CƠ SỞ LÝ LUẬ N V Ề QU ẢN LÍ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤ C ĐẠO ĐỨ C CHO H Ọ C SINH Ở TRƯỜ NG TRUNG H Ọ C CƠ SỞ…
Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1 Các nghiên cứu ởnước ngoài Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, có vai trò quan trọng trong bất kỳ xã hội nào từ trước đến nay Do đó, từ xa xưa con người đã rất quan tâm nghiên cứu đạo đức, xem nó như động lực tinh thần để hoàn thiện nhân cách con người trong từng giai đoạn lịch sử nhất định Ở phương Tây, thời cổ đại, nhà triết học Socrate (469-399 TCN) cho rằng cái gốc của đạo đức là tính thiện Bản tính con người vốn thiện, nếu tính thiện ấy được lan tỏa thì con người sẽ có hạnh phúc Muốn xác định được chuẩn mực đạo đức, theo Socrate, phải bằng nhận thức lí tính với phương pháp nhận thức khoa học [Vũ Văn Tảo,1995]; Aristote (384-322 TCN) nhà bác học Hy Lạp thời thượng cổ đã yêu cầu: Trước tiên học đạo đức rồi sau đó học tri thức Không có đạo đức, tri thức sẽ khó thành đạt Xixêrô thì nói: Triết lí về đạo đức là sự chuẩn bị tư duy để tiếp nhận hạt giống trí tuệ (Komenxky Jan Amos,1991)
Khổng Tử (551-479 TCN) là một trong những nhà hiền triết vĩ đại của Trung Quốc, nổi bật với học thuyết “Nhân - Lễ - Chính danh” Trong đó, “Nhân” - lòng thương người - được xem là yếu tố cốt lõi và là nền tảng đạo đức cơ bản nhất của con người Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo dục đạo đức, để lại cho thế hệ sau những câu nói sâu sắc vẫn được truyền tụng cho đến ngày nay.
“Tiên học lễ, hậu học văn” (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 1995)
Vào thế kỷ XVII, Komenxky, một nhà giáo dục vĩ đại người Tiệp Khắc, đã có những đóng góp quan trọng cho giáo dục đạo đức thông qua tác phẩm "Khoa sư phạm vĩ đại" Ông nhấn mạnh sự cần thiết phải kết hợp môi trường bên trong và bên ngoài để nâng cao giáo dục đạo đức cho học sinh.
Trong thế kỷ XX, các nhà giáo dục nổi tiếng Xô Viết như A.C Macarenco và V.A Xukhomlinxky đã nghiên cứu về giáo dục đạo đức học sinh, đóng góp quan trọng cho nền tảng giáo dục đạo đức mới trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội tại Liên Xô.
Tại Nhật Bản, tiến sĩ Hiroike Chikuro (1866-1938), người sáng lập Moralory (đạo đức học), cho rằng con người phải đối mặt với ba căn bệnh lớn: tinh thần, vật chất và thể xác Ông nhấn mạnh rằng chỉ khi con người mắc phải một trong ba căn bệnh này, họ mới có thể tìm thấy sự bình an Theo ông, khoa học về đạo đức có khả năng chữa trị các vấn đề liên quan đến tinh thần và vật chất.
Tại Phần Lan, mục tiêu giáo dục là hỗ trợ học sinh phát triển toàn diện, giúp các em trở thành những cá nhân tự tin và có lòng tự trọng cao Mục tiêu này bao gồm việc nâng cao sức khỏe thể chất, tâm lý, xã hội, đồng thời giáo dục học sinh hình thành nhân cách tốt đẹp.
Hiện nay, nhiều nhà nghiên cứu quốc tế cho rằng nội dung giáo dục đạo đức cần chú trọng phát triển những phẩm chất cốt lõi của nhân cách, bao gồm tính trung thực, tinh thần trách nhiệm và khả năng hợp tác.
1.1.2 Các nghiên cứu ởtrong nước Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặc biệt quan tâm nhiều nhất đến hoạt động giáo dục đạo đức cho mọi người Người gọi đó là đạo đức cách mạng: “Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu, nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại , nó không phải là danh vọng của cá nhân mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người” và “Đạo đức cũng như ý thức đã là sản phẩm xã hội và vẫn là như vậy chừng nào con người còn tồn tại”(Hồ Chí Minh, 2000)
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng nội dung cốt lõi trong quan điểm đạo đức cách mạng bao gồm lòng trung thành với Tổ quốc và hiếu thảo với nhân dân Ông đề cao các phẩm chất cần kiệm, liêm chính và tinh thần công bằng vô tư Bên cạnh đó, tình yêu thương con người và tinh thần quốc tế trong sáng cũng là những giá trị quan trọng trong tư tưởng của Người.
Trong những năm gần đây, nhiều giáo trình đạo đức đã được biên soạn một cách công phu, điển hình là giáo trình của Trần Hậu Kiêm, được xuất bản bởi NXB Chính trị quốc gia.
Năm 1997, tác phẩm của Phạm Khắc Chương và Hà Nhật Thăng được xuất bản bởi NXB Giáo dục Tiếp theo, Giáo trình đạo đức học do Nguyễn Ngọc Long chủ biên được phát hành năm 2000 bởi NXB Chính trị quốc gia Đến năm 2005, Vũ Trọng Dung chủ biên Giáo trình đạo đức học Mác-Lênin cũng do NXB Chính trị quốc gia phát hành.
Vấn đề tổ chức quá trình giáo dục đạo đức được tác giả Hà Thế Ngữ nhấn mạnh qua việc giảng dạy các môn khoa học, đặc biệt là khoa học xã hội và nhân văn, nhằm giáo dục thế giới quan và nhân sinh quan, bồi dưỡng ý thức đạo đức cách mạng và hướng dẫn hành vi đạo đức cho học sinh Tác giả Phạm Hoàng Gia nghiên cứu mối quan hệ giữa nhận thức khoa học và giáo dục đạo đức, cũng như các biểu hiện nhân cách trong lối sống, đồng thời đưa ra dự báo về mô hình nhân cách thanh niên năm 2000 Gần đây, nhiều nhà nghiên cứu và hoạt động xã hội đã bày tỏ lo ngại về hiện tượng suy thoái đạo đức ở thanh thiếu niên, dẫn đến nhiều bài viết và nghiên cứu quan trọng về hoạt động ngoài giờ lên lớp của học sinh các khối 6, 7, 8, 9, cùng với việc giáo dục giá trị truyền thống cho học sinh, sinh viên (Phạm Minh Hạc, 1997).
Nhiều tác giả đã nghiên cứu sâu về giáo dục đạo đức, bao gồm các đặc trưng và phương pháp giáo dục đạo đức (Hoàng An, 1982), vai trò của giáo dục đạo đức trong nhà trường (Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt, 1988), cũng như các nhiệm vụ trong giáo dục đạo đức (Nguyễn Sinh Huy, 1995) Ngoài ra, việc tìm hiểu định hướng giá trị của thanh niên cũng là một vấn đề quan trọng trong lĩnh vực này.
Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường đã được nghiên cứu qua nhiều tác phẩm quan trọng, như "Giáo dục hệ thống giá trị đạo đức nhân văn" của Hà Nhật Thăng (1998) và "Giáo dục giá trị truyền thống cho học sinh, sinh viên" của Phạm Minh Hạc (1997) Các vấn đề liên quan đến lối sống đạo đức và chuẩn giá trị xã hội cũng được đề cập trong tác phẩm của Huỳnh Khải Vinh (2001) Ngoài ra, giáo dục bảo vệ môi trường, như trong nghiên cứu của Lê Văn Khoa (2003), cùng với các nguyên tắc giáo dục nhân cách hiệu quả trong nhà trường phổ thông do Nguyễn Thị Kim Dung (2005) trình bày, đã góp phần quan trọng vào việc tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ liên lớp ở trường Trung học phổ thông theo Phùng Đình Mẫn (2005).
Trong nghiên cứu về giáo dục đạo đức, các tác giả đã nhấn mạnh mục tiêu, nội dung, phương pháp và quản lý giáo dục đạo đức Phạm Minh Hạc chỉ rõ rằng mục tiêu là trang bị tri thức về tư tưởng chính trị, đạo đức nhân văn, pháp luật và văn hóa xã hội, nhằm hình thành thái độ đúng đắn, tình cảm và niềm tin đạo đức trong sáng ở công dân Điều này bao gồm việc tổ chức giáo dục giới trẻ, rèn luyện tự giác thực hiện chuẩn mực đạo đức xã hội, chấp hành pháp luật, nỗ lực học tập và cống hiến cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Để nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức trong thời kỳ đổi mới, một số nhà khoa học đã nghiên cứu về quản lý hoạt động giáo dục đạo đức, mặc dù còn hạn chế.
Các khái niệm cơ bản
Đạo đức là hình thái ý thức xã hội, bao gồm các nguyên tắc và quy tắc nhằm điều chỉnh hành vi con người trong mối quan hệ với nhau và xã hội Nó được hình thành từ niềm tin cá nhân, truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội Đạo đức không chỉ là những quy định về ứng xử giữa con người mà còn mở rộng ra các chuẩn mực trong mối quan hệ với bản thân, công việc, thiên nhiên và môi trường sống.
Theo tác giả Trần Hậu Kiêm, đạo đức được hiểu là tổng hợp các nguyên tắc, quy tắc và chuẩn mực xã hội, giúp con người tự giác điều chỉnh hành vi vì lợi ích xã hội và hạnh phúc của con người Đạo đức đóng vai trò quan trọng trong mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, cũng như giữa cá nhân với tập thể và toàn xã hội.
Đạo đức, theo Phạm Khắc Chương, được định nghĩa là một hình thái ý thức xã hội, bao gồm hệ thống các quan niệm về cái thiện và cái ác trong mối quan hệ giữa con người Nó thực hiện chức năng điều chỉnh hành vi con người trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội (Phạm Khắc Chương, 1995).
Từ những cách hiểu trên đó có thể nhận định rằng:
Đạo đức xuất phát từ nhu cầu của xã hội trong việc điều hòa và thống nhất các mâu thuẫn giữa lợi ích chung và lợi ích cá nhân, nhằm đảm bảo trật tự xã hội và tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững của cả xã hội lẫn cá nhân.
Đạo đức, như một lĩnh vực ý thức xã hội, bao gồm tri thức về các khái niệm, chuẩn mực và phẩm chất đạo đức, cùng với nguyên tắc đạo đức, xúc cảm và tình cảm đạo đức, cũng như việc đánh giá các giá trị này.
+ Với tư cách là một mặt của hoạt động xã hội,đạo đức bao gồm các hành vi, thói quen đạo đức
Đạo đức, như một hình thái quan hệ xã hội, bao gồm các mối quan hệ đạo đức thể hiện qua sự giao lưu giữa cá nhân với cá nhân và giữa cá nhân với tập thể.
Đạo đức hiện diện trong mọi lĩnh vực của ý thức xã hội và hoạt động xã hội, đồng thời ảnh hưởng đến mọi loại quan hệ xã hội Nó không chỉ tồn tại mà còn phát triển song song với đời sống xã hội, mang đậm tính lịch sử và giai cấp.
Đạo đức là một khái niệm phản ánh thực tế khách quan thông qua hệ thống chuẩn mực xã hội và quy tắc điều chỉnh hành vi con người trong mọi mối quan hệ xã hội, cũng như trong tất cả các lĩnh vực của đời sống.
Mặc dù các tác giả có quan điểm khác nhau về khái niệm đạo đức, nhưng nhìn chung, họ đều thống nhất ở một số vấn đề cơ bản.
+ Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội, phản ánh hiện thực đời sống đạo đứcxã hội
+ Đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi của con người, giúp con người ngày càng hoàn thiện hơn, thúc đẩy xã hội ngày càng phát triển
Đạo đức là hệ thống giá trị và quy tắc mà mọi người phải tuân theo trong mối quan hệ cá nhân và xã hội Nó thể hiện tính chuẩn mực và mang lại sự đánh giá rõ rệt về hành vi Sự phát triển của hệ thống giá trị đạo đức gắn liền với sự hoàn thiện của ý thức và điều chỉnh đạo đức Nếu hệ thống này phù hợp với sự tiến bộ, nó sẽ mang tính tích cực và nhân đạo; ngược lại, nếu có tính tiêu cực, nó sẽ phản động và đi ngược lại với nhân đạo.
Đạo đức được hiểu là một hình thái ý thức xã hội, bao gồm hệ thống quy tắc, chuẩn mực và nguyên tắc về cái chân, thiện, mỹ và cái ác Nó có vai trò điều chỉnh mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, cũng như giữa cá nhân với xã hội.
- Khái niệm giáo dục đạo đức
Giáo dục đạo đức đóng vai trò quan trọng trong việc định hình nhân cách học sinh, đồng thời là nền tảng cho các hình thức giáo dục khác trong trường học.
Giáo dục đạo đức cho học sinh là một quá trình liên tục và kéo dài, diễn ra trên nhiều phương diện và từ các nguồn lực xã hội khác nhau, trong đó nhà trường đóng vai trò chủ chốt.
Giáo dục đạo đức tại trường Trung học cơ sở là một phần quan trọng trong quá trình giáo dục tổng thể, có mối liên hệ chặt chẽ với các lĩnh vực giáo dục khác như giáo dục trí tuệ, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thể chất, giáo dục lao động và giáo dục hướng nghiệp.
Giáo dục đạo đức cho học sinh là quá trình hình thành và phát triển phẩm chất đạo đức trong nhân cách, thông qua các tác động có mục đích và được tổ chức có kế hoạch Quá trình này yêu cầu sự lựa chọn nội dung, phương pháp và hình thức giáo dục phù hợp với lứa tuổi, đồng thời nhấn mạnh vai trò quan trọng của nhà giáo dục Mục tiêu cuối cùng là giúp học sinh có hành vi ứng xử đúng mực trong các mối quan hệ cá nhân, cộng đồng, lao động và với thiên nhiên.
Hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh THCS
Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh Trung học cơ sở là quá trình tác động có kế hoạch từ chủ thể quản lý đến các bộ phận trong nhà trường, nhằm tối ưu hóa tiềm năng và cơ hội để đạt được hiệu quả trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh.
Nội dung của công tác quản líhoạt động giáo dục đạo đứccho học sinh Trung học cơ sở:
Quản lý việc thực hiện mục tiêu và kế hoạch giáo dục đạo đức là rất quan trọng, bao gồm việc kiểm soát nội dung giáo dục Đồng thời, cần quản lý hiệu quả việc sử dụng các phương pháp, hình thức và phương tiện giáo dục đạo đức Cuối cùng, việc quản lý giáo viên cũng đóng vai trò then chốt trong quá trình này.
Quản lí việc kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục đạo đức
Quản lí công tác kết hợp giữa gia đình- nhà trường- xã hội trong giáo dục đạo đức
1.3 Ho ạt động giáo dục đạo đứ c cho h ọ c sinh Trung h ọ c cơ s ở
1.3.1 Mục tiêu giáo dục đạo đức
Mục tiêu giáo dục đạo đức là giúp cá nhân nhận thức rõ giá trị đạo đức và trang bị tri thức về đạo đức nhân văn, tư tưởng, chính trị, pháp luật, và lối sống văn hóa, xã hội Điều này nhằm hình thành thái độ đúng đắn trong giao tiếp, niềm tin với bản thân và người xung quanh Học sinh được rèn luyện hành vi đúng đắn, tự giác thực hiện chuẩn mực đạo đức xã hội, phấn đấu trong học tập và lao động, chấp hành quy định của trường và pháp luật, sẵn sàng giúp đỡ mọi người, từ đó trở thành công dân tốt.
Nhà trường cần trang bị cho học sinh tri thức thiết yếu nhằm nâng cao nhận thức chính trị và hiểu rõ các yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Học sinh cần nắm vững quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện, đồng thời gắn liền với sự nghiệp đổi mới của đất nước Điều này giúp học sinh có nhân sinh quan trong sáng và quan điểm rõ ràng về lối sống, thích ứng với những yêu cầu của giai đoạn mới.
Giáo dục đạo đức cho học sinh giúp các em nhận thức được giá trị đạo đức cơ bản phù hợp với lứa tuổi, tránh những vấn đề khó tiếp thu cho tâm lý học sinh Trung học cơ sở Học sinh sẽ được trang bị kiến thức về quyền và nghĩa vụ công dân trong xã hội, từ đó giảm thiểu hành vi vi phạm do thiếu hiểu biết Các em cũng sẽ nắm được cấu trúc tổ chức nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và trách nhiệm của nhà nước trong việc bảo đảm quyền công dân Bên cạnh đó, giáo dục đạo đức còn giúp học sinh hiểu rõ yêu cầu về đạo đức, chấp hành pháp luật và nội quy nơi công cộng, nội quy trường học Những kiến thức cơ bản này sẽ là nền tảng để các em phát triển thêm khi học môn Giáo dục công dân ở cấp Trung học phổ thông.
Giáo dục đạo đức cho học sinh là cần thiết để các em biết sống và ứng xử theo các giá trị đạo đức Đối với học sinh Trung học cơ sở, việc tôn trọng ông bà, cha mẹ, thầy cô và người lớn tuổi, cùng với tình yêu thương dành cho trẻ nhỏ và tuân thủ pháp luật là rất quan trọng Kỹ năng này sẽ được phát triển và mở rộng qua từng lớp học từ lớp 6 đến lớp 9.
Giáo dục đạo đức đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành cách ứng xử văn hóa của trẻ em, từ môi trường gia đình đến xã hội Qua đó, các em sẽ hiểu rõ quyền và nghĩa vụ công dân, đồng thời phát triển những giá trị phù hợp với lứa tuổi của mình.
Giáo dục đạo đức giúp học sinh phát triển tình yêu quê hương, đất nước Việt Nam và tự hào về các truyền thống tốt đẹp của dân tộc Học sinh được rèn luyện ý thức tôn trọng con người và các nền văn hóa khác, từ đó hiểu rõ vai trò của mình trong việc bảo vệ những giá trị văn hóa quê hương Qua đó, các em học cách yêu thương và tôn trọng mọi người, thể hiện lòng tự trọng và sự tự tin trong giao tiếp hàng ngày Học sinh cũng nhận thức được quyền và nghĩa vụ của bản thân, tôn trọng quyền của người khác, và có ý thức học tập cũng như áp dụng kiến thức vào thực tiễn Đồng thời, các em phát triển tinh thần đoàn kết và tương thân tương ái, định hướng nghề nghiệp đúng đắn, hình thành những phẩm chất cần thiết như cần cù, sáng tạo, trung thực, có trách nhiệm, kỷ luật, lối sống văn hóa, và khả năng hợp tác trong công việc với tình bạn trong sáng, lành mạnh.
Giáo dục đạo đức đóng vai trò quan trọng trong việc khuyến khích học sinh tham gia tích cực vào các hoạt động tập thể và xã hội phù hợp với khả năng của mình Qua đó, các em được rèn luyện thể chất, nâng cao ý thức giữ gìn vệ sinh và bảo vệ môi trường Đồng thời, giáo dục đạo đức cũng giúp hình thành ý thức thẩm mỹ, lòng yêu và trân trọng cái đẹp trong cuộc sống.
Nói tóm lại, mục tiêu của hoạt động giáo dục đạo đứccho học sinh trường
Trung học cơ sở đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục đạo đức, nhằm tác động trực tiếp đến người học Quá trình này giúp hình thành ý thức tình cảm và niềm tin đạo đức, đồng thời tạo lập những thói quen hành vi đạo đức cần thiết cho sự phát triển toàn diện của học sinh.
Mục tiêu giáo dục đạo đức cho học sinh không chỉ là truyền đạt khái niệm, mà còn là biến những chuẩn mực xã hội thành nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống của mỗi em Điều này đòi hỏi những hành động cụ thể, thực tiễn và phù hợp với đạo đức Quá trình giáo dục này cần được thực hiện không chỉ qua các bài giảng của giáo viên, mà còn thông qua những hoạt động đa dạng và phong phú cả trong và ngoài nhà trường.
1.3.2 Nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh Trung học cơ sở
Giáo dục đạo đức cho học sinh Trung học cơ sở thể hiện ở các nội dung sau:
Nội dung 1:Giáo dục quan hệcá nhân của học sinh đối với lao động
Giáo dục học sinh về thái độ tích cực đối với lao động là rất quan trọng, giúp các em yêu thích công việc, chăm chỉ học tập và đam mê khoa học Đồng thời, cần phải biết trân trọng những người lao động, bất kể đó là lao động chân tay hay trí óc.
Hoạt động lao động giúp học sinh hình thành niềm tin rằng lao động là vinh quang, tự hào và là trách nhiệm của mỗi người trong cuộc sống Điều này không chỉ nâng cao ý thức trách nhiệm mà còn kích thích tinh thần học tập của các em.
Giáo dục nhân cách và hình thành kỹ năng sống là nhiệm vụ quan trọng của các nhà trường, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay khi Bộ Giáo dục và Đào tạo phát động phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” Các nhà trường cần xác định rõ mục tiêu giáo dục học sinh qua lao động, coi đây là yếu tố thiết yếu trong việc giúp các em trở thành những công dân hữu ích cho xã hội (Nguyễn Quốc Đạt, 2015).
Nội dung 2: Giáo dục quan hệcá nhân của học sinh đối với xã hội
Giáo dục các chuẩn mực đạo đức trong xã hội là cần thiết để phê phán những hành vi không phù hợp, đồng thời nuôi dưỡng lòng yêu quê hương, yêu chủ nghĩa xã hội và tự hào về truyền thống anh hùng dân tộc Bên cạnh đó, giáo dục cũng cần khuyến khích lòng nhân ái, bao dung, và xác định trách nhiệm cá nhân, cùng với việc xây dựng tác phong đúng đắn của công dân Cuối cùng, việc tôn trọng và có thái độ tiến bộ đối với các giá trị truyền thống và tinh thần quốc tế vô sản cũng rất quan trọng (Văn Thành Mẫn, 2009).
Nội dung 3:Giáo dục quan hệcá nhân học sinh đối với tài sản xã hội, di sản văn hóa và thiên nhiên
Quản lí hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh THCS
1.4.1 Chủ thể, phân cấptrong quản lí hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh Trung học cơ sở
Hiệu trưởng làm chủ thể quản lí giáo dục giáo dục đạo đứcở cấp trường Học sinh là đối tượng của quản lígiáo dục đạo đứccủa Hiệu trưởng
- Phân cấptrong quảnlíhoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh Trung học cơ sở:
Lãnh đạo nhà trường cần xác định rõ ràng nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh, từ đó làm cơ sở cho các bộ phận trong trường xác định nội dung công tác giáo dục đạo đức của mình.
Hiệu trưởng, thông qua các Phó hiệu trưởng và tổ trưởng, xây dựng chương trình giáo dục đạo đức thống nhất trong nhà trường, bao gồm giáo dục đạo đức qua giảng dạy, quản lý học sinh và hoạt động ngoài giờ Để thực hiện điều này, Hiệu trưởng yêu cầu các tổ bộ môn, tổ chủ nhiệm và giáo viên quản lý học sinh lập chương trình giáo dục đạo đức, trong đó nêu rõ hình thức, biện pháp và phân công trách nhiệm cho từng cá nhân đối với từng nội dung của chương trình.
1.4.2 Nội dung quản lí hoạt động giáo dục đạo đức học sinh Trung học cơ sở
Mục tiêu quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh là đảm bảo quá trình giáo dục diễn ra đồng bộ và hiệu quả, từ đó nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức Quản lý công tác giáo dục đạo đức tập trung vào ba yếu tố chính: nhận thức, thái độ và hành vi của học sinh.
Mục tiêu quản lý hoạt động giáo dục đạo đức là hướng dẫn quá trình giáo dục phù hợp với chuẩn mực xã hội, đồng thời khuyến khích sự tham gia của nhiều lực lượng trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh Điều này nhằm trang bị cho học sinh kiến thức đạo đức, xây dựng niềm tin và tình cảm, từ đó hình thành thói quen và hành vi đạo đức Quản lý giáo dục đạo đức có thể được thực hiện thông qua môn học và lồng ghép vào các môn học khác của giáo viên.
Giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua các môn học nhằm giúp các em hiểu rõ về các giá trị đạo đức cơ bản, quyền và nghĩa vụ công dân trong xã hội Đồng thời, việc này cũng cung cấp kiến thức về tổ chức bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam và trách nhiệm của nhà nước trong việc bảo đảm thực hiện các quyền của công dân.
Giáo viên luôn nghiêm túc trong việc đầu tư giờ dạy và áp dụng các phương pháp dạy học tích cực để kích thích sự ham học của học sinh Họ không chỉ truyền đạt kiến thức mà còn thường xuyên nhắc nhở và uốn nắn những sai phạm, tạo sự gần gũi và động viên, khuyến khích học sinh khi gặp khó khăn, đồng thời khen thưởng kịp thời khi các em có tiến bộ.
Giáo dục tự học cho học sinh không chỉ giúp các em chiếm lĩnh tri thức mà còn phát triển khả năng tự nghiên cứu Qua đó, học sinh hình thành nhân cách tự chủ về trí tuệ và đạo đức, góp phần vào sự phát triển toàn diện của bản thân.
Hình thức lồng ghép tích hợp được áp dụng trong các môn học như Giáo dục công dân, Ngữ văn và Lịch sử, đồng thời cũng được thực hiện thông qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp.
Các môn học như Ngữ văn, Lịch sử, Địa lí, Sinh học và Giáo dục công dân tích cực lồng ghép giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng sống cho học sinh Việc phối hợp với Tổng phụ trách Đội trong các giờ sinh hoạt dưới cờ giúp học sinh nhận thức rõ hành vi đúng đắn và phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội Đồng thời, cần quản lý chặt chẽ việc xây dựng nội dung, chương trình và biện pháp giáo dục cho học sinh Trung học cơ sở.
Lãnh đạo nhà trường cần xác định rõ nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh Trung học cơ sở, bao gồm chương trình môn Giáo dục công dân, các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, và nội dung giáo dục đạo đức qua các môn học văn hóa, đặc biệt là các môn khoa học xã hội Cần tránh để học sinh học các môn này một cách miễn cưỡng, đồng thời chú trọng đến việc truyền đạt các truyền thống văn hóa của dân tộc và địa phương.
Quản lý việc xây dựng nội dung và chương trình giáo dục đạo đức cho học sinh là rất quan trọng, đảm bảo tính thống nhất trong nhà trường Hiệu trưởng, thông qua các Phó Hiệu trưởng và tổ trưởng, cần xây dựng chương trình giáo dục đạo đức đa dạng và hấp dẫn thông qua các hoạt động như giảng dạy văn hóa, giáo dục ngoài giờ, và tổ chức các sự kiện lớn Kế hoạch cần xác định mục đích, hình thức thực hiện và biện pháp cụ thể, phân công rõ ràng cho từng cá nhân Để thực hiện kế hoạch này, Hiệu trưởng phải yêu cầu các tổ bộ môn và Tổng phụ trách Đội lập chương trình hoạt động giáo dục ngoài giờ, nêu rõ hình thức và biện pháp giáo dục đạo đức, đảm bảo sự phân công hợp lý cho từng nội dung.
Quản lý đội ngũ cán bộ, giáo viên và nhân viên trong giáo dục đạo đức cho học sinh là trách nhiệm của Hiệu trưởng, bao gồm việc lập kế hoạch chung, chỉ đạo thực hiện, phân công nhiệm vụ và kiểm tra kết quả Các bộ phận được giao nhiệm vụ cần xây dựng kế hoạch thực hiện phù hợp với tình hình thực tế, đặc biệt chú trọng đến giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt Để đạt được mục tiêu này, Hiệu trưởng cần thiết lập kế hoạch kiểm tra, đánh giá, khen thưởng và động viên kịp thời nhằm khuyến khích sự tham gia của các lực lượng trong công tác giáo dục đạo đức Đồng thời, cần quản lý sự phối hợp với các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường để nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh Trung học cơ sở.
Giáo dục đạo đức cho học sinh Trung học cơ sở là một quá trình phức tạp và liên tục, chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố như gia đình, xã hội và đặc biệt là môi trường học đường Nhà trường đóng vai trò chủ đạo trong việc này, vì vậy cần thiết phải xây dựng kế hoạch phối hợp với các lực lượng khác để tạo ra một môi trường giáo dục thống nhất và lành mạnh, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh.
Phối hợp giữa các lực lượng giáo dục, bao gồm nhà trường, gia đình và xã hội, là cần thiết để giáo dục đạo đức cho học sinh Sự tác động này tạo ra mối liên hệ thống nhất, giúp huy động sức mạnh tổng hợp nhằm hướng tới mục tiêu giáo dục đạo đức một cách hiệu quả.
Quản lý sự phối hợp giữa các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường là rất quan trọng trong hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh Điều này bao gồm việc tổ chức các mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp, tạo ra môi trường giáo dục đúng đắn và thuận lợi cho sự phát triển nhân cách của học sinh Để thực hiện điều này, Hiệu trưởng cần xây dựng kế hoạch phối hợp, thu hút sự quan tâm từ giáo dục và toàn xã hội để nhận được tài liệu, thông tin cập nhật và hỗ trợ về kinh phí, cũng như cải tạo, nâng cấp cơ sở vật chất Ngoài ra, cần tăng cường sự ràng buộc chặt chẽ và mở rộng các biện pháp giáo dục, tìm kiếm giải pháp phù hợp cho từng trường hợp cụ thể.
V)Quản lí về các hoạt động tự quản của các tập thể học sinh Trung học cơ sở