảnh vua sáng tôi hiền, sẵn sàng dấn thân vào việc giúp nước, thực hiện lý tưởng “trí quân trạch dân” và xây dựng xã hội mẫu mực theo mô hình Nghiêu, Thuấn Con đường duy nhất để họ hiện thực hóa hoài bão là thông qua nghiệp nghiên bút, thi cử, đỗ đạt và phục vụ đất nước Sự nghiệp văn chương của họ mang đậm dấu ấn đạo lý, với nội dung tư tưởng và hình tượng nghệ thuật đặc sắc, thể hiện qua quan niệm “thi dĩ ngôn chí” trong sáng tác thơ ca.
Hình tượng “cái tôi” nghệ sĩ
Khái niệm “cái tôi” nghệ sĩ phản ánh phẩm chất căn bản của người sáng tác, đặc biệt là nhà thơ Là chủ thể thẩm mỹ, nhà thơ cần có chất nghệ sĩ đặc biệt, thể hiện qua sự giàu tình cảm, nhạy cảm và tâm hồn mẫn cảm Tình cảm không chỉ là tiền đề sáng tạo mà còn là phần cốt lõi trong tác phẩm nghệ thuật Để viết về bất kỳ vấn đề nào, tác giả cần trải nghiệm sâu sắc với trái tim rung động, tấm lòng rộng mở và sự ngạc nhiên trước những điều bình dị Qua đó, phẩm chất nghệ sĩ của người sáng tác được bộc lộ qua mối quan hệ với cuộc đời, thiên nhiên và chính bản thân mình.
Thiên nhiên luôn là người bạn đồng hành và là chốn ấm áp che chở cho những tâm hồn nghệ sĩ đang trải qua nỗi đau trần thế, giúp họ thăng hoa trong nghệ thuật Trong văn học thời trung đại, nhiều thi nhân đã tìm đến thiên nhiên như một nguồn cảm hứng vô tận, thể hiện sự hòa quyện giữa tâm hồn và cảnh sắc, tạo nên những tác phẩm thơ ca sâu sắc và tuyệt đẹp.
Thiên nhiên là nguồn cảm hứng vô tận cho con người, đặc biệt là các thi sĩ phương Đông, nơi mà cảnh sắc quê hương như ruộng đồng, núi sông trở thành phần thiết yếu nuôi dưỡng tâm hồn và tình yêu thương Theo quan niệm nhà Nho, cuộc sống trần tục chứa đựng những điều xấu xa, trong khi thiên nhiên lại là chốn thanh sạch, nơi con người tìm đến để thanh lọc tâm hồn và tìm kiếm sự bình yên Khi đối mặt với nỗi buồn và sự bất mãn trong cuộc sống, con người thường tìm đến thiên nhiên để giải tỏa tâm tư và cảm xúc Chính vì vậy, thiên nhiên đã trở thành bạn đồng hành thân thiết của nhiều thi sĩ, như Nguyễn Quang Bích, người đã gắn bó với cảnh đẹp và con người Tây Bắc trong những năm cuối đời.
Lịch sử đã tạo cho ông một hoàn cảnh đặc biệt là lấy vùng hiểm địa
"Sơn kỳ thủy tú" không chỉ là vùng đất lý tưởng để phát triển võ thuật mà còn là nơi lưu giữ văn hóa sâu sắc Số phận của ông gắn liền với Tây Bắc từ khi đảm nhận chức vụ Tuần phủ kiêm Trấn thủ Hưng Hóa Tây Bắc, với cảnh quan "thế núi hình sông", đã được ghi dấu trong lịch sử qua những lời dạy của tổ tiên, như câu thơ khắc trên đá: "Đề thi khắc nham thạch/ Trấn ngã Việt Tây ngu", nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ miền Tây Tổ quốc.
Lời di ngôn của tiền nhân chứa đựng tâm nguyện và chí nguyện của Nguyễn Quang Bích, thể hiện qua Ngư Phong thi tập Tác phẩm khắc họa vẻ đẹp hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc với những ngọn núi cao, đèo hiểm trở, thác nước trong sương sớm, cùng hình ảnh giản dị của nhà sàn và âm thanh trong trẻo của chim chóc Con người Tây Bắc hiện lên cần cù, chất phác nhưng cũng đầy hồn hậu và kiên cường, tất cả hòa quyện tạo nên bức tranh sống động trong thơ ca của ông.
Vùng Tây Bắc Việt Nam không chỉ là một khu vực chiến lược và kinh tế quan trọng mà còn là nơi lưu giữ nhiều huyền thoại và vẻ đẹp thơ mộng Với bút pháp tinh tế và cái nhìn tràn đầy cảm xúc của những tâm hồn thi sĩ, thiên nhiên hùng vĩ của Tây Bắc đã tạo nên sức hút đặc biệt cho du khách.
Nguyễn Quang Bích khắc họa vẻ đẹp và sự sống động của Tổ quốc trong thơ ca, đặc biệt là cảnh vật và con người Tây Bắc, thể hiện rõ nét đặc trưng của vùng cao này Trần Lê Văn nhận xét rằng không có nhà thơ nào từ thế kỷ XIX trở về trước có thể so sánh với Nguyễn Quang Bích về số lượng và chất lượng thơ viết về núi rừng Tây Bắc Trên thực tế, trước ông, những tác phẩm về thiên nhiên và con người nơi đây rất hiếm hoi Nguyễn Quang Bích, với tư cách là một nhà Nho chiến sĩ và nghệ sĩ, đã hòa mình vào thiên nhiên và cuộc sống của người dân Tây Bắc, thể hiện tình yêu thương và sự đồng cảm sâu sắc trong từng tác phẩm.
Chưng cất trong ông, những cảm xúc chân thành và tha thiết được thể hiện qua các vần thơ trong Ngư Phong thi tập, cho thấy ông là một nhà Nho nghệ sĩ đầy tình yêu và mẫn cảm với cuộc đời.
Thiên nhiên Tây Bắc trong thơ Nguyễn Quang Bích không chỉ đơn thuần là hình ảnh thực tại, mà là một Tây Bắc được tái hiện qua cảm xúc sâu sắc của nhà thơ Đây là một thế giới độc đáo mà chỉ riêng ông cảm nhận, phản ánh tâm hồn của một người đang tham gia vào cuộc chiến đấu lịch sử, từng bước nhận ra sứ mệnh của mình Tây Bắc tráng lệ và thơ mộng, đầy bất ngờ và lý thú, đã truyền cảm hứng cho thi nhân Trong những khoảnh khắc hứng khởi, Nguyễn Quang Bích đã sáng tác những bài thơ tuyệt vời, thể hiện vẻ đẹp hài hòa của thiên nhiên nơi đây.
Luân khuân kết lĩnh vân vi họa, Liêu nhiễu hồi khê thủy tự khâm
(Mây bao quanh đỉnh núi, đẹp như tranh vẽ/ Dòng nước khe quanh quất như vạt áo khép lại - Quỳnh Nhai đạo trung)
Cảnh vật Tây Bắc hiện lên lung linh với những sắc màu huyền ảo qua từng khoảnh khắc không gian và thời gian Vào một buổi sớm, thiên nhiên và tình cảm hòa quyện, tạo nên cảm giác vừa hư ảo vừa ấm áp, như câu thơ "Bán tạp vân yên hựu hỏa yên" thể hiện sự giao thoa giữa khói mây và khói bếp, mang đến một bức tranh tuyệt đẹp của vùng đất này.
Thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ nhưng ấm áp, nơi khói bếp hòa quyện với khói mây tạo nên sự sống Qua con mắt tinh tế của Nguyễn Quang Bích, cảnh vật trở nên lung linh với màu sắc sống động Sông Thao mang màu đỏ rực rỡ, sóng lúa trên ruộng bậc thang xanh mướt vươn cao, đám mây trắng hững hờ trên đỉnh núi, và bông cúc dại vàng bên đường tạo nên bức tranh thiên nhiên đầy cảm xúc.
Không gian được tạo ra sống động với sự hòa quyện của các gam màu và chiều sâu, mang đến cảm giác đa chiều Dù có những khoảnh khắc vắng lặng như "Bốn bề lạnh tanh không khói bếp", nhưng lại có những lúc không gian trở nên lạnh lẽo mà vẫn trong trẻo, ẩn chứa sự sống như "viên ngọc xúc trong bình băng" Thỉnh thoảng, không gian tĩnh lặng lại hiện lên với cảnh sắc non xanh, thư thái tựa như chốn bồng lai.
Giang thế duyên phong tuyền, Đài ngân đái vũ tiên
Ngưng mâu sơn thượng khách, Nghi tại bạch vân biên
Dòng sông uốn lượn ven núi, ngấn rêu xanh mướt thấm đẫm nước mưa Từ trên đỉnh núi, du khách có thể nhìn ra xa, cảm giác như đang lạc giữa những đám mây trắng.
Thơ của Nguyễn Quang Bích về Tây Bắc mang nét chấm phá giản dị nhưng tinh tế, không tuân theo khuôn mẫu có sẵn Dưới ảnh hưởng của thơ Đường, hình ảnh con người thường thể hiện sự hòa quyện với thiên nhiên Nhà thơ đặt tâm hồn mình giữa cảnh vật, tạo nên sự hòa điệu giữa nội tâm và ngoại cảnh Do đó, hình tượng trong thơ khó có thể tách bạch con người khỏi thiên nhiên; cảm xúc của con người được ẩn giấu trong thiên nhiên và ngược lại, thiên nhiên cũng phản ánh tâm tình của con người, hòa quyện thành một thể thống nhất.
Thơ về thiên nhiên của Nguyễn Quang Bích mang đậm ảnh hưởng của thơ Đường nhưng lại thể hiện phong cách riêng biệt Tài năng của nhà thơ không chỉ đến từ kỹ thuật mà còn từ tâm hồn yêu nước, gắn bó với quê hương Cảnh thiên nhiên hùng vĩ của Tổ quốc đã thắp lên ngọn lửa tin tưởng và quyết tâm trong lòng những người yêu nước Giữa cuộc chiến khắc nghiệt, tâm hồn thi sĩ vẫn tìm thấy vẻ đẹp thân thuộc và kỳ vĩ của núi rừng Tây Bắc Khi đứng trên núi Thái Bình, trước thiên nhiên bao la, người nghệ sĩ cảm nhận được sự vĩ đại của bản thân và ý chí cứu nước mạnh mẽ.
(Đồng lòng chung sức thì núi cũng có thể dời/ Xá kể gì đến chuyện đường xa khó nhọc - Đăng Thái Bình sơn)
Hình tượng “cái tôi” đời tư
Lịch sử văn học phản ánh sự phát triển của ý thức cá nhân và bản ngã của nghệ sĩ trong sáng tạo nghệ thuật Dù bị ảnh hưởng bởi văn hóa truyền thống thời trung đại, thơ ca vẫn có những bước đột phá thể hiện rõ rệt ý thức cá nhân Những cảm xúc như khao khát, âu lo và niềm vui trong cuộc sống hiện tại đã tạo nền tảng cho sự phát triển của văn học mang tính cá nhân Nguyễn Quang Bích đã kế thừa và nâng cao ý thức cá nhân, thể hiện rõ nét “cái tôi” trong các tác phẩm nghệ thuật của mình.
Nguyễn Quang Bích, một bậc đại quan khiêm tốn, sống giản dị và không đòi hỏi cuộc sống xa xỉ Ông hài lòng với hiện tại, và hình ảnh của ông trong Ngư Phong thi tập chủ yếu là một người lo toan cho việc nước, thể hiện qua 97 bài thơ với nhiều tâm tư và cảm xúc khác nhau Hiếm khi ta thấy ông an nhàn trong cuộc sống, khác với các nhà Nho tiền bối thường tìm đến thú vui tao nhã để di dưỡng tinh thần Tuy nhiên, trong thơ của Nguyễn Quang Bích, cũng có những khoảnh khắc hiếm hoi ông tìm được sự thanh thản trong tiết trời xuân.
Xuân lôi phát hậu âm hàn thấu,
An dưỡng thừa hưu hóa nhật trường
Sau khi có sấm đầu mùa, khí xuân lan tỏa đến những nơi sâu thẳm và lạnh lẽo Đây là thời điểm lý tưởng để nghỉ ngơi và an dưỡng trong những ngày dài ấm áp của mùa xuân.
Trong giấc mơ, nhà thơ nghe câu thơ “Công danh đáo thủ dục thùy thành”, nhấn mạnh rằng thành công phải do chính mình nỗ lực đạt được, không thể chờ đợi người khác Đồng thời, câu “Chí lý đạt quan tu tự ngộ” gợi ý rằng chân lý cần được khám phá và hiểu thấu qua sự suy ngẫm sâu sắc Từ đó, thi nhân trăn trở về hành trình cuộc đời và khát khao một đất nước hòa bình, nơi con người không còn tranh giành và xung đột vì lợi ích cá nhân.
Phân phân thế cục tự oa tranh, Mộng lý mô hồ ngữ vị minh
Chí lý đạt quan tu tự ngộ, Công danh đáo thủ dục thùy thành ? Xuân hồi thảo thụ thiên chi đốt, Trào trưởng loan ao nhất dạng bình
Nghĩa phẫn hữu như kim nhật sự, Bất ưng chẩn vực thất đồng minh
Cuộc sống hiện nay đầy rối ren, giống như cuộc chiến giữa hai loài vật, khiến mọi người phải đấu tranh Trong giấc mơ mờ ảo, nhiều lời nói vẫn chưa rõ ràng Hãy tự mình thức tỉnh để hiểu thấu mọi điều Thành công không tự đến, mà cần phải nỗ lực giành lấy Khi mùa xuân đến, thiên nhiên hồi sinh với những chồi non đâm ra từ cỏ cây Nước tràn đầy, mọi thứ trở nên bằng phẳng, tạo nên sự tươi mới Việc đấu tranh vì lý tưởng lớn lao là điều đáng quý, và chúng ta không nên phân biệt giữa người này với người kia, mà hãy giữ vững tinh thần đoàn kết.
Nguyễn Quang Bích luôn tin rằng cuộc sống cần có lý tưởng cao cả và phải kiên trì chiến đấu vì lý tưởng đó, không nản lòng trước thất bại và quyết tâm không bỏ cuộc dù phải hy sinh Ông nhấn mạnh rằng để vượt qua thử thách, con người cần trau dồi phẩm chất đạo đức và tự hào về bản thân Nguyễn Quang Bích tìm thấy niềm vui trong việc tu dưỡng và rèn luyện nhân cách, tự ví mình như cây tùng trên núi cao, luôn kiên cường và khác biệt với những loài cây khác, dù cho những cây không có giá trị như cây vu vẫn được bảo tồn Ông cũng nhắc đến sức sống bất diệt của người quân tử, tương tự như cây thông ở Mã Đường.
Doãn tri kính tiết phi thường phẩm, Thử địa hàn đa vạn lĩnh đồng
(Mới hay thông có tiết cứng, phẩm chất tầm thường không đọ được/ Ở đây rét nhiều, muôn vạn đỉnh núi khác toàn là núi trọc! - Mã Đường đạo trung)
Nghe ve kêu ông tự hào với giống cao khiết (Văn thiền), thấy hoa huệ ông cảm kích vì:
Trực cán hảo tòng thiên tế lập,
Tố tâm nhất điểm tuyệt trần ai
(Tấm thân ngay thẳng, ưa đứng giữa khoảng trời cao/ Một điểm lòng băng, không vương chút bụi - Vịnh huệ hoa)
Ông vui sướng khi hái thạch xương bồ, một loài cây mang lại trí tuệ cho con người Ngắm nhìn chim én, ông khen ngợi khả năng nhìn xa trông rộng của chúng Ông tìm thấy niềm vui trong những điều giản dị như “đăng cao”, “xuân nhật” và “thiên nhiên” Điều này thể hiện sự kín đáo của một người tu dưỡng, giữ mình và đi theo con đường chính đạo của người quân tử Cuộc đời trong sáng của Nguyễn Quang Bích là minh chứng cho phẩm chất cao đẹp của ông.
2.3.2 “Cái tôi” bi quan, yếm thế
Ngư Phong thi tập không chỉ thể hiện giọng thơ hào hùng, đầy tự hào về đất nước và nhân dân, mà còn chứa đựng những cảm xúc sâu lắng, buồn bã về nỗi ưu tư Cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm là tâm trạng buồn, thể hiện sự bi ai và tự thân đối diện với chính mình Trần Đình Sử nhận định rằng chỉ những ai biết trân trọng giá trị cuộc sống mới cảm thấy buồn khi những giá trị đó bị đe dọa hay lãng quên Nỗi buồn này phản ánh hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của nửa cuối thế kỷ XIX, khi những nhà Nho yêu nước không thể không đau lòng trước tình cảnh đất nước Thơ Nguyễn Quang Bích mang âm hưởng buồn, thể hiện sự lo lắng về vận mệnh giang sơn, với nỗi buồn xuất phát từ những hạn chế của giai cấp và thời đại, tạo nên tâm sự đau thương trong thơ ca yêu nước của ông.
Thơ Nguyễn Quang Bích thể hiện nỗi buồn sâu sắc, thậm chí bi quan và chán nản Nhận xét của Nguyễn Lộc về ông cho thấy, ông là người thường chia sẻ những nỗi buồn hơn là niềm vui trong trạng thái cô đơn Trong Ngư Phong thi tập, nỗi buồn xuất hiện như một điệp khúc, thể hiện tâm trạng của tác giả Mỗi bài thơ đều chứa đựng nỗi sầu bi thương, phản ánh con người và tâm tư của Nguyễn Quang Bích Ông lo lắng cho cuộc kháng chiến, gia đình, quê hương và trách nhiệm với dân Đặc biệt, nỗi buồn về thời thế và giang sơn xã tắc là những chủ đề nổi bật trong thơ ông, thể hiện tình yêu đất nước và tâm tư sâu lắng về non sông.
Người đời mấy ai đã đến được bậc quên tình,
Nỗi buồn trong thơ của Nguyễn Quang Bích phản ánh sự bất lực trước thực tế lịch sử, khi cuộc khởi nghĩa của ông diễn ra trong giai đoạn thoái trào của phong trào đấu tranh Thực dân Pháp nhanh chóng chiếm Bắc Kỳ và toàn bộ đất nước, khiến ước vọng lớn lao của ông ngày càng xa vời Mặc dù lý tưởng không thể thực hiện, ông vẫn không thể từ bỏ trách nhiệm của mình, tạo nên một nỗi buồn sâu sắc trong tác phẩm của mình.
Thân chưa nỡ thác, nặng nhiều lo
Mặt khác, ông thấy tương lai thật vô vọng:
Trời chẳng chiều người, Mười việc thì không được như ý đến tám chín
Trần Đình Sử nhận định rằng cái buồn trong thơ Nguyễn Quang Bích không phải là sự thoái chí hay chán nản, mà là hệ quả của những tình thế bi kịch khách quan, vì vậy không nên coi đó là tiêu cực Ông nhấn mạnh rằng để hiểu cái buồn của Ngư Phong, cần nhận thức về chí hướng chưa thành nhưng luôn sống mãi trong thơ ông, đồng thời cũng là sự thấu hiểu về giới hạn của con người trong dòng chảy lịch sử Đây là nỗi buồn chung của nhiều Nho sĩ trong bối cảnh giai cấp suy tàn và những khó khăn trong cuộc chiến chống thực dân Pháp, thể hiện như một dạng bi trong thơ văn, đặc biệt là trong tác phẩm của Nguyễn Quang Bích.
Nguyễn Quang Bích trong tác phẩm Ngư Phong thi tập đã tiếp thu những giá trị thơ ca truyền thống, đồng thời có sự chuyển mình phù hợp với bối cảnh xã hội Thơ ca của ông mang âm sắc riêng, đóng góp tích cực vào diện mạo thơ ca giai đoạn này Tác phẩm thể hiện những trạng thái mâu thuẫn bi kịch, phản ánh lịch sử và những nỗi đau cá nhân Đó là bi kịch của những con người đầy chí khí, tài năng, hoài bão và lý tưởng yêu nước nhưng lại rơi vào tình thế bất lực.
Nguyễn Quang Bích là nhân chứng của bi kịch vong quốc, nơi tinh thần yêu nước và chính nghĩa đối lập với trung quân Ông đã trải qua thất bại cay đắng trong hành trình cứu nước, và tư duy này ảnh hưởng sâu sắc đến sáng tác của ông Trong bối cảnh các phong trào đấu tranh ở miền Nam bị dập tắt, thơ của Nguyễn Quang Bích phản ánh nỗi buồn bi quan và bất lực, như một cách để giãi bày tâm tư giữa núi rừng Tây Bắc Những bi kịch thời đại và hoàn cảnh cá nhân đã tạo ra âm sắc đặc biệt cho thơ ca giai đoạn này.
2.3.3 “Cái tôi” cô đơn, buồn sầu
Nguyễn Quang Bích, sinh ra trong thời kỳ bi tráng của lịch sử Việt Nam, đã chứng kiến những cuộc khởi nghĩa thất bại nhưng nhân dân vẫn kiên trì kháng chiến Là một quan văn có tấm lòng nhân hậu, ông được coi như một vị “hoạt Phật” ở Hưng Hóa Khi giặc Pháp bao vây thành Hưng Hóa, ông quyết tâm hy sinh để bảo vệ thành, nhưng đã được quân sĩ cứu thoát Từ đó, ông trở thành linh hồn chống Pháp của Bắc Kỳ, tham gia vào cuộc đấu tranh không chỉ với kẻ thù mà còn với chính bản thân Những phần cầu an trong ông dần biến mất, và từ đó, hình ảnh nhà thơ yêu nước Ngư Phong xuất hiện, thể hiện tấm lòng trung nghĩa của Nguyễn Quang Bích trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Cô Quân ngày đêm lặn lội giữa núi rừng, đối mặt với đói khát và thiếu ngủ, cùng những trận chiến thất bại, thể hiện rõ nỗi dằn vặt và lo âu trong tâm hồn Là một nhà Nho quen thuộc với văn chương, ông xem việc ra trận dù tự nguyện cũng chỉ là bất đắc dĩ Ông nặng lòng với suy tư và tâm cảm hơn là với vai trò người lính Ông chiến đấu hết mình vì lý tưởng lớn lao, khát khao mang lại hòa bình cho đất nước để trở về với cuộc sống thanh bạch của một nhà Nho.
An đắc thái bình như tạc nhật, Quy lai nhất nhất độc tàn thư
(Mong sao được thái bình như thuở trước/ Trở về, nhà một gian, đọc lại chồng sách nát - Tư qui)