Nội dung và ph−ơng pháp nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu
Để đạt đ−ợc mục đích của đề tài, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu các nội dung sau :
- Khảo sát tiềm năng ngọn lá mía ở huyện Quỳ Hợp - Nghệ An và huyện Thọ Xuân - Thanh Hoá
- Phân tích các thành phần hoá học và giá trị dinh d−ỡng của ngọn lá mía tr−ớc xử lý làm thức ăn cho bò thịt
- Phân tích các thành phần hoá học và giá trị dinh d−ỡng của ngọn lá mía sau khi xử lý cho bò thịt
- Theo dõi ảnh hưởng của khẩu phần ăn có ngọn lá mía ủ chua đến tăng khối l−ợng của bò thịt
- Hạch toán kinh tế về giá thành của thức ăn ngọn lá mía ủ chua dùng trong chăn nuôi bò thịt.
Ph−ơng pháp nghiên cứu
3.2.1 Điều tra tình hình sản xuất mía
- Điều tra tình hình sản xuất mía ở Việt Nam
Địa bàn điều tra bao gồm huyện Quỳ Hợp tại Nghệ An, với các xã Nghĩa Xuân, Đồng Hợp, Minh Hợp, Tam Hợp, và huyện Thọ Xuân tại Thanh Hoá, với các xã Quảng Phú, Xuân Thắng, Thọ X−ơng, Xuân Châu, cùng nông trường Sao Vàng.
Thu nhập số liệu ở các hộ gia đình:
Chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn trực tiếp từng hộ gia đình tại các xã theo hệ thống câu hỏi trong mẫu biểu điều tra Mỗi xã phỏng vấn 30 hộ gia đình theo phương pháp cuốn chiếu ngẫu nhiên, và tất cả số liệu thu được đều do người được phỏng vấn cung cấp Người tham gia phỏng vấn là chủ hộ hoặc người quản lý kinh tế gia đình, những người có vai trò trực tiếp trong sản xuất nông nghiệp.
3.2.2 Ph−ơng pháp lấy mẫu
Mẫu được thu thập theo phương pháp ngẫu nhiên, dựa trên tiêu chuẩn TCVN - 86 (Tiêu chuẩn Việt Nam về thức ăn chăn nuôi) do Tổng cục Đo lường Chất lượng ban hành năm 1986, cùng với sự đóng góp của Vũ Duy Giảng và các cộng sự vào năm 1989.
- Mẫu ban đầu là mẫu lấy đ−ợc từ đối t−ợng vật phẩm cần phân tích Để đảm bảo độ đồng đều phải lấy mẫu ở nhiều điểm khác nhau
- Mẫu phân tích mẫu bình quân đ−ợc cắt nhỏ trộn đều để lấy mẫu phân tích
- Các loại thức ăn t−ơi phải thái nhỏ
- Các loại mẫu khô có thể nghiền nhỏ
Mẫu bình quân sau khi được thái nhỏ và nghiền nát sẽ được cân sấy đến trạng thái gần khô Để phân tích, mẫu sẽ được rải đều trên khay và chia thành bốn phần bằng nhau Sau đó, lấy hai phần đối diện và tiếp tục chia chúng thành bốn phần, từ đó chọn hai phần đối diện trong bốn phần này để lấy đủ lượng mẫu cần thiết cho phân tích Mẫu phân tích sẽ được bảo quản trong lọ kín, với khối lượng tùy thuộc vào phương pháp và tính chất nghiên cứu, thường từ 200 - 500g đối với mẫu thức ăn phụ chế phẩm nông nghiệp.
3.2.3 Ph−ơng pháp phân tích thành phần hoá học của thức ăn
Nguyên liệu thức ăn cho gia súc được định lượng dựa trên phương pháp phân tích TCVN – 1986 của Vũ Duy Giảng và cộng sự, cùng với phương pháp phân tích AOAC (1997).
3.2.3.1 Định l − ợng hàm l − ợng n − ớc và vật chất khô
Hàm lượng nước là chỉ tiêu quan trọng phản ánh trạng thái thực vật, ảnh hưởng đến chất dinh dưỡng trong chất khô Thực phẩm có nhiều nước thường chứa ít chất khô và ngược lại Tỷ lệ nước cung cấp thông tin về sự sinh trưởng của thực vật, từ đó giúp xác định thời điểm thu hoạch và phương pháp bảo quản, chế biến thức ăn hợp lý.
Hàm lượng nước được định nghĩa là khối lượng mất đi khi sấy mẫu theo qui trình nhất định và đ−ợc biểu thị bằng % khối l−ợng mẫu đ−a vào thử
Sấy hộp lồng ở nhiệt độ 105 ± 2 °C trong 30 phút, sau đó để nguội trong bình hút ẩm và cân để xác định khối lượng Quá trình sấy được lặp lại cho đến khi đạt khối lượng không đổi Đối với mẫu thức ăn, lấy 5 - 10 gam đã cắt nhỏ cho vào hộp lồng, ghi lại khối lượng, sau đó cho vào tủ sấy khi tủ đạt 105 °C và sấy ở nhiệt độ này trong vòng thời gian quy định.
2 giờ lấy ra làm nguội trong bình hút ẩm và cân lập lại quá trình sấy 30 phút rồi cân đến khối luợng không đổi
Hàm l−ợng n−ớc (ì) tính bằng % theo công thức: m 1 – m 2
X = × 100 m 1 m 1 : Khối l−ợng ban đầu của mẫu (g) m 2 : Khối l−ợng của mẫu đã sấy khô (g)
Nguyên lý phân tích protein thô trong thức ăn dựa trên việc sử dụng axit H2SO4 đặc kết hợp với chất xúc tác để phân huỷ chất hữu cơ Quá trình này bao gồm việc chưng cất NH3 vào dung dịch axit và xác định hàm lượng nitơ tổng số thông qua chuẩn độ NH3 Để tính hàm lượng protein thô, ta nhân hàm lượng nitơ với hệ số 6,25.
Để vô cơ hoá mẫu cân chính xác từ 500 - 1000 mg, cho mẫu vào bình Kjeldahl, sau đó thêm 1,5 - 3 g chất xúc tác và 5 - 10 ml H2SO4 Tiến hành chưng cất trong hố chưng cất đạm cho đến khi xuất hiện màu xanh trong Trong quá trình đun, lắc bình mỗi 15 phút cho đến khi mẫu không còn sủi bọt, sau đó tăng nhiệt độ để duy trì sự sôi đều Để chuẩn bị dung dịch mẫu, sử dụng 75 ml nước cất để chuyển toàn bộ mẫu từ bình sang ống của bộ cất đạm Gerhardt và đưa vào bộ phận chưng cất của máy.
Chuẩn bị bình nhận bằng cách hút 50ml dung dịch H2SO4 0,1N cho vào bình tam giác 250ml, sau đó thêm 5 giọt chỉ thị màu metyl đỏ Đặt bình nhận vào cuối ống sinh hàn sao cho đầu cuối ngập trong dung dịch axit, rồi tiến hành cất trong 4 phút.
Chuẩn độ là quá trình sử dụng dung dịch NaOH 0,1N để xác định nồng độ của một chất Để thực hiện, bạn cần chuẩn bị bình chứa mẫu và tiến hành chuẩn độ cho đến khi dung dịch chuyển từ màu vàng rơm sang trạng thái ổn định trong vòng 30 giây Khi đạt được màu sắc mong muốn, hãy dừng lại và ghi lại thể tích dung dịch NaOH 0,1N đã sử dụng trong quá trình chuẩn độ.
Song song với thí nghiệm trên cần làm với mẫu trắng sau đó hiệu chỉnh l−ợng NaOH 0,1N của thí nghiệm chính
V 3 : Thể tích NaOH 0,1N dùng cho chuẩn độ màu trắng (ml)
V 4 : Thể tích NaOH 0,1N dùng cho chuẩn độ mẫu (ml) m : Khối l−ợng mẫu (g)
T : Hệ số hiệu chỉnh của dung dịch NaOH 0,1N
Tính protein thô % protein thô = %Nì6,25
Dưới tác dụng của axit nóng, tinh bột và hemixellulo sẽ được thủy phân thành các loại đường đơn hòa tan, amin, amit và alcaloit Bazơ có khả năng chuyển đổi protein, nhũ tương hóa và xà phòng hóa một phần mỡ, đồng thời hòa tan một lượng lớn hemixellulo, cồn và ete, còn lại là thô xơ sau khi tác dụng với axit, bazơ, cồn và ete.
Cân chính xác 1g mẫu đã được nghiền qua mắt sàng 1 mm vào túi lọc không tan Sau đó, hàn miệng túi cách mép 0,5 cm bằng máy hàn để đảm bảo mẫu không bị rơi ra ngoài.
Chiết mỡ từ mẫu được thực hiện bằng cách đặt các túi mẫu vào bình 400 ml có nắp đậy, sau đó đổ axêton vào bình cho đến khi ngập các túi Tiến hành lắc bình 10 lần và để túi ngâm trong 10 phút Quá trình này được lặp lại với axêton mới, sau đó đổ axêton ra và hong khô túi.
Sau đó xếp mẫu vào khay, rót tiếp 1800 - 2000 ml H 2 SO 4 0,255 N và đặt chế độ cho máy chạy 45 phút ở nhiệt độ 100 0 C Khi máy dừng dùng nước cất
Để làm sạch dung dịch H2SO4 0,255 N, cần rửa nhiều lần với nước cất, mỗi lần rửa kéo dài từ 3 đến 5 phút Sau đó, thêm vào máy 1.800 - 2.000 NaOH 0,313 N và thiết lập chế độ hoạt động trong 45 phút Cuối cùng, tiếp tục rửa bằng nước cất như đã thực hiện trước đó.
Theo dõi ảnh hưởng của khẩu phần ăn có ngọn lá mía ủ chua đến tăng khối l−ợng của bò thịt
4.1 Tình hình sản xuất mía và sử dụng phụ phẩm mía ở Việt Nam
4.1.1 Tình hình trồng mía ở Việt Nam Đất nước Việt Nam ta nằm trong vùng địa lý từ 8 0 đến 23 0 vĩ Bắc, tổng tích ôn từ 8.500 đến 10.000 0 C Nhiệt độ bình quân trong năm từ 21 - 27 0 C, số giờ chiếu sáng 1.600 - 2.700 giờ/năm L−ợng m−a trung bình từ 1.700 - 2.000 mm/năm Đây là điều kiện rất thuận lợi cho sự phát triển cây mía
Bảng 4.1: Đặc điểm khí hậu và vị trí địa lý của một số vùng trồng mía ở Việt Nam
Vùng Nhiệt độ trung b×nh
Khu vực Hà Nội 23,4 1680 1640 21 0 01 1105 0 48 Thanh Hoá(mía đồi) 23,6 1746 1658 19 0 48 105 0 46
Ghi chú: TP : Thành phố
Nguồn: Phan Ngọc Toàn, Phan Tất Đắc 1978
Việt Nam nổi bật với lợi thế trong sản xuất mía đường, nhờ vào điều kiện sinh trưởng lý tưởng cho cây mía, giúp đạt năng suất cao.
Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Tình hình sản xuất mía và sử dụng phụ phẩm mía ở Việt Nam
4.1.1 Tình hình trồng mía ở Việt Nam Đất nước Việt Nam ta nằm trong vùng địa lý từ 8 0 đến 23 0 vĩ Bắc, tổng tích ôn từ 8.500 đến 10.000 0 C Nhiệt độ bình quân trong năm từ 21 - 27 0 C, số giờ chiếu sáng 1.600 - 2.700 giờ/năm L−ợng m−a trung bình từ 1.700 - 2.000 mm/năm Đây là điều kiện rất thuận lợi cho sự phát triển cây mía
Bảng 4.1: Đặc điểm khí hậu và vị trí địa lý của một số vùng trồng mía ở Việt Nam
Vùng Nhiệt độ trung b×nh
Khu vực Hà Nội 23,4 1680 1640 21 0 01 1105 0 48 Thanh Hoá(mía đồi) 23,6 1746 1658 19 0 48 105 0 46
Ghi chú: TP : Thành phố
Nguồn: Phan Ngọc Toàn, Phan Tất Đắc 1978
Việt Nam nổi bật trong sản xuất mía đường nhờ điều kiện sinh trưởng thuận lợi, giúp cây mía đạt năng suất cao và tích lũy đường hiệu quả Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (1997), cả nước có ba vùng sản xuất mía lớn: miền Bắc và khu bốn cũ, duyên hải miền Trung và Tây Nguyên, cùng với Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long.
Theo bảng 1, thành phố Hồ Chí Minh và Cần Thơ có nhiệt độ trung bình cao nhất là 27°C, trong khi Hà Nội ghi nhận nhiệt độ thấp nhất là 23,4°C Về lượng mưa, thành phố Hồ Chí Minh cũng dẫn đầu với 1979 mm, trong khi Phan Thiết có lượng mưa thấp nhất.
Phan Thiết có số giờ nắng cao nhất đạt 2338 giờ, trong khi Hà Nội chỉ có 1640 giờ Đặc điểm khí hậu và vị trí địa lý của các vùng trồng mía tạo điều kiện thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của cây mía Cây mía có khả năng thích nghi với nhiều loại đất, từ đất thấp, ba gian, chua, phèn đến đất phù sa và đá vôi, nhưng đất tơi xốp vẫn là lựa chọn lý tưởng nhất cho việc trồng mía.
Nhà nước đã chú trọng phát triển các giống mía mới có năng suất cao, như F134, F156, My, và Knus, với năng suất khoảng 40 tấn/ha và hàm lượng đường đạt 10% Các giống mía tiên tiến như quế đường 11 và ROC10 có thể đạt năng suất bình quân từ 70 - 80 tấn/ha, với hàm lượng đường từ 13 - 14% Ngoài ra, một số giống mía nhập khẩu từ Ấn Độ, Trung Quốc, và Thái Lan như RO18, R570, R579, và đặc biệt là giống K84 - 2000, cũng cho thấy tiềm năng thâm canh tốt với năng suất cao.
Chúng tôi đã tiến hành điều tra và thu thập số liệu để đánh giá tình hình sản lượng mía tại một số nhà máy đường, và kết quả được trình bày trong Bảng 4.2.
Theo Bảng 4.2, hiện có một số nhà máy đường hoạt động với tổng công suất thiết kế lên đến 12.352,5 triệu tấn trong cả vụ Miền Nam có tổng công suất ép cao nhất là 4.672,5 triệu tấn, tiếp theo là miền Trung với 3.652,5 triệu tấn Sản lượng mía toàn quốc trong vụ 2003 - 2004 đạt 10.610.519 triệu tấn, trong đó miền Nam sản xuất cao nhất với 4.151.161 triệu tấn, còn miền Trung có sản lượng thấp nhất là 2.712.718 triệu tấn.
Bảng 4.2: Sản l−ợng mía của một số nhà máy đ−ờng ở Việt Nam n¨m 2003 – 2004
Công suất thiÕt kÕ (TMN)
Công suất ép cả vô theo thiÕt kÕ
(Nguồn cục chế biến Nông Lâm sản và Nghề muối 28/05/2004)
Bảng 4.3 : Sản l−ợng phụ phẩm −ớc tính theo vùng vụ 2003 – 2004
Stt Công ty/ Nhà máy Sản l−ợng mía vụ
(Nguồn cục chế biến Nông Lâm sản và Nghề muối 28/05/2004)
Ngọn lá mía chiếm khoảng 12% tổng sinh khối cây mía, trong khi lượng rỉ mật ước tính bằng 3,5% sản lượng mía ép Hàm lượng protein trung bình trong ngọn lá mía khoảng 3%, dẫn đến việc hàng năm có thể thất thoát một lượng lớn chất dinh dưỡng Thức ăn từ ngọn lá mía có hàm lượng xơ thô cao nhưng tỷ lệ tiêu hóa thấp Do đó, việc áp dụng các biện pháp xử lý phù hợp để nâng cao tỷ lệ tiêu hóa và giá trị dinh dưỡng, đồng thời kéo dài thời gian bảo quản nhằm đáp ứng nhu cầu thức ăn xơ thô vào mùa đông là rất cần thiết.
4.1.2 Khả năng sử dụng cây mía trong chăn nuôi
Hệ thống dựa trên cây mía và phụ phẩm là một mô hình bền vững, giúp cải thiện độ phì nhiêu của đất, đặc biệt khi mía được trồng luân canh hoặc xen canh với các loại cây khác Ngọn lá mía có thể sử dụng làm thức ăn cho bò, trong khi nước mía là nguồn dinh dưỡng cho lợn và thủy cầm Bã mía được dùng làm chất đốt, và bẹ lá mía có thể được vùi vào đất hoặc sử dụng làm nhiên liệu Cây mía sản xuất lượng sinh khối lớn, với 1 ha mía có thể đạt 180 tấn/năm, cung cấp nguồn năng lượng quan trọng cho vật nuôi.
1 ha mÝa = 180 tÊn sinh khèi/n¨m
72 tÊn n−íc mÝa 72 tÊn c©y Ðp
Thịt hơi thu đ−ợc (kg/ha) 3060
Sơ đồ 4.1 Khả năng sử dụng của cây mía trong chăn nuôi
Đặc điểm tự nhiên và kinh tế, xã hội nơi nghiên cứu
lệ tiêu hoá dạ cỏ của ngọn đạt gần 60%) trong khi toàn bộ ngọn và bẹ lá chỉ có tỷ lệ tiêu hoá 40% và xơ 30% lần l−ợt)
Thân mía ép chứa khoảng 20-30% đường tan trong vật chất khô, nhưng tỷ lệ tiêu hóa chất khô chỉ đạt 25% Để tối ưu hóa khả năng tiêu hóa của động vật, thân cây mía ép nên được cắt ngắn và cung cấp theo phương pháp “High Offer”, giúp chúng dễ dàng lựa chọn các phần lõi dễ tiêu hóa và giàu đường Ngoài ra, cần bổ sung thêm tảng liếm và lá cây để đảm bảo dinh dưỡng đầy đủ.
Bò đực vỗ béo cần từ 2 đến 3 kg nguyên liệu tươi cho mỗi 100 kg thể trọng, cùng với một lượng nhỏ protein từ các nguồn như 500 g tấm gạo Với khẩu phần chính là thân cây mía ép và bổ sung lá Gliricidia sepium, bò có thể đạt mức tăng trọng lên đến 500 g mỗi ngày.
1 kg/ngày hỗn hợp tấm gạo trộn với phân gà (Molina, C, 1994) Vũ Duy Giảng, (2001) [18]
4.2 Đặc điểm tự nhiên và kinh tế, x∙ hội nơi nghiên cứu
4.2.1 Đặc điểm tự nhiên của huyện Thọ Xuân, Quỳ Hợp
4.2.1.1 Đặc điểm tự nhiên của huyện Thọ Xuân
*Vị trí địa lý, địa hình của huyện Thọ Xuân
Thọ Xuân là huyện nằm trong vùng trung du của tỉnh Thanh Hóa, có độ cao trung bình từ 10 đến 25 mét so với mực nước biển Địa hình của huyện nghiêng theo hướng tây bắc và đông nam.
Phía đông của huyện giáp với huyện Thiệu Hoá
Phía tây của huyện giáp với huyện Th−ờng Xuân
Phía nam của huyện giáp với huyện Triệu Sơn, Ngọc Lạc
Phía bắc của huyện giáp với huyện Yên Định, Ngọc Lạc
Huyện Thọ Xuân có tổng diện tích đất tự nhiên là 30305,49 ha
Trong đó: Đất trồng trọt là 15347,75 ha chiếm 50,64% Đất ruộng là 5173,12 ha chiếm 17,07% Đất thổ c− là 1180,81 ha chiếm 3,9% Đất đồi rừng 1836 ha chiếm 6,06% Đất bỏ hoang là 6767,81 ha chiếm 22,33%
Theo số liệu điều tra, diện tích đất trồng trọt của huyện chiếm 50,64%, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp và thúc đẩy chăn nuôi.
Nh−ng đất bỏ hoang còn chiếm tới 22,33% so với diện tích đất tự nhiên
4.2.1.2 Đặc điểm tự nhiên của huyện Quỳ Hợp
* Vị trí địa lý, địa hình của huyện Quỳ Hợp
Quỳ Hợp là một huyện miền núi nằm về phía tây của huyện Nghệ An
Phía đông của huyện giáp với huyện Nghĩa Đàn
Phía tây của huyện giáp với huyện Quỳ Châu
Phía nam của huyện giáp với huyện Con Cuông
Phía bắc của huyện giáp với tỉnh Thanh Hoá
Quỳ Hợp, một huyện lớn tại tỉnh Nghệ An, sở hữu tổng diện tích đất tự nhiên lên tới 58.601 ha Qua quá trình cải tạo, diện tích đất trồng trọt của huyện đang dần ổn định, góp phần phát triển nông nghiệp địa phương.
Trong tổng diện tích, đất trồng trọt chiếm 22,71% với 13.305 ha, trong khi đất ruộng chỉ chiếm 3,75% tương đương 2.200 ha Đất đồi rừng chiếm phần lớn với 72,04%, tương đương 42.217 ha Ngoài ra, đất thổ cư có diện tích 438 ha, chiếm 0,75% tổng diện tích, trong khi đất nông nghiệp chỉ chiếm 0,56% với 328 ha Cuối cùng, đất bỏ hoang chiếm 0,19% với diện tích 113 ha.
4.2.2 Đặc điểm kinh tế, xã hội của huyện Thọ Xuân và huyện Quỳ Hợp
4.2.2.1 Đặc điểm kinh tế, x ∙ hội của huyện Thọ Xuân
Thọ Xuân là một huyện lớn với 41 xã phường, bao gồm ba thị trấn: Thọ Xuân, Lam Sơn và Sao Vàng Dân cư chủ yếu là người Kinh, trong đó 50% theo đạo thiên chúa và 80% sống bằng nông nghiệp, nhưng trình độ lao động còn thấp Hệ thống trường lớp tại huyện đang được mở rộng và nâng cấp để nâng cao chất lượng giáo dục.
Ngoài ra, trên địa bàn huyện còn rất nhiều khu di tích lịch sử, di tích văn hoá nh− khu di tích Lam Kinh …
Quốc lộ 47A cùng với các hệ thống đường tỉnh, đường trục và huyện liên xã đang được nâng cấp bằng nhựa và bê tông Mạng lưới giao thông đa dạng và khép kín này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển, mua bán và trao đổi hàng hóa, từ đó thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa, du lịch và dịch vụ.
Trên địa bàn huyện, các nhà máy lớn như nhà máy đường Lam Sơn, nhà máy giấy Mục Sơn, và nhà máy sản xuất cồn, phân bón đã tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người dân, đồng thời đảm bảo đầu ra ổn định cho sản phẩm nông nghiệp Những nhà máy này cung cấp nguyên liệu cần thiết để hoạt động hiệu quả, góp phần nâng cao thu nhập và ổn định cuộc sống cho bà con trong và ngoài huyện.
4.2.2.2 Đặc điểm kinh tế và x ∙ hội của huyện Quỳ Hợp
Quỳ Hợp là huyện có diện tích tự nhiên lớn, lên tới 58.601 ha, với dân số 121.546 người và mật độ 207 người/km² Huyện bao gồm 20 xã, phường, trong đó có thị trấn Quỳ Hợp Hệ thống giáo dục tại đây đang được mở rộng và nâng cấp Đối tượng cư dân chủ yếu là người Kinh, với 80% dân số sống dựa vào nông nghiệp, tuy nhiên trình độ lao động còn thấp Tỷ lệ người trong độ tuổi lao động cũng chiếm phần lớn theo khảo sát thực tế.
Mạng lưới giao thông đa dạng và khép kín như quốc lộ 48A, cùng với các hệ thống đường tỉnh, đường trục và huyện liên xã đang được nâng cấp bằng nhựa và bê tông, đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển, mua bán, trao đổi hàng hóa, cũng như phát triển du lịch và dịch vụ.
Trên địa bàn huyện, các nhà máy như nhà máy liên doanh mía đường L AI và L, cùng nhà máy sản xuất nước khoáng Thiên An đã tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người dân trong và ngoài huyện Điều này không chỉ đảm bảo đầu ra ổn định cho sản phẩm nông nghiệp mà còn đáp ứng đầy đủ nguyên liệu cho hoạt động hiệu quả của các nhà máy Nhờ đó, thu nhập của bà con ngày càng ổn định và tăng cao.
Tình hình trồng mía ở 2 huyện Thọ Xuân và Quỳ Hợp
Qua điều tra tình hình trồng mía ở các nông hộ chúng tôi thấy có 2 huyện Thọ Xuân và Quỳ Hợp đ−ợc trình bày qua bảng 4.4
Theo bảng 4, kết quả điều tra 150 nông hộ tại huyện Thọ Xuân cho thấy có 139 hộ trồng mía với tổng diện tích 1795,76 sào, trung bình 12,92 ± 12,18 sào/hộ Xã Thọ X−ơng có diện tích thấp nhất, chỉ 4,76 ± 3,13 sào/hộ Mặc dù xã Xuân Châu chỉ chiếm 25% tổng diện tích trồng trọt, nhưng diện tích mía của từng hộ lại lớn nhất, cho thấy mía được tập trung ở những vùng nhất định Đặc điểm đất đai chủ yếu là đất đồng ruộng, nhưng mía lại được trồng chủ yếu trên đất đồi do nông dân đấu thầu Tại huyện Quỳ Hợp, trong số 160 nông hộ, có 154 hộ trồng mía với tổng diện tích 2417,83 sào, trung bình 15,7 ± 1,08 sào/hộ, trong đó xã Tam Hợp có diện tích thấp nhất với 10,29 ± 1,23 sào/hộ.
Bảng 4.4: Tình hình trồng mía ở huyện Thọ Xuân và Quỳ Hợp
Tổng diện tÝch mÝa (sào)
Diện tích trung b×nh (sào/ hộ)
Xã Minh Hợp có diện tích bình quân mỗi hộ điều tra cao nhất, chủ yếu do đất ở đây là đất đấu thầu của nông trường và địa hình đồi núi Vì vậy, cây mía vẫn là cây trồng chính không thể thay thế của người dân nơi đây.
4.4 −ớc tính l−ợng ngọn lá mía và tình hình sử dụng ngọn lá mía
4.4.1 Điều tra −ớc tính nguồn ngọn lá mía
Bảng 4.5: Điều tra −ớc tính ngọn lá mía của huyện Thọ Xuân và Quỳ Hợp
(Số liệu điều tra của các nông hộ)
Sản l−ợng (tÊn) ¦íc tÝnh khối l−ợng phô phÈm (tÊn)
Ghi chú : NT- Nông tr−ờng, 1 sào = 360 m 2
Ước tính l−ợng ngọn lá mía và tình hình sử dụng ngọn lá mía
Hàng năm, sau khi thu hoạch, có khoảng 1160,56 tấn ngọn lá mía được sản xuất, tạo ra nguồn thức ăn tiềm năng lớn cho bò Việc khai thác, bảo quản và chế biến nguồn ngọn lá mía này một cách khoa học sẽ giúp giải quyết tình trạng thiếu thức ăn xanh cho bò trong mùa khô, đồng thời cung cấp thức ăn quanh năm Tận dụng hiệu quả nguồn nguyên liệu này không chỉ giảm chi phí thức ăn mà còn nâng cao tỷ lệ tiêu hóa, mở rộng quy mô chăn nuôi và tăng thu nhập cho người chăn nuôi.
4.4.2 Tình hình sử dụng ngọn lá mía ở các nông hộ chăn nuôi
Sau khi thu hoạch, ngọn lá mía tươi tạo ra một lượng lớn nguyên liệu Kết quả khảo sát về việc sử dụng nguồn ngọn lá mía được trình bày trong bảng 4.6, liên quan đến hai huyện Thọ Xuân và Quỳ Hợp.
Kết quả từ bảng 4.6 cho thấy việc thu hoạch mía được thực hiện theo kiểu cuốn chiếu từng hộ gia đình theo kế hoạch của nhà máy Trong quá trình thu hoạch, chỉ một phần ngọn lá mía được sử dụng cho bò ăn, trong khi phần lớn còn lại được các hộ khác xin về chăn nuôi hoặc vứt bỏ ngoài đồng để sau đó đốt làm phân Tại huyện Thọ Xuân, có 143/150 hộ (chiếm 95,33%) sử dụng ngọn lá mía cho chăn nuôi, trong khi 139/150 hộ (99,33%) sử dụng ngọn lá mía tươi cho các mục đích khác Ước tính chỉ khoảng 30-40% ngọn lá mía tươi được dùng cho chăn nuôi, phần còn lại bị bỏ khô và đốt, dẫn đến lãng phí và ô nhiễm môi trường, điều này cần được khắc phục nhanh chóng.
Bảng 4.6: Tình hình sử dụng nguồn phụ phẩm mía ở
2 huyện Thọ Xuân và Quỳ Hợp
Sử dụng cho bò Sử dụng khác
Sè hé phỏng vấn Lá khô
Ghi chú : NT – Nông tr−ờng, SH: số hộ sử dụng
Sử dụng khác: Lá t−ơi: cho vứt bỏ
Lá khô: đốt làm phân ngay trên đồng ruộng, đun nấu làm tranh
4.5 Cơ cấu và tình hình phát triển chăn nuôi bò của 2 huyện Quỳ Hợp và Thọ Xuân
Ngành chăn nuôi tại địa phương đang phát triển mạnh mẽ để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội, đặc biệt trong việc cung cấp thịt và sữa Bên cạnh việc chăn nuôi lợn và gia cầm, chăn nuôi bò cũng đang gia tăng để đảm bảo cả về số lượng lẫn chất lượng sản phẩm Cơ cấu đàn gia súc tại hai huyện Quỳ Hợp và Thọ Xuân được thể hiện rõ qua bảng 4.7.
Bảng 4.7: Tình hình phát triển chăn nuôi của
2 huyện Quỳ Hợp và Thọ Xuân Loài
Tr©u Thọ Xuân Quỳ Hợp
Bò Thọ Xuân Quỳ Hợp
Lợn Thọ Xuân Quỳ Hợp
Thọ Xuân và Quỳ Hợp là hai huyện tiêu biểu về diện tích trồng mía, cung cấp nguyên liệu cho nhà máy đường Lam Sơn Việc phát triển chăn nuôi bò được xem là hướng đi chính để tận dụng phụ phẩm từ cây mía Nông hộ cho rằng chăn nuôi bò đơn giản, ít tốn công chăm sóc, chi phí thức ăn thấp và ít dịch bệnh Mặc dù vốn quay vòng chậm nhưng ổn định, số lượng đàn bò đã tăng lên trong những năm gần đây, theo số liệu từ phòng nông nghiệp huyện.
Ph−ơng thức chăn nuôi bò ở các nông hộ
Phương thức chăn nuôi bò hiện nay phản ánh sự phát triển và trình độ chăn nuôi của nền kinh tế Trong bối cảnh kinh tế nước ta đang phát triển, diện tích bãi chăn thả ngày càng bị thu hẹp, nhân lực trong ngành chăn nuôi bò giảm, và nguồn thức ăn trở nên khan hiếm Do đó, phương thức chăn nuôi bò đã có nhiều thay đổi để phù hợp với tình hình chung Kết quả điều tra về phương thức chăn nuôi bò tại các nông hộ ở huyện Quỳ Hợp và huyện Thọ Xuân được trình bày trong bảng 4.9 và bảng 4.10 cho thấy sự thay đổi này.
Huyện Quỳ Hợp đã tiến hành điều tra 160 gia đình chăn nuôi bò, cho thấy tỷ lệ chăn nuôi bò ở đây tương đối cao, chứng tỏ đây là hướng phát triển kinh tế tiềm năng của người dân Tuy nhiên, nhiều hộ gia đình gặp khó khăn về vốn, nguồn thức ăn và bãi chăn thả, dẫn đến quy mô chăn nuôi chủ yếu ở mức nhỏ Theo khảo sát, tỷ lệ hộ chăn nuôi bò theo phương thức kết hợp dao động từ 52,5% đến 85% Bò thường được nuôi nhốt hoặc cột tại nhà và được cho ăn bằng các loại thức ăn như ngọn lá mía và rơm khô, chỉ được thả rông khi có thời gian rảnh.
Huyện Thọ Xuân đã tiến hành điều tra 150 hộ gia đình, trong đó có 141 hộ chăn nuôi bò, với 94 hộ áp dụng phương thức chăn nuôi kết hợp, chiếm 66-67% tổng số hộ nuôi bò Tại các xã, tỷ lệ hộ chăn nuôi bò theo phương thức này dao động từ 76,67% đến 96,55% Đặc biệt, xã Xuân Châu có 46,67% hộ chuyển sang phương thức chăn nuôi nhốt, phản ánh một hướng phát triển mới trong bối cảnh diện tích bãi chăn thả ngày càng thu hẹp Phát triển nuôi bò được xem là giải pháp chính để tận dụng ngọn lá mía từ cây mía, đặc biệt ở huyện Quỳ Hợp và huyện Thọ Xuân, nơi có diện tích mía lớn Nông dân đánh giá chăn nuôi bò là công việc đơn giản, ít tốn công chăm sóc và chi phí thức ăn thấp, mặc dù thời gian quay vòng vốn chậm nhưng đáng tin cậy Trong 5 năm qua, đàn bò tại huyện Thọ Xuân đã tăng trưởng trung bình 2,37% mỗi năm, trong khi huyện Quỳ Hợp đạt mức tăng trung bình 2,75%.
Tình hình sử dụng thức ăn trong chăn nuôi bò của hai huyện Quỳ Hợp và Thọ Xuân 75 4.8 So sánh thành phần hoá học của ngọn lá mía tr−ớc khi xử lý với một
Thức ăn thô xanh trong chăn nuôi bò đang gặp nhiều thách thức, ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng sản phẩm, cũng như sức đề kháng của gia súc Việc chăm sóc tốt giúp nâng cao khả năng chống chọi với bệnh tật, trong khi nguồn thức ăn như rơm, thân cây ngô và ngọn lá mía là rất quan trọng Đặc biệt, 100% hộ gia đình trồng mía đều sử dụng ngọn lá mía cho bò, mặc dù hàm lượng xơ cao khiến tỷ lệ tiêu hóa thấp Nghiên cứu chế biến ủ chua ngọn lá mía sẽ giúp giảm hàm lượng chất xơ, cải thiện tỷ lệ tiêu hóa và bổ sung chất dinh dưỡng, đồng thời tạo điều kiện dự trữ thức ăn trong mùa khô hạn Việc này không chỉ nâng cao hiệu quả chăn nuôi mà còn góp phần mở rộng quy mô và cải thiện kinh tế cho người chăn nuôi.
Bảng 4.9 : Điều tra tình hình sử dụng thức ăn thô xanh cho bò ở hai huyện Quỳ Hợp và Thọ Xuân
Thức ăn thô xanh Rơm Ngọn lá mía Thân cây ngô
Ghi chú: SH – Số hộ sử dụng thức ăn cho bò
NT – Nông tr−ờng Đây là thức ăn thô xanh có hàm l−ợng xơ khá cao do đó tỷ lệ tiêu hoá thấp
Việc sử dụng thức ăn ủ chua cho bò thịt trong các nông hộ còn hạn chế, do đó, chế biến ngọn lá mía để nâng cao hiệu quả sử dụng thức ăn là cần thiết và mang lại lợi ích cho người chăn nuôi Quá trình ủ chua không chỉ giảm hàm lượng chất xơ và tăng tỷ lệ tiêu hóa mà còn cho phép bổ sung các chất dinh dưỡng còn thiếu, cải thiện chất lượng khẩu phần ăn Hơn nữa, việc này giúp dự trữ thức ăn cho bò trong mùa thiếu hụt, đặc biệt trong thời gian khô hạn kéo dài, từ đó mở rộng quy mô chăn nuôi và nâng cao hiệu quả kinh tế cho người chăn nuôi.
4.8 So sánh Thành phần hoá học của ngọn lá mía tr−ớc khi xử lý với một số phụ phẩm khác làm thức ăn cho bò
Cây mía là một trong những cây trồng nhiệt đới có suất sinh khối cao nhất, với ngọn lá mía là nguồn phụ phẩm lớn tại các xã trồng mía ở huyện Quỳ Hợp và Thọ Xuân, chiếm 10 - 12% tổng sinh khối cây mía Ngọn lá mía chứa nhiều hydratcacbon hòa tan, thuận lợi cho quá trình lên men dạ cỏ, theo nghiên cứu của các tác giả như Peres, Preston, Leng và Golh Để tận dụng hiệu quả nguồn phụ phẩm này trong chăn nuôi, chúng tôi đã phân tích thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của một số phụ phẩm nông nghiệp Kết quả cho thấy cả ba loại phụ phẩm đều có thành phần dinh dưỡng không cân đối, đặc biệt là hàm lượng protein và khoáng tổng số thấp, cùng với hàm lượng xơ cao Mặc dù có thể sử dụng làm thức ăn cho bò, lượng sử dụng vẫn còn hạn chế và phần lớn được dùng làm chất đốt.
Người chăn nuôi và các nhà khoa học đang tìm kiếm giải pháp để tối ưu hóa khả năng sử dụng các nguồn phụ phẩm, đặc biệt trong mùa khan hiếm thức ăn Việc này đòi hỏi phải có nguồn thức ăn dự trữ để đảm bảo khẩu phần cho bò được duy trì ổn định suốt cả năm.
Bảng 4.10: Thành phần hoá học của một số phụ phẩm nông nghiệp
Ngọn lá mía Thân cây ngô sau thu bắp
Ngọn lá mía không chỉ nâng cao hiệu quả chăn nuôi mà còn bảo vệ môi trường Phân tích cho thấy hàm lượng đường trong ngọn lá mía vượt quá 10%, cho phép ủ chua dễ dàng Mặc dù hàm lượng vật chất khô sau thu hoạch chỉ đạt 21,2%, nhưng có thể khắc phục bằng cách phơi héo để tăng hàm lượng này lên mức cao hơn.
Hàm lượng protein thô trong ba loại phụ phẩm nông nghiệp dao động từ 7% đến 35%, với rơm lúa có hàm lượng cao nhất đạt 17,51%, trong khi thân cây ngô thấp nhất chỉ có 5,85% Điều này cho thấy các phụ phẩm này rất giàu dinh dưỡng và tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình ủ chua.
Hàm lượng vật chất khô cung cấp thông tin quan trọng về tình hình sinh trưởng của thực vật, từ đó giúp xác định thời kỳ thu hoạch thích hợp và phương pháp bảo quản, chế biến thức ăn hiệu quả.
Thành phần hoá học và giá trị dinh d−ỡng của ngọn lá mía sau khi xử lý
Trong hai thập kỷ qua, Tổ chức FAO đã xem việc nghiên cứu chế biến và sử dụng phụ phẩm nông nghiệp là một chiến lược quan trọng Ngay cả các quốc gia có ngành chăn nuôi phát triển như Bắc Âu cũng quan tâm đến vấn đề này.
(1993), Bùi Văn Chính, Lê Viết Ly (1994, 1996) [7]
Theo các chuyên gia chăn nuôi, việc chế biến và sử dụng hiệu quả phụ phẩm nông nghiệp làm thức ăn cho bò có thể tăng đàn bò lên gấp 1,5 - 2 lần so với hiện tại mà không cần đầu tư lớn Tuy nhiên, ngọn lá mía có hàm lượng chất xơ cao, gây khó khăn trong tiêu hóa và bảo quản sau thu hoạch, dẫn đến việc nông dân chỉ sử dụng một lượng hạn chế với hiệu quả chưa cao.
Việc ủ chua thức ăn giúp người chăn nuôi duy trì nguồn thức ăn thô ổn định quanh năm, khắc phục tình trạng thiếu thức ăn trong mùa khô, đông lạnh và khi ngập úng Phương pháp này không chỉ bảo quản thức ăn lâu dài mà còn giảm thiểu tổn thất chất dinh dưỡng Ngoài ra, ủ chua còn tận dụng được nhiều nguồn phụ phẩm từ nông nghiệp làm thức ăn dự trữ cho gia súc, góp phần vào việc khai thác bền vững tài nguyên địa phương và bảo vệ môi trường Để đánh giá chất lượng và thành phần hóa học của ngọn lá mía sau xử lý, chúng tôi đã tiến hành phân tích các chỉ tiêu dinh dưỡng của thức ăn.
Trong quá trình ủ, phần lớn vi khuẩn háo khí bị tiêu diệt, chỉ còn lại vi khuẩn yếm khí, trong đó vi khuẩn E.coli đóng vai trò quan trọng khi chuyển đổi đường của thực vật thành axit, và sự phát triển của nó chịu ảnh hưởng bởi độ pH môi trường Bên cạnh đó, E.coli còn phân huỷ protein thành NH3 và một số axit độc hại Mặc dù vi khuẩn lactic chỉ chiếm khoảng 1% tổng số vi khuẩn trong thực vật, nhưng sự phát triển của chúng trong môi trường yếm khí có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng của thức ăn ủ.
Ba yếu tố giúp cho vi khuẩn lactic phát triển nhanh là yếm khí, đủ đường, vi khuẩn lactic số l−ợng nhiều
Khi các yếu tố cần thiết được đảm bảo, đường trong thực phẩm sẽ chủ yếu được chuyển hóa thành axít lactic, giúp bảo quản thức ăn ủ với pH = 4,2 Nếu pH không được duy trì ổn định, vi khuẩn Clostridia có trong thức ăn xanh sẽ phát triển, dẫn đến quá trình lên men axít lactic thành axít butyric, làm tăng pH Sự giảm thiểu axít sẽ kích thích sự phát triển của vi khuẩn Clostridia, tạo ra nhiều NH3 và làm pH tiếp tục tăng.
Sự phát triển của vi khuẩn lactic có thể bị hạn chế bởi nhiều yếu tố, dẫn đến việc quá trình lên men axít lactic diễn ra chậm hơn, tạo điều kiện cho sự lên men thối rữa Hệ quả của quá trình này là có thể làm mất từ 60% đến 70% chất dinh dưỡng trong thức ăn ủ.
Lượng protein trong thức ăn xanh ủ ảnh hưởng đến mức axit lactic cần thiết để duy trì pH ổn định Axit lactic có tác dụng làm giảm pH của thức ăn ủ, trong khi protein và các sản phẩm phân hủy của protein (NH3) lại giúp ngăn chặn sự giảm pH này.
Hàm l−ợng prôtein trong thức ăn xanh đem ủ càng cao thì cần nhiều axít lactic để đạt pH xác định, Vũ Duy Giảng và cộng sự (1999) [17]
Khi phân tích hàm lượng đường trong mía nguyên liệu là 11,27% theo VCK, chúng tôi nhận thấy cần bổ sung thêm một số chất phụ như rỉ mật, bột sắn và muối để nâng cao giá trị dinh dưỡng trong quá trình ủ Đường là yếu tố thiết yếu cho vi khuẩn lactic, giúp quá trình lên men diễn ra hiệu quả, đảm bảo hình thành axít lactic cần thiết để đạt pH = 4,2 Bảng 4.11 cho thấy mối liên hệ giữa hàm lượng protein, axít và pH trong quá trình ủ.
Bảng 4.11: ảnh h−ởng của việc bổ sung bột sắn với các tỉ lệ khác nhau đến kết quả ủ chua lá mía
Tỷ lệ bột sắn % Màu sắc thức ăn ủ pH
Stt TÝnh theo dạng t−ơi
Ghi chó: TB – Trung b×nh
Qua bảng 4.11 chúng tôi thấy không bổ sung bột sắn hay chỉ bổ sung 1-1,5
Sau 50 đến 60 ngày, nấm mốc sẽ phát triển và lá mía ủ chua sẽ có màu đen xẫm Tuy nhiên, khi bổ sung từ 3-5% bột sắn, lá mía ủ chua sẽ chuyển sang màu vàng rơm và có độ pH từ 4,4 đến 4,5 Thức ăn ủ lâu ngày sẽ có chất lượng tốt hơn.
Bảng 4.12: Hàm l−ợng a xít hữu cơ của lá mía ủ chua đ−ợc bổ sung bột sắn
A xÝt lactic A xÝt axetic A xÝt butyric
Theo bảng 4.12, hàm lượng axít lactic cao và axít butyric thấp đều liên quan đến chất lượng thức ăn ủ chua Cụ thể, lá mía ủ chua có bổ sung từ 4% bột sắn trở lên cho thấy hàm lượng axít lactic đạt 1,5 - 2%, trong khi axít butyric ở mức thấp Điều này chứng tỏ thức ăn ủ chua đạt chất lượng tốt Vì vậy, việc sử dụng công thức ủ chua với 4-5% bột sắn (tính trong dạng tươi) sẽ giúp dễ dàng chế biến và dự trữ lá mía làm thức ăn cho bò.
Sau khi ủ chua, pH của khối thức ăn giảm từ 6,14 xuống 3,8-3,9, cho thấy thức ăn ủ có pH nhỏ hơn hoặc bằng 4,2, phù hợp với lý thuyết Mối quan hệ giữa pH và hàm lượng axít hữu cơ trong thức ăn ủ là chặt chẽ, với pH cao đồng nghĩa với hàm lượng axít hữu cơ giảm Hàm lượng axít hữu cơ của ngọn lá mía dao động từ 1,11% đến 2,14%, trong đó cao nhất là công thức ngọn lá mía +2% và rỉ mật 2,14%, còn thấp nhất là ngọn lá mía tươi ủ 0% (1,11%) Kết quả phân tích cho thấy mối tương quan giữa pH và hàm lượng axít hữu cơ là r = -0,51, xác nhận tính chính xác của nghiên cứu.
Bảng 4.13: Đánh giá chất l−ợng của ngọn lá mía sau khi ủ chua
1 LM ch−a xử lý 6,14 Xanh 0
2 NLM ủ 0 % 4,91 1,11 Chua nhẹ Vàng nhạt 2
3 NLM + 0,5 %N a CL 3,90 1,15 Thơm dễ chịu Vàng nhạt 2,5
4 NLM + 1 % BS 3,86 1,41 Thơm dễ chịu Vàng rơm 3,2
5 NLM + 2 % BS 3,88 2,11 Thơm dễ chịu Vàng rơm 2,4
6 NLM + 1 % RM 3,89 1,97 Thơm dễ chịu Vàng rơm 3,5
7 NLM + 1 % RM 3,87 2,14 Thơm dễ chịu Vàng rơm 4,0
Ghi chú: NLM - ngọn lá mía, BS - bột sắn, RM - rỉ mật
Lượng axit sinh ra trong quá trình lên men vi khuẩn lactic ảnh hưởng lớn đến ngọn lá mía ủ, với hàm lượng axit biến động từ 1,11 - 1,78% Công thức ngọn lá mía + 10% rỉ mật có hàm lượng axit cao nhất, nhưng giá trị pH = 3,4 không đạt yêu cầu Các công thức xử lý đều có lượng axit cao hơn công thức đối chứng, điều này cần thiết cho quá trình ủ Công thức ngọn lá mía + 5% bột sắn cho giá trị thích hợp về protein, pH, và axit, nên được sử dụng để nâng cao giá trị dinh dưỡng của thức ăn Phần ngọn lá mía còn xanh chiếm 10 - 12% tổng sinh khối cây mía, tương đương khoảng 1,5 triệu tấn phụ phẩm tại Việt Nam Mặc dù có hàm lượng xơ cao, lá mía chứa nhiều dẫn xuất không đạm thích hợp cho quá trình lên men Việc ủ chua thức ăn diễn ra trong môi trường không có không khí, giúp vi khuẩn biến đổi đường thành axit, giảm pH và bảo quản thức ăn lâu dài Để đánh giá chất lượng ngọn lá mía sau khi ủ, chúng tôi đã phân tích thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của một số công thức.
Theo bảng 4.13, hàm lượng protein cao nhất đạt 2,86% ở công thức 3, vượt trội hơn so với công thức 7 với mức thấp nhất là 1,87%, thấp hơn công thức đối chứng 0,11% Hàm lượng vật chất khô cũng ảnh hưởng đến thức ăn ủ cho gia súc; trong các công thức, vật chất khô giảm so với công thức đối chứng, với công thức 3 đạt mức cao nhất là 2,06% Công thức 4 có hàm lượng vật chất khô thấp nhất là 16,66% Tất cả các công thức sau khi ủ đều có lượng vật chất khô thấp hơn so với mía chưa ủ, đạt 29,05%.
Lignin không tan trong nước, dung môi hữu cơ thông thường và axit đậm đặc, đồng thời rất bền với enzym vi sinh vật trong dạ cỏ Khi tiếp xúc với dung dịch kiềm hoặc axit sulfurơ, một phần lignin có thể bị phân giải và chuyển vào dạ dày Mức độ lignin hóa cao làm cho thành tế bào thực vật cứng và bền vững, đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ cấu trúc thực vật, nhưng cũng gây khó khăn trong quá trình tiêu hóa ở dạ cỏ của bò (Nguyễn Xuân Trạch, 2003).
Theo bảng 4.14, hàm lượng NDF, ADF và biến động của chúng ảnh hưởng đến hàm lượng hemyxellulo và xenlluloza Cụ thể, ở ngọn lá mía, hàm lượng hemyxellulo giảm so với khi chưa xử lý, với mức giảm cao nhất là 28,85% ở công thức ngọn lá mía +2% bột sắn, trong khi khi chưa xử lý là 32,00% Ngược lại, hàm lượng xelluloza lại tăng lên, cho thấy một phần hemyxellulo đã bị thủy phân trong quá trình ủ chua Đối với hàm lượng ADL (lignin), có sự khác biệt rõ rệt giữa các công thức khi chưa xử lý (P < 0,05), đây là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng tiêu hóa xơ, với hàm lượng cao làm giảm khả năng tiêu hóa và ngược lại.
Bảng 4.15: ảnh h−ởng của việc bổ sung rỉ mật với các tỷ lệ khác nhau đến việc ủ chua lá mía
Tỷ lệ rỉ mật (%) pH
Xám đen Vàng nhạt Vàng nhạt Vàng rơm Vàng rơm Vàng rơm Vàng rơm
Kết quả theo dõi ảnh h−ởng của khẩu phần ăn có ngọn lá mía ủ chua đến tăng khối l−ợng của bò thịt
ngọn lá mía ủ chua đến tăng khối l−ợng của bò thịt
4.10.1 Kết quả theo dõi ảnh h−ởng của khẩu phần ăn có lá mía ủ chua đến tăng khối l−ợng của bò thịt
Kết quả từ bảng 4.17 cho thấy rằng hai lô thí nghiệm có khẩu phần cơ sở tương tự nhau Tuy nhiên, lô 1 được cho ăn lá mía ủ chua với 5% bột sắn ăn tự do, trong khi lô 2 được cho ăn lá mía khô (ăn tự do).
Lượng chất khô tiêu thụ hàng ngày cho mỗi 100 kg thể trọng, cùng với lượng protein trong khẩu phần của hai lô thí nghiệm, đã đáp ứng nhu cầu sinh trưởng của bò, gần tương đương với các tiêu chuẩn của NRC (1996) Đặc biệt, lá mía đã chiếm hơn 75% tổng lượng chất khô trong khẩu phần.
Bảng 4.17: Khẩu phần ăn thực tế của bò đ−ợc ăn lá mía ủ chua
Chỉ tiêu KP lá mía ủ chua KP lá mía khô
Cỏ voi (kg/con/ngày) 2,04 2,04
Bã sắn (kg/con/ngày) 2,42 2,42
Lá mía ủ chua (kg/con/ngày) 12,63 0
Lá mía khô (kg/con/ngày) 0 8,84
Hàm l−ợng xơ (% trong chất khô) 32,63 31,54
Chúng tôi đã thực hiện thí nghiệm với mỗi lô gồm 5 con bò có trọng lượng tương đương và sức khỏe tốt, kéo dài trong 60 ngày Sau thời gian theo dõi, chúng tôi đã ghi nhận được những kết quả bước đầu quan trọng.
Theo bảng 4.18, tốc độ tăng trưởng của lô bò ăn lá mía ủ chua đạt 590,4 g/ngày, cho thấy hiệu quả tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng khối lượng chỉ ở mức 8,35 kg chất khô Kết quả này gần đạt mức tăng khối lượng của bò nhiệt đới nuôi bằng khẩu phần xanh thô có bổ sung hạt bông hay rỉ mật, như nghiên cứu của Dolberg (1993) và Preston và Leng (1991) Đặc biệt, lô bò ăn lá mía ủ chua tiêu tốn thức ăn thấp hơn rõ rệt so với lô bò ăn lá mía khô, với 8,35 kg so với 9,34 kg.
Bảng 4.18 : Sự thay đổi khối l−ợng và chi phí của bò thí nghiệm đ−ợc nuôi bằng lá mía ủ chua
Chỉ tiêu Khẩu phần lá mía ủ chua
Khẩu phần lá mía khô
- Thời gian thí nghiệm/ngày
- Tăng khối l−ợng(g/con/ngày)
+ Kg chất khô/kg P tăng
Tiền chi phí TĂ(đồng/kg P tăng)
Ghi chú: P: trọng l−ợng, TĂ: thức ăn
Chi phí thức ăn cho 1 kg tăng khối lượng ở lô ăn lá mía ủ chua là 4.541 đồng, trong khi đó chi phí cho lô ăn lá mía khô là 7.865 đồng, tạo ra chênh lệch 3.324 đồng Việc này giúp nông dân tận dụng phụ phẩm mía hiệu quả hơn khi thấy rõ lợi ích kinh tế Sử dụng lá mía ủ chua không chỉ tăng nguồn thức ăn mà còn giảm giá thành sản phẩm chăn nuôi.
Hạch toán kinh tế
Chúng tôi đã tính toán giá thành của lá mía ủ chua, cho thấy giá thành thấp nhất là 372 đồng/kg CK, giúp tiết kiệm chi phí thức ăn và nâng cao giá trị dinh dưỡng trong khẩu phần chăn nuôi bò thịt Trong khi đó, lá mía tươi có giá thành 484 đồng/kg CK Chi phí thức ăn cho khẩu phần lá mía ủ chua là 4.540 đồng/kg P, trong khi khẩu phần lá mía khô có chi phí 7.865 đồng/kg P Kỹ thuật ủ chua trong túi nilông có chi phí thấp và dễ áp dụng, phù hợp với các hộ gia đình nông dân.
Nông dân huyện Quỳ Hợp và Thọ Xuân đã áp dụng kỹ thuật ủ chua yếm khí lá mía, giúp tăng nguồn thức ăn cho bò và giảm giá thành sản phẩm chăn nuôi Mặc dù hiện tại chỉ một số hộ nông dân sử dụng phương pháp này, nếu được mở rộng, chắc chắn sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn.