1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Lịch sử khai phá làng diên sanh qua thư tịch cổ từ thế kỷ xiv đến thế kỷ xviii

120 15 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 120
Dung lượng 1,8 MB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài - Mục đích nghiên cứu (7)
    • 1.1. Lý do chọn đề tài (7)
    • 1.2. Mục đích nghiên cứu (8)
  • 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề (9)
  • 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (13)
  • 4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu (14)
    • 4.1. Phương pháp nghiên cứu (14)
    • 4.2. Nguồn tài liệu (15)
  • 5. Bố cục của luận văn (18)
  • 6. Đóng góp khoa học của luận văn (18)
  • Chương 1. Tổng quan về địa lý và lịch sử làng Diên Sanh 1.1. Địa lý tự nhiên (19)
    • 1.1.1. Vị trí, diện tích (19)
    • 1.1.2. Địa hình, thổ nhưỡng (20)
    • 1.1.3. Khí hậu, thời tiết (21)
    • 1.1.4. Giao thông (đường bộ, đường thủy) (23)
    • 1.2. Lịch sử (25)
      • 1.2.1. Thời kỳ trước thế kỷ XIV (25)
        • 1.2.1.1. Thời tiền sử (25)
        • 1.2.1.2. Thời Hùng Vương đến cuối thế kỷ XIII (27)
        • 1.2.1.3. Lớp cư dân bản địa (29)
        • 1.2.2.1. Địa giới hành chính (32)
        • 1.2.2.2. Diên Sanh hôm nay (35)
  • Chương 2. Công cuộc khẩn hoang, tạo lập làng Diên Sanh từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVIII 2.1. Giai đoạn từ đầu thế kỷ XIV đến cuối thế kỷ XIV (74)
    • 2.1.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội (40)
    • 2.1.2. Công cuộc di cư và các dòng họ khai phá làng Diên Sanh (44)
    • 2.2. Giai đoạn từ đầu thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XV (50)
    • 2.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội (0)
    • 2.2. Công cuộc khai phá làng Diên Sanh (0)
    • 3. Giai đoạn từ đầu thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVIII (0)
      • 3.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội (0)
      • 3.2. Công cuộc khai phá và phát triển làng Diên Sanh (0)
  • Chương 3. Thành tựu khẩn hoang ở làng Diên Sanh từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVIII 3.1. Mở rộng diện tích khai phá (0)
    • 3.2. Tình hình sở hữu ruộng đất và chế độ tô thuế (79)
      • 3.2.1. Tình hình sở hữu ruộng đất (79)
        • 3.2.1.1. Ruộng đất công (79)
        • 3.2.1.2. Ruộng đất tư (83)
      • 3.2.2. Chế độ tô thuế (84)
    • 3.3. Hoạt động kinh tế (87)
      • 3.3.1. Kinh tế nông nghiệp (87)
      • 3.3.2. Các ngành kinh tế khác (91)
        • 3.3.2.1. Chăn nuôi (91)
        • 3.3.2.2. Các ngành nghề tiểu thủ công (93)
        • 3.3.2.3. Nghề đánh bắt cá và săn bắt thú (94)
        • 3.3.2.4. Thương nghiệp (94)
    • 3.4. Đời sống văn hóa (96)
      • 3.4.1. Đời sống văn hóa vật chất (0)
        • 3.4.1.1. Y phục (96)
        • 3.4.1.2. Nhà ở (98)
      • 3.4.2. Đời sống văn hóa tinh thần (99)
        • 3.4.2.1. Truyền thống yêu nước, hiếu học (99)
        • 3.4.2.2. Tôn giáo, tín ngưỡng (101)
        • 3.4.2.3. Phong tục tập quán (103)
  • KẾT LUẬN (105)
  • PHỤ LỤC (115)

Nội dung

Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Trong các tài liệu như Nguyễn Trãi toàn tập (Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1976), Ô châu cận lục của Dương Văn An (Bùi Lương phiên dịch, Văn hóa Á châu, 1961), Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (Nhà xuất bản Sử học Hà Nội, 1969), và Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn (Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1977), cũng như các tác phẩm của Quốc sử quán triều Nguyễn như Đại Nam nhất thống chí (tỉnh Quảng Trị, Tu Trai Nguyễn Tạo dịch, Nha Văn hóa Bộ), đã ghi lại nhiều giá trị văn hóa và lịch sử quan trọng của Việt Nam.

Quốc gia Giáo dục xuất bản (1961); Khâm định Việt sử thông giám cương mục,

Nhà xuất bản Giáo dục, 1998; Đại Nam thực lục, Nhà xuất bản Giáo dục, 2007;

Quốc triều chính biên toát yếu, Nhà xuất bản Sử - Địa Sài Gòn, 1971; Minh Mạng chính yếu, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế, 1993; Châu bản triều Nguyễn,

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CAO HỌC CHUYÊN NGÀNH LỊCH SỬ VIỆT NAM

Viện Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1997; Đại Nam hội điển sử lệ, Nhà xuất bản

Thuận Hóa, Huế, 1993… đều ít nhiều có đề cập đến làng Diên Sanh nói riêng và châu Thuận nói chung

Trong bài viết, đáng chú ý có thông tin từ Ô châu cận lục, phần Phong tục tổng luận, huyện Hải Lăng, nêu rõ: “Xã Diên Sanh có lắm người hùng…” (tr.46) Bên cạnh đó, Phủ biên tạp lục cũng đề cập đến sự tích khai thiết khôi phục hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam, thể hiện sự quan trọng của vùng đất này trong lịch sử.

Ngày 7 tháng 12 năm 1774, khi quân Trịnh chiếm Quảng Bình và tiến vào Phú Xuân, chúa Nguyễn đã chỉ đạo quân đội đến các xã Lương Phúc, Diên Sanh để đối đầu với quân Trịnh Diên Sanh được nhắc đến trong Đại Nam nhất thống chí liên quan đến huyện trị, huyện học và phố chợ Ngoài ra, trong Đại Nam thực lục, có ghi nhận việc miễn dao dịch cho binh dân tại 2 xã Diên Sanh và Đan Quế, nhằm hỗ trợ đào kênh phục vụ cho việc canh tác.

Ngoài những tư liệu trên đây, còn có một số công trình nghiên cứu, bài viết khác cũng có đề cập đến như:

- “Tháng giêng, tháng hai…” - Một bài ca dao tiêu biểu của Quảng Trị của Văn Quang, Tạp chí Cửa Việt, số 9, tr.68, 3/1995

Bài viết khám phá bài ca dao phản ánh tinh thần yêu đời và lạc quan của người dân Kẻ Diên (làng Diên Sanh) trước những thử thách trong cuộc sống Những câu ca dao thể hiện sự kiên cường và niềm tin vào cuộc sống, dù phải đối mặt với khó khăn, gian khổ Tinh thần lạc quan này không chỉ là nét đẹp văn hóa mà còn là nguồn động lực cho cộng đồng vượt qua mọi trở ngại.

Tháng giêng, tháng hai, tháng ba, tháng bốn, tháng khốn, tháng nạn Đi vay đi tạm được một quan tiền

Ra chợ Kẻ Diên mua con gà mái

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CAO HỌC CHUYÊN NGÀNH LỊCH SỬ VIỆT NAM

… Đừng than phận khó ai ơi

Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây

- Lịch sử xã Hải Thọ (1996)

Bài viết do Đảng ủy xã Hải Thọ biên soạn tập trung vào lịch sử xã Hải Thọ trong thời phong kiến và ghi lại quá trình phát triển của Đảng bộ xã qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ Đặc biệt, một phần quan trọng của bài viết đề cập đến quá trình tụ cư và khai phá để hình thành làng Diên Sanh, với nội dung chi tiết được trình bày từ trang 9 đến trang 18.

- Làng Diên Sanh, Quảng Trị: một dấu chân trên con đường Nam tiến vĩ đại của dân tộc của Văn Thành, Cội nguồn, tập 1, tr.115, 1996

Bài viết đã giới thiệu một cách khái quát về các dòng họ đến Diên Sanh khai hoang lập làng, cũng như số lượng ruộng đất khai phá được

- Trần thị di chúc văn (làng Diên Sanh) - một tài liệu quí hiếm của

Nguyễn Thái Hòa, Thông tin Khoa học - Trường Cao đẳng Văn hóa Thành phố

Hồ Chí Minh, số 3, tr.26, 2000

Bài viết giới thiệu toàn văn di chúc của họ Trần, lập năm 1729 và sao lại năm 1915, là tài liệu quý giá về lịch sử Tài liệu này đề cập đến chính sách di dân của vua Trần Minh Tông, tên gọi trước đây của làng Diên Sanh, cùng với việc khai khẩn đất hoang và sự hợp tác với các họ tộc khác.

- Kẻ Diên (trong tập Bút ký: Quê Hương) của Phan Quang, Nhà xuất bản Trẻ, tr.309-320, 2000

Bài viết là cảm nhận của tác giả khi trở lại thăm Kẻ Diên (Diên Sanh), nơi

“cảnh cũ người xưa” đã không còn Và trước vận hội mới của đất nước, tác giả mong muốn Kẻ Diên sẽ vươn mình lớn mạnh

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CAO HỌC CHUYÊN NGÀNH LỊCH SỬ VIỆT NAM

- Những người khai phá đất Hải Lăng, Quảng Trị của Nguyễn Văn Trúc, Cội nguồn, tập 4, tr 61-68, 2001

Bài viết này giới thiệu về những người khai phá vùng đất Hải Lăng và sự hình thành các làng xã tại đây, đặc biệt là làng Diên Sanh cùng với các làng lân cận như Câu Hoan (xã Hải Thiện), Thượng Xá (xã Hải Thượng), Trường Sanh (xã Hải Trường) và Câu Nhi (xã Hải Tân).

- Văn bản ruộng đất thời Nguyễn của Nguyễn Văn Thành, trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 2005, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, tr.682

Bài viết này trình bày toàn văn hiệp định của 15 họ tộc tại làng Diên Sanh, được lập vào năm Khải Định thứ 3 (1918), liên quan đến việc phân chia ruộng đất cho việc thờ cúng tổ tiên Tài liệu này có giá trị lịch sử và văn hóa quan trọng, phản ánh truyền thống và phong tục tập quán của cộng đồng địa phương.

- Tìm hiểu về làng Diên Sanh, quá trình tụ cư và phát triển của Nguyễn

Thái Hòa, Thông báo khoa học trẻ - Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ chí Minh, 2007

Bài viết khám phá quá trình tụ cư và sự phát triển của cư dân làng Diên Sanh, thông qua việc so sánh và đối chiếu các nguồn tư liệu Qua đó, tác giả khẳng định thứ tự các dòng họ đến Diên Sanh, đồng thời mô tả quá trình khai hoang và hoàn thiện địa giới của làng.

Các nghiên cứu và bài viết đã mang lại những kết quả quan trọng, góp phần nâng cao hiểu biết về vùng đất và con người Diên Sanh.

Luận án kế thừa các nghiên cứu trước đó, nhằm tổng hợp và phân tích các dữ liệu lịch sử về vùng đất và con người Diên Sanh Qua đó, luận án sẽ làm rõ tiềm năng, thế mạnh, nguồn lực cũng như những khó khăn, thách thức mà Diên Sanh đang đối mặt, từ đó đề xuất các giải pháp để xây dựng Diên Sanh trở nên phát triển và thịnh vượng hơn trong tương lai.

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CAO HỌC CHUYÊN NGÀNH LỊCH SỬ VIỆT NAM

Hầu hết các công trình và bài viết hiện có chỉ tập trung vào việc trình bày các vấn đề tổng thể mà không đi sâu vào chi tiết không gian.

Bài viết tập trung vào giai đoạn lịch sử từ năm 1945 đến nay, đặc biệt là những diễn biến và sự kiện quan trọng diễn ra tại vùng đất Diên Sanh.

5 thế kỷ (từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVIII), nhất là giai đoạn đầu mở đất thì hầu như rất sơ lược

Lịch sử khai phá làng Diên Sanh từ thế kỷ XIV đến XVIII chưa được nghiên cứu một cách riêng biệt, tuy nhiên, vai trò của nhân dân lao động trong việc khẩn hoang và lập làng là rất quan trọng và cần được làm rõ Bên cạnh đó, vấn đề ruộng đất của các họ tộc đầu tiên và đời sống vật chất, tinh thần của người dân làng Diên Sanh cũng chưa được khai thác đầy đủ Những nội dung này sẽ được trình bày chi tiết trong luận văn này.

Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu

Phương pháp nghiên cứu

Bản luận văn này được xây dựng dựa trên quan điểm và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tập trung vào chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CAO HỌC CHUYÊN NGÀNH LỊCH SỬ VIỆT NAM

Lịch sử khai phá vùng đất Diên Sanh cần được xem xét trong bối cảnh phát triển liên tục của lịch sử và các mối quan hệ của nó Luận văn áp dụng các phương pháp nghiên cứu như phương pháp lịch sử, logic và điền dã sử học Đồng thời, nghiên cứu cũng sử dụng phương pháp dân tộc học, so sánh lịch đại và đồng đại, dựa trên việc khảo cứu tài liệu và thực địa, cùng với việc thu thập tư liệu qua ảnh chụp, hoạ đồ, phỏng vấn và toạ đàm với các tộc họ có liên quan để làm rõ những thông tin chưa chính xác và chưa thống nhất.

Nguồn tài liệu

Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở nhiều nguồn tư liệu khác nhau: Tư liệu thư tịch và tư liệu điền dã

- Thư viện, kho lưu trữ:

+ Thư viện Khoa học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh

+ Thư viện Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh

+ Thư viện Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Thành phố

+ Trung tâm lưu trữ Quốc gia II - Thành phố Hồ Chí Minh

+ Trung tâm lưu trữ Sở Địa chính, tỉnh Quảng Trị

+ Bảo tàng tỉnh Quảng Trị

+ Thư viện huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị

+ Tư liệu Ban Tuyên giáo Huyện uỷ huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị + Phòng Tài nguyên môi trường huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị

+ Phòng Truyền thống huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CAO HỌC CHUYÊN NGÀNH LỊCH SỬ VIỆT NAM

+ Phòng Lao động - Thương binh - Xã hội, huyện Hải Lăng, Tỉnh Quảng Trị

+ Phòng tư liệu Ủy ban Nhân dân xã Hải Thọ…

- Gia phả của các dòng họ trong làng Diên Sanh:

Và các văn bản khác như:

+ Châu bộ Gia Long về công tư điền thổ (địa bạ)

+ Văn bản hiệp định về việc phân chia ruộng đất thờ hương hỏa

+ Văn bản hiệp phù về ranh giới giữa làng Diên Sanh với các làng phụ cận

- Sắc phong của triều Nguyễn:

- V ề vi ệ c th ừ a nh ậ n các dòng h ọ khai canh

+ 01 Sắc phong Khải Định nhị niên (1917)

+ 01 Sắc phong Khải Định cửu niên (1924)

- S ắ c phong th ầ n Thành hoàng làng

+ 01 sắc Đồng Khánh nhị niên (1887), sắc tặng: “Bảo an chính trực hựu thiện đôn ngưng Thành hoàng chi thần” Gia tặng “Dực bảo trung hưng chi thần”

Vào năm 1924, sắc Khải Định cửu niên đã được ban hành, trong đó có nội dung sắc tặng với lời ghi: “Bảo an chính trực hựu thiện đôn ngưng Dực bảo trung hưng Thành hoàng chi thần” và gia tặng danh hiệu “Tinh hậu trung đẳng thần”.

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CAO HỌC CHUYÊN NGÀNH LỊCH SỬ VIỆT NAM

- S ắ c phong Quan Thánh Đế quân

+ 01 sắc Quan Thánh Đế Quân Hộ Quốc Tý Dân, cấp ngày 16 tháng 04 năm Tự Đức thứ 7 (1854)

Sắc phong Quan Thánh Đế Quân Bảo An Chính Trực Hựu Thiện Đôn là một biểu trưng quan trọng, được công nhận là thành hoàng chi thần Sắc phong này được ban hành theo chiếu lễ Đàm Ân vào ngày 24 tháng 11 năm Tự Đức thứ 33 (1880).

+ 01 sắc Dực Bảo Trung Hưng Đế Quân, cấp ngày 01 tháng 07 năm Đồng Khánh thứ 2 (1887)

Sắc Dực Bảo Trung Hưng Quan Thánh Đế Quân Bảo An Chính được phong tặng theo chiếu lễ Đàm Ân vào ngày 11 tháng 08 năm Duy Tân thứ 3, thể hiện sự tôn vinh đối với Thành Hoàng chi thần và những giá trị văn hóa tâm linh quan trọng.

+ 01 sắc Dực Bảo Trung Hưng Quan Thánh Đế Quân, phong tặng theo chiếu lễ Đàm Ân, cấp ngày 25 tháng 07 năm Khải Định thứ 9 (1924)

- Di tích lịch sử - văn hóa:

Tác giả luận văn đã chú trọng đến việc nghiên cứu và khai thác các hiện vật lịch sử, bản đồ, hoạ đồ, và hình ảnh được lưu giữ tại các dòng họ, cũng như những hiện vật đang được trưng bày tại phòng truyền thống huyện Hải Lăng và Bảo tàng Quảng Trị.

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CAO HỌC CHUYÊN NGÀNH LỊCH SỬ VIỆT NAM

Bố cục của luận văn

Luận văn với 102 trang, gồm: phần dẫn luận, ba chương và phần kết luận

Ba chương chính của luận văn:

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỊA LÝ VÀ LỊCH SỬ LÀNG DIÊN SANH Chương 2: QUÁ TRÌNH KHAI PHÁ, TẠO LẬP LÀNG DIÊN SANH

TỪ THẾ KỶ XIV ĐẾN THẾ KỶ XVIII Chương 3: THÀNH TỰU KHẨN HOANG Ở LÀNG DIÊN SANH

Từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVIII, bài viết sẽ bao gồm phần phụ lục, hình ảnh, bản đồ, hoạ đồ và tài liệu tham khảo theo quy định của luận văn Thạc sĩ Khoa học Lịch sử.

Tổng quan về địa lý và lịch sử làng Diên Sanh 1.1 Địa lý tự nhiên

Vị trí, diện tích

Làng Diên Sanh hiện nay bao gồm 8 thôn: thôn 1, thôn 2, thôn 3, thôn 4, thôn Công Thương Nghiệp, thôn Đồng Họ, thôn Diên Trường và thôn Tân Diên, thuộc xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.

Làng Diên Sanh, tọa lạc tại vị trí trung tâm huyện, giáp ranh với các xã Hải Thành và Hải Hòa ở phía Đông, xã Hải Lâm ở phía Tây, xã Hải Trường ở phía Nam, cùng với xã Hải Thiện và Hải Xuân ở phía Bắc.

Về mặt địa lý, làng Diên Sanh ở vào khoảng 16 0 42’30” vĩ độ Bắc và

107 0 15’00” độ kinh Đông, cách huyện lỵ Hải Lăng khoảng 3km về phía Đông và cách thị xã Quảng Trị khoảng 10km về phía Đông nam

Diên Sanh là một làng đồng bằng lớn, có chiều dài 6.732m từ Đông sang Tây và chiều rộng 5.584m từ Bắc xuống Nam, với tổng diện tích tự nhiên khoảng 2.227,25 ha, chiếm 4,54% diện tích toàn huyện.

Với vị trí địa lý thuận lợi và sự kết nối qua đường quốc lộ 1A cũ và tỉnh lộ 8, vùng đất này đã đóng vai trò quan trọng trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.

Nghiên cứu lịch sử khai phá làng Diên Sanh xưa đồng nghĩa với việc tìm hiểu về xã Hải Thọ hiện nay Trong giai đoạn từ thế kỷ XIV đến XVIII, Diên Sanh chỉ bao gồm bốn thôn: 1, 2, 3, 4, trong khi các thôn khác chỉ được hình thành từ thế kỷ XIX trở đi Để có cái nhìn tổng quát và toàn diện về sự phát triển, chúng tôi đã sử dụng số liệu hiện tại của toàn xã.

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CAO HỌC CHUYÊN NGÀNH LỊCH SỬ VIỆT NAM

Trong hai thời kỳ quan trọng, Diên Sanh đã đóng vai trò là lỵ sở của huyện Hải Lăng cũ, cung cấp lương thực và thực phẩm cho các chiến khu của huyện và tỉnh Đồng thời, nơi đây cũng là địa bàn mà đế quốc Mỹ - ngụy sử dụng làm căn cứ cố thủ sau thất bại tại Quảng Trị năm 1972 Do đó, Diên Sanh được coi là một trong những điểm có vị trí chiến lược quan trọng đối với huyện Hải Lăng.

Sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước vào năm 1975, Diên Sanh đã phát huy những lợi thế của mình và giữ vững vị trí là trung tâm kinh tế, văn hóa và xã hội của huyện Hải Lăng trong thời kỳ mới.

Địa hình, thổ nhưỡng

Đất tự nhiên tại Quảng Trị được chia thành hai hệ thống chính: hệ đất phù sa hình thành từ các trầm tích do sông, suối và biển bồi đắp, và hệ đất feralít phát triển trên nền địa chất đa dạng của địa hình đồi núi Đặc biệt, đất ở Diên Sanh thuộc hệ đất phù sa, được bồi đắp bởi hệ thống sông cổ và biển.

Theo các tài liệu địa chất, khoảng 6000 năm trước, nước biển đã xâm lấn đồng bằng ven biển các tỉnh Trung Trung bộ Các di tích sinh vật biển phong phú được phát hiện trong các mẫu đất từ các lỗ khoan, phân bố rộng rãi từ Quảng Bình đến Thừa Thiên - Huế, chủ yếu bao gồm bột cát và sét màu xám, với lớp dưới cùng thường chứa sét có di tích thực vật và than bùn.

Vào thời điểm đó, hầu hết khu vực Hải Lăng, bao gồm cả Diên Sanh, bị ngập trong nước biển, khiến diện tích đồng bằng bị thu hẹp tối đa, buộc con người phải di dời và sinh sống dọc theo chân núi.

Trong khoảng thời gian từ 5000 đến 4000 năm trước, biển đã thoái lui dần, tạo điều kiện hình thành đồng bằng với thành phần chủ yếu là bột sét, cát, sét và than bùn, có độ dày từ 8 đến 10 mét.

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CAO HỌC CHUYÊN NGÀNH LỊCH SỬ VIỆT NAM

Diên Sanh hiện tọa lạc trên vùng đồng bằng trung tâm huyện, với địa hình bằng phẳng và đất đai đa dạng bao gồm đất ruộng, đất trằm, đất hoang hóa, đất đồi cát trắng và đất bán sơn địa, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, đặc biệt là trồng các loại cây ngắn ngày như lúa, khoai và đậu Khu vực trồng rừng cũng có sự xen kẽ của những đồi cát nhỏ, trong khi các khe suối cạn phân chia rõ rệt giữa vùng sản xuất nông nghiệp và vùng lâm nghiệp.

Diên Sanh không có sông lớn, chỉ có một số tuyến sông và kênh mương nhỏ, ngắn, kết nối với hệ thống sông Ô Giang, cung cấp nước tưới cho sản xuất và sinh hoạt.

Hiện tại, chưa có nghiên cứu nào đánh giá trữ lượng nước ngầm tại làng, nhưng qua khảo sát một số giếng đào sâu từ 10-15m cho thấy chất lượng nước bị nhiễm phèn ở mức cao.

Khí hậu, thời tiết

Theo Dương Văn An trong Ô châu cận lục mô tả thời tiết ở Diên Sanh và Quảng Trị với bốn mùa rõ rệt: mùa Xuân và Hạ thường nắng, trong khi mùa Thu và Đông thường mưa Khí hậu nơi đây ít rét và ấm nhiều, thường có bão lớn và ít cảnh trăng thanh vào trung thu Đại Nam nhất thống chí bổ sung thêm rằng tháng Giêng và Hai có khí hậu ôn hòa, tháng Ba nắng gắt, tháng Tư trở đi có gió nam mạnh Tháng Sáu và Bảy nóng nực, tháng Tám có gió mát, và tháng Chín, Mười có gió đông và bão Sau tiết lập đông, mưa lạnh nhiều, nhưng khi có gió bấc, trời sẽ tạnh và ấm dần khi có ánh nắng.

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CAO HỌC CHUYÊN NGÀNH LỊCH SỬ VIỆT NAM

Khí hậu Diên Sanh, giống như nhiều vùng khác ở Quảng Trị, rất khắc nghiệt với gió Tây Nam khô nóng, bão và mưa lớn Thời tiết biến động mạnh và diễn biến thất thường đã gây ra nhiều khó khăn cho người dân trong sản xuất và đời sống hàng ngày.

Vì nằm hoàn toàn trong nội chí tuyến bắc bán cầu, mỗi năm, mặt trời sẽ đi qua đỉnh hai lần vào tháng 5 và tháng 8, dẫn đến bức xạ cao nhất vào tháng 5 và thấp nhất vào tháng 12 Tổng lượng bức xạ trong năm dao động trong một khoảng nhất định.

70 - 80 Kcalo/cm 2 năm), những tháng mùa hè có khi cao gấp 2 - 3 lần những tháng mùa đông Tổng số giờ nắng trung bình hàng năm dao động từ 1700 -

1800 giờ Số giờ nắng nhất vào là tháng 7 (240 - 250 giờ) Nhiệt độ trung bình hàng năm dao động từ 20 25 - 0 C

Mùa mưa tại đây kéo dài từ tháng 9 đến tháng 1 năm sau, chiếm khoảng 75 - 85% tổng lượng mưa hàng năm Tháng có lượng mưa lớn nhất là từ tháng 9 đến tháng 11, với lượng mưa khoảng 600mm Ngược lại, tháng 2 là tháng có lượng mưa thấp nhất trong năm.

Tổng lượng mưa hàng năm dao động từ 2000 đến 2700mm, với số ngày mưa từ 130 đến 180 ngày Độ ẩm tương đối trung bình, tháng ẩm nhất đạt từ 85 đến 90%, trong khi tháng khô thường dưới 50%, có lúc xuống tới 30% Khu vực này được chia thành hai mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô.

Vào mùa khô, còn có gió Tây nam - người dân vẫn thường quen gọi là

Gió Lào là hiện tượng thời tiết đặc trưng với không khí khô nóng thổi từ Lào, thường xuất hiện vào những ngày có nhiệt độ vượt quá 35°C và độ ẩm dưới 50% Mùa gió Lào kéo dài từ tháng 3 đến tháng 9, với mức độ gay gắt nhất diễn ra từ tháng 4 đến tháng 8 Trung bình, mỗi năm có từ 40 đến 60 ngày chịu ảnh hưởng của gió khô nóng này.

Quảng Trị, đặc biệt là Diên Sanh, thường xuyên chịu ảnh hưởng của bão trong mùa bão từ tháng 7 đến tháng 11, với tháng 9 và 10 là thời điểm có nhiều bão nhất Theo thống kê trong 98 năm, khu vực Bình Trị Thiên đã hứng chịu 75 cơn bão, trung bình 0,8 cơn bão mỗi năm, có năm không có bão và có năm liên tiếp xuất hiện 2-3 cơn bão Bão gây ra gió xoáy mạnh và mưa lớn kéo dài từ 2 đến 5 ngày, dẫn đến lũ lụt nghiêm trọng Mưa do bão và áp thấp nhiệt đới chiếm tới 40-50% tổng lượng mưa trong các tháng 7 đến 10, với lượng mưa từ một cơn bão có thể lên tới 300-400mm, thậm chí 1000mm.

Giao thông (đường bộ, đường thủy)

Hệ thống giao thông vận tải ở Việt Nam đến thế kỷ XIX chủ yếu là đường bộ, được chia thành ba loại: đường Quốc lộ, đường hàng tỉnh và đường hàng xã Vào năm 1402, Hồ Hán Thương đã cho xây dựng con đường thiên lý từ Tây đô (Thanh Hóa) đến Hóa châu, và qua các thời kỳ, con đường này ngày càng được mở rộng và kiên cố Năm 1809, vua Gia Long ra lệnh trồng thêm cây hai bên đường để chống xói mòn Theo một tác giả ngoại quốc viết năm 1812, con đường lớn nối Phú Xuân (Huế) và Bắc Kinh (Hà Nội) được mô tả là khá đẹp, dù không lát gạch hay đá, nhưng được củng cố bằng gạch đá vụn và cọc ở những chỗ không vững chắc.

Con đường thiên lý tại Diên Sanh đã được ghi chép trong địa bạ năm 1816, với chiều dài 2020 tầm (~ 4282,4m), chạy qua khu vực giữa làng và giáp ranh với xã Trường Sanh và xứ Quán Dê, xã Mai Đàn Bên cạnh con đường chính này, còn có nhiều con đường mòn tự nhiên khác xuất hiện trong khu vực, tạo nên hệ thống giao thông đa dạng cho làng Diên Sanh.

“Đi nhiều thành đường” phản ánh sự hình thành của những con đường nhỏ nối liền các làng xóm và đê dọc theo các con hói, đáp ứng nhu cầu di chuyển của người dân Diên Sanh, với vai trò là lỵ sở huyện, có trường học và chợ Kẻ Diên sầm uất, đã trở thành trung tâm giao thương Thời kỳ Pháp thuộc, thực dân Pháp mở rộng đường thiên lý và trải nhựa để phục vụ cho việc khai thác, tuy nhiên, hàng cây ở khu vực làng Diên Sanh đã bị chặt hạ Con đường này vẫn tiếp tục được sử dụng làm Quốc lộ cho đến những năm 1967-1968.

Mỹ đã mở rộng tuyến Quốc lộ 1A, trong khi con đường thiên lý cũ vẫn tồn tại và kết nối Diên Sanh với nhiều xã khác trong huyện.

Giao thông ở Diên Sanh hiện nay chủ yếu dựa vào hệ thống đường bộ hoàn chỉnh, kết nối đến từng thôn, làng và hộ gia đình Hầu hết các con đường đều được trải nhựa hoặc bê tông, với tỉnh lộ 8 nối Diên Sanh với nhiều xã khác trong huyện, giúp việc di chuyển trở nên dễ dàng Ngoài ra, Diên Sanh còn có bến xe khách với các tuyến ô tô đến Huế, Đà Nẵng và các địa điểm khác như Quảng Trị, Đông Hà, cửa khẩu Lao Bảo.

( ) Hói là một nhánh sông nhỏ, hẹp được đào để dẫn nước, tiêu nước 2

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CAO HỌC CHUYÊN NGÀNH LỊCH SỬ VIỆT NAM

Ga Diên Sanh gần 4 km, nên người dân cũng có thể đến Huế hoặc Quảng Bình bằng tàu lửa rất thuận tiện

Trước đây, khu vực chợ Diên Sanh từng có một bến đò dọc, nơi người dân các làng lân cận sử dụng ghe để giao thương qua con hói Con hói này chảy dài qua nhiều đồng ruộng và làng mạc trong huyện, cuối cùng đổ ra phá Tam Giang, thuộc huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế.

Hiện nay, giao thông đường thủy tại đây đã không còn phổ biến, do sự phát triển của giao thông đường bộ và các phương tiện hiện đại đã mang lại sự nhanh chóng và tiện lợi hơn cho người dân.

Lịch sử

1.2.1 Thời kỳ trước thế kỷ XIV

Quảng Trị, từ thời kỳ nguyên sơ, đã là nơi giao thoa của nhiều nền văn hóa của con người tiền sử Khảo cổ học tại Quảng Trị, đặc biệt trong giai đoạn 1992, đã phát hiện nhiều di tích quan trọng, chứng minh sự đa dạng văn hóa và lịch sử phong phú của khu vực này.

Năm 1993, việc phát hiện đồ đá cũ thuộc văn hóa Sơn Vi tại Cùa và đồ đá giữa thuộc văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn ở Lao Bảo, Khe Sanh, Tân Lâm đã khẳng định rằng không gian văn hóa Sơn Vi và Hòa Bình không chỉ giới hạn ở các vùng sông Nhị, sông Lam, sông Mã và thung lũng Karstic Bắc bộ mà còn mở rộng về phía Nam, đến Trung Trung bộ và Quảng Trị Điều này đã làm phong phú thêm di sản văn hóa cổ tại Quảng Trị, đưa lịch sử vùng đất này lùi về khoảng 15.000 đến 30.000 năm trước.

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CAO HỌC CHUYÊN NGÀNH LỊCH SỬ VIỆT NAM

Vào thời kỳ đồ đá mới, văn hóa nông nghiệp ở Quảng Trị đã phát triển mạnh mẽ, với các hình thức trồng khô và trồng nước xuất hiện tại các vùng đồi Basaltic, Cồn - Bàu và trằm ruộng trên triền cồn cát Đông - Tây từ 2.500 đến 5.000 năm trước Nhiều bộ sưu tập rìu đá mài loại tứ giác và có vai đã được phát hiện tại Hướng Hóa, Ba Lòng, Hải Lăng, nhờ vào công trình nghiên cứu của các học giả Pháp như Madelen Colani và Cadière, cũng như các nhà nghiên cứu từ Khoa Sử, Đại học Khoa học Huế trong những thập niên đầu thế kỷ XX và gần đây.

Dọc hai bờ sông Đakrông và thượng nguồn sông Thạch Hãn, người dân huyện Hướng Hóa đã phát hiện nhiều di tích thời đại đồ đồng, bao gồm rìu đồng tứ giác, giáo đồng, lưỡi câu đồng và nhiều đồ trang sức như khuyên tai và hạt mã não Những hiện vật này mang đậm phong cách văn hóa Đông Sơn, phản ánh sự phong phú của lịch sử và văn hóa vùng núi.

Những phát hiện này cho thấy sự phát triển liên tục của con người ở Quảng Trị từ thời kỳ cuối đá mới đến sơ kỳ kim khí, khoảng 4.000 đến 3.000 năm trước, trong giai đoạn chuyển tiếp từ văn hóa Bàu Tró đến văn hóa Sa Huỳnh Tuy nhiên, hiện tại, Quảng Trị vẫn chưa phát hiện được dấu vết cư trú hoặc di cốt của con người tại các điểm khai quật.

Theo các tài liệu địa chất, các dấu vết của đống vỏ nhuyễn thể sò điệp nằm sâu dưới lòng đất ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế cho thấy vào khoảng 6.000 năm trước, trong thời kỳ Holoxen trung, đã xảy ra một đợt biển tiến lớn Khu vực đồng bằng từ phía Nam đèo Ngang (Quảng Bình) đến Bắc đèo Hải Vân (Thừa Thiên Huế) đã bị chìm trong nước biển Sau đó, mực nước biển đã rút dần vào khoảng 5.000 đến 4.000 năm trước.

Luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành lịch sử Việt Nam hiện nay cho thấy địa hình và địa mạo các tỉnh đã hình thành như hiện tại Việc tìm kiếm dấu vết của con người tiền sử là thách thức, nhưng những chứng cứ hiện có khẳng định rằng Quảng Trị là một trong những vùng đất có sự hiện diện của con người tiền sử từ rất sớm.

1.2.1.2 Th ờ i Hùng V ươ ng đế n cu ố i th ế k ỷ XIII

Theo truyền thuyết và sử liệu, Diên Sanh từng là một phần lãnh thổ của nước Văn Lang thời Hùng Vương, thuộc bộ Việt Thường Năm 208 trước Công Nguyên, khi triều đại Hùng Vương suy yếu, Thục Phán, thủ lĩnh người Âu Việt, đã chiếm Văn Lang, tự xưng là An Dương Vương và đổi tên nước thành Âu Lạc, khiến Diên Sanh trở thành một phần của Âu Lạc Tuy nhiên, vào năm 179 trước Công Nguyên, quan Uý quận Nam Hải Triệu Đà đã xâm chiếm Âu Lạc, tiêu diệt An Dương Vương và lập nên nước Nam Việt, khiến Diên Sanh lại thuộc về nhà Triệu.

Vào năm 111 trước Công Nguyên, khi nhà Triệu suy yếu, vua Hán Vũ đế đã cử Phục Ba tướng quân Lộ Bác Đức và Dương Bộc tiến quân thôn tính nước Nam Việt, chia lãnh thổ thành bảy quận, trong đó có ba quận ở phía Nam thuộc vùng Bắc bộ và Bắc Trung bộ hiện nay: Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam.

Theo Đại Nam nhất thống chí, quận Nhật Nam lại chia thành năm huyện:

Tư Dung, Tỷ Cảnh, Chu Ngô, Tây Quyển và Tượng Lâm Tỷ Cảnh chính là tỉnh Quảng Trị hiện nay [48:18]

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CAO HỌC CHUYÊN NGÀNH LỊCH SỬ VIỆT NAM

Dưới sự thống trị của nhà Hán, nhân dân Nhật Nam, Giao Chỉ và Cửu Chân đã nhiều lần nổi dậy khởi nghĩa Đặc biệt, vào mùa xuân năm

40 (sau CN), ở Giao Chỉ bùng nổ cuộc khởi nghĩa do Hai Bà Trưng lãnh đạo, nhân dân quận Nhật Nam đã nhất tề hưởng ứng

Sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, nhà Hán áp dụng chính sách cai trị khắc nghiệt hơn để khai thác nguồn lực của Âu Lạc Mặc dù phong trào kháng chiến tại Nhật Nam tạm thời lắng xuống, nhưng nó nhanh chóng hồi sinh, đặc biệt tại huyện Tượng Lâm, khu vực cư trú của các bộ tộc Chămpa ở Quảng Nam - Quảng Ngãi, ven sông Thu Bồn - Trà Khúc.

Cổ sử Trung Quốc ghi nhận nhiều cuộc nổi loạn của nhân dân huyện Tượng Lâm vào thế kỷ II, khiến quan binh nhà Hán phải hoang mang Đến cuối thế kỷ II, phong trào này ngày càng phát triển, đạt đỉnh cao với cuộc khởi nghĩa vũ trang giành độc lập của Khu Liên vào năm 190, trong niên hiệu Sơ Bình (190 - 193).

Từ khi giành độc lập đến giữa thế kỷ IV, Lâm Ấp tập trung củng cố thực lực và ít chú ý đến phương Bắc, chỉ đề phòng các cuộc xâm lược Năm 349, sau khi thiết lập chính quyền và quân đội vững mạnh, quốc vương Phạm Văn đã tấn công quận Nhật Nam, đuổi các quan lại Trung Quốc và xác định Hoành Sơn làm biên giới phía Bắc, đồng thời xây dựng thành Khu Túc để tăng cường phòng thủ.

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CAO HỌC CHUYÊN NGÀNH LỊCH SỬ VIỆT NAM chiếm được này chia làm năm châu: Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh ( ) 3 , Ô, Lý (hay Rí) [36:14]

Sự kiện này cho thấy rằng từ năm 349, đất Diên Sanh đã trở thành một phần lãnh thổ của nước Lâm Ấp, khi người Chăm mở rộng ra phía Bắc.

Nguyễn Trãi trong tác phẩm Dư địa chí đã mô tả Chiêm Thành là huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật Nam, thuộc bộ Việt Thường, sau này được gọi là Lâm Ấp Đất nước này có biên giới phía Nam giáp Chân Lạp, phía Tây gần Qua-oa, phía Bắc tiếp giáp Hoan châu, và phía Đông giáp biển Tuy nhiên, đất đai ở đây khá hạn chế, ít ruộng hơn so với vùng màu mỡ Nhật Nam, dẫn đến việc thường xuyên bị xâm lấn bởi các thế lực khác.

Công cuộc khẩn hoang, tạo lập làng Diên Sanh từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVIII 2.1 Giai đoạn từ đầu thế kỷ XIV đến cuối thế kỷ XIV

Thành tựu khẩn hoang ở làng Diên Sanh từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVIII 3.1 Mở rộng diện tích khai phá

Ngày đăng: 10/08/2021, 15:55

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w